Gia Đình Dưới Chân Cầu - Chương 07
Chương
bảy
Cái ngày trước Giáng sinh, bọn nhóc nhà Calcet
chả nói chuyện gì khác ngoài ngôi nhà có bánh xe mà chúng đang chờ Cha Giáng
sinh mang đến cho. Thậm chí cả đám trẻ gypsy cũng náo nức không kém.
“Thế thì chắc chắn sang xuân các cậu
sẽ đi Provence với bọn tớ rồi,” Tinka ra sức rủ rê. “Xe của chú Petro sẽ
kéo nhà các cậu. Cả bọn sẽ hành hương thăm điện thờ thánh Sara.”
“Thánh Sara là ai cơ?” Suzy hỏi. “Tớ
chưa nghe thấy bao giờ.”
Tinka lấy làm lạ. “Nếu cậu đi học
thì tớ tưởng cậu phải biết nhiều hơn chứ,” nó nói. “Chẳng nhẽ cậu không biết
rằng sau khi Đức Chúa Jesus lên thập giá thì thánh Mary Jacobe và thánh Mary
Salome bị kẻ thù của Ngài bắt thả lên chiếc thuyền không có bánh lái lẫn buồm
hay sao? Thánh Sara tất nhiên cũng ở bên họ vì ngài là hầu gái của họ mà. Gió
thổi thuyền của họ đến bờ biển Provence. Bởi thế bây giờ ở đó mới có một nhà thờ
và tượng thánh Sara được đặt trong hầm mộ. Hàng năm cứ đến tháng Năm là người
gypsy lại hành hương đến đấy vì thánh Sara là người gypsy mà.”
“Em muốn đến thăm thánh Sara,” con
bé Evelyne nói.
“Em muốn ra chơi biển Địa Trung
Hải,” Paul tiếp lời.
“Chị cũng muốn đến tất cả những chỗ
đó,” Suzy buồn rầu nói. “Nhưng mình phải học xong cái đã.”
“Không có nhà thì mình cũng có đi
học được đâu,” Paul nhắc. “Mẹ nói gì chị không nhớ à?”
“Nhưng vào đầu học kì mình đã có nhà
rồi còn gì,” Suzy nói. “Đêm nay Cha Giáng sinh sẽ đưa nhà đến.”
Lão Armand than thầm. Ước gì lão làm
cho bọn trẻ quên được vụ cái nhà này đi.
“Có đứa nào thích đi dự tiệc Giáng
sinh đêm nay không?” lão hỏi. “Một bữa tiệc lớn đầy đồ ăn, có cả hàng trăm
người và cả múa hát nữa?”
Đúng như lão tính trước, bọn nhóc
nhà Calcet quên chuyện cái nhà trên bánh xe.
“Ở đâu ạ?” Paul hỏi. “Trong một cung
điện lớn chứ ạ?”
“Không hẳn thế,” lão Armand đáp. “Nó
sẽ diễn ra ở dưới cầu Tournelle.” Thằng Paul xịu mặt. “Nhưng ta xin đảm bảo là
tiệc to,” lão Armand nói tiếp. “Tiệc do người bên nhà thờ Đức Bà đứng ra tổ
chức vào đêm Giáng sinh hàng năm cho những kẻ lang thang cơ nhỡ của Paris, cùng
với các quý bà của họ. Người ta sẽ hát thánh ca và ăn dưa bắp cải với xúc xích
xông khói.”
Mặt thằng Paul lại tươi ngay. “Cháu
thích ăn lắm,” nó nói, “cháu thích nhất là dưa bắp cải với xúc xích hun khói.”
“Không đâu, chưa chắc mẹ đã cho bọn
mình đi,” Suzy nói.
“Cả bà ấy đi cũng được,” lão Armand
nói. “Dù gì thì cũng là tiệc cho những người không nhà cửa cơ mà, cho nên mẹ
mấy đứa còn là thượng khách nữa ấy chứ.”
“Cả người gypsy cũng đi được chứ ạ?”
Suzy hỏi. “Cháu muốn rủ cả Tinka đi cùng.”
Nhưng bọn trẻ gypsy nói bên họ đã có
kế hoạch đêm Giáng sinh cho mình rồi. Tinka chỉ cười và làm ra vẻ bí mật khi
được hỏi về nó.
Cũng lạ là chị Calcet lại đồng ý đến
lễ hội dưới chân cầu. “Năm nay tôi chỉ làm được có thế cho bọn trẻ thôi,” chị
nói. “Mà bọn trẻ lại cứ một hai là Cha Giáng sinh sẽ mang cho chúng một cái nhà
lưu động như của người gypsy. Có lẽ bữa tiệc sẽ làm chúng quên cái ý nghĩ điên
rồ ấy đi.”
Tuy cánh gypsy không đi dự tiệc
nhưng Nikki vẫn đề nghị chở họ đến trên chiếc xe cà khổ của mình.
“Tôi có chút việc bên mạn vườn bách
thảo nên đằng nào cũng phải dùng đến xe mà,” anh giải thích.
Bọn trẻ nhà Calcet sướng quá. Chúng
chưa bao giờ được đi xe hơi cả nên cứ bám rõ chặt ghế ngồi. Jojo thì ngồi ngay
ngắn như thể đã thạo lắm rồi.
Nikki chạy xe trên những con phố
nhỏ, vừa chạy vừa quát tháo người đi đường hoặc xe cộ làm vướng lối. Xe của anh
thì phì phò, lắc lư chao đảo tưởng chừng sắp rã ra đến nơi. Thế mà chẳng sao
cả.
Đó là một đêm trời quang, lạnh lẽo
và tất cả những tượng đài đều được chiếu đèn. Đèn đường ném những dải sáng vắt
qua sông Seine. Chiếc xe cũ kĩ cà rịch cà tang bò qua cầu Tournelle rồi tấp vào
lề đường. Bọn trẻ nhà Calcet nhảy vội xuống. Lão Armand khó nhọc trèo xuống.
Jojo thì chỉ cần nhảy phóc một cái thôi.
Từ trên bậc cấp họ có thể nhìn xuống
buổi tiệc, như lão Armand đã dự báo, đúng là đông nghịt. Một cái lều bạt lớn
được dựng trên bờ sông - cái lều hẳn sẽ làm những người gypsy phát thèm. Trai
gái trong giáo xứ bưng từ lều ra những cái xoong đồ ăn nghi ngút khói. Hương
thơm ấm áp của dưa bắp cải trùm lên tất cả. Đó là thứ làm thằng Paul khoái tỉ
tê.
“Phải xuống nhanh kẻo người ta ăn
hết mất,” nó giục.
Nhưng cặp mắt Suzy lại đang mải
nhóng sang bên kia sông đến cù lao Cite, nơi nhà thờ Đức Bà hiển hiện như một
giấc mơ thánh thiện. Những hàng cột và những chóp nhọn cao mảnh của nhà thờ đẫm
trong ánh đèn.
“Đẹp quá thôi!” Suzy thở dài. “Trông
cứ như được làm trong tiệm bánh ấy nhỉ?”
Còn chị Calcet lại đang ngoái nhìn
một nhà hàng sang trọng phía trên cây cầu, một tổ ong nhân tạo sáng rực rỡ ánh
đèn.
“Những người giàu có ăn mặc đẹp đẽ
ngồi trên đó, bên những chiếc bàn trắng toát,” chị ghen tị thốt lên.
“Và phải xì ra khối tiền cho món ăn
đắt giá làm họ bị khó tiêu,” lão Armand đế theo. “Nào! Món dưa bắp cải này đối
với ta cũng đủ thơm như tiệc rồi.”
Xuống tới bậc cuối rồi họ mới thấy ở
gầm cầu còn đông hơn cả ngoài bờ sông. Bạt được căng ở phía cuối để ngăn gió
lùa, trên đó đính những dải băng đủ màu sắc. Một cây thông trang hoàng rực rỡ
đặt trên một bệ cao làm bằng ván gỗ. Những lò sưởi than củi đặt xung quanh để
sưởi ấm không gian và rất đông khách khứa rách rưới đang xúm quanh đó. Số khác
ngồi trên vệ đường ăn ngấu nghiến từ những chiếc bát bằng thiếc. Mấy bà lang
thang ngồi dựa vào thành cầu nói chuyện thời cuộc, chuyện thùng rác và bệnh
cước. Nhưng phần lớn dân vô gia cư chỉ đứng vậy chờ một điều gì đó xảy ra.
Lão Armand ngăn một cô gái bưng mấy
cái bát thiếc. “Đây mà!” lão nói. “Đã bảo chúng tôi chờ ở đây cơ mà.”
Lão dẹp chỗ cho mẹ con nhà Calcet
ngồi dọc vệ đường, nhưng chị Calcet vẫn cứ đứng.
“Để tôi giúp cô bưng đồ ăn,” chị đề
nghị. “Thực ra tôi không phải ăn xin.”
Ngoài dưa bắp cải và xúc xích hun
khói còn có súp, thịt heo, phô mai và cam. Lão Armand cứ chén đến no căng. Rồi
họ chọn những miếng ngon cho Jojo. “Phải ăn dự trữ cho cả Giáng sinh sau, giống
như lạc đà ấy,” lão Armand bảo bọn trẻ.
Chúng thì khỏi cần phải giục. Nhưng
Suzy lại cứ hỏi mãi. "Khi nào mình về a?"
“Bay không thích bữa tiệc sao?” lão
Armand hỏi. “Xem kìa! Ông trên sân khấu kia sắp chơi accordion cho tất cả cùng
hát thánh ca đấy. Bay không muốn bỏ về bây giờ đó chứ?”
“Không phải ạ,” Suzy nói. “Chẳng qua
là cháu sốt ruột muốn xem Cha Giáng sinh đem cái nhà gypsy đến quá.”
Lão Armand ngừng nhai miếng xúc xích
đang ăn dở. Lại thế rồi. Bây giờ mà về lại đó thì bọn nhóc chỉ có mà thất vọng
muốn chết. Lão không chịu nổi cái ý nghĩ phá hỏng buổi tối tuyệt vời với đồ ăn
miễn phí và chơi vui thế này. Lão hạ giọng.
“Nghe này,” lão bảo bọn trẻ. “Cha
Giáng sinh bắt ta phải hứa không được tiết lộ, có điều sẽ không có nhà trên
bánh xe nào cho mấy đứa đâu. Năm nay bọn nhóc gypsy nhiều đứa xin nhà quá nên
hết sạch cả rồi.”
“Không còn cái nào cho chúng cháu
sao ạ?” Suzy hỏi bằng thanh âm run rẩy. Ánh lửa bập bùng từ lò than khiến những
giọt nước mắt trên mi nó lấp lánh như kim cương. “Ý ông là ông ấy sẽ không cho
một cái nhà nào cả ạ?”
“Ta không nói thế,” lão Armand chống
chế. “Ồ, ta nhẽ ra cũng không được nói, nhưng thật ra là ông ấy đang xây cho
mấy đứa một cái nhà bên mạn Neuilly cơ. Khổ nỗi nó chưa xong. Chỉ có mấy ngày
nghỉ Giáng sinh làm sao mà xây cho xong được, đúng không nào? Phải từ từ. Thậm
chí người ta còn chưa bắc xong đường ống nước nữa kia.”
Mắt Suzy lại lóe sáng hơn cả kim
cương. “Một ngôi nhà thật hả ông?” nó hỏi lạc cả giọng. “Nhà cất trên mặt đất
á?”
Lão Armand gật đầu. “Nhưng không
được nói cho mẹ biết,” lão dặn. “Nhớ đấy. Đáng lẽ ta cũng không được phép nói
cho mấy đứa biết đâu. Ta đã hứa chắc với Cha Giáng sinh là sẽ giữ bí mật rồi.”
Nhưng bọn nhóc còn đang quá bận bịu
chả có lúc nào mà kể với mẹ. Mẹ chúng cũng quá bận bịu vì có thêm nhiều người
vô gia cư hơn dự kiến kéo đến dự tiệc. Nhưng phân phát dưa bắp cải và xúc xích
thì dễ thôi.
Sau đó dân bụi đời và vợ con, bạn bè
cùng hát những bài Giáng sinh theo tiếng đàn accordion. Giọng của họ hầu hết
khàn đặc và lạc hẳn điệu, nhưng với họ thì nghe vẫn thật du dương.
Đến nửa đêm thì lão Armand sửa soạn
về. Lão ôm cái hộp cạc tông to tướng được tặng trong lều như món quà Giáng
sinh. Lão biết trong đó đầy những mứt, trái cây và thuốc lá. Đó sẽ là món quà
Giáng sinh của lão cho các bạn gypsy.
Nhưng chị Calcet thì không nghĩ đến
chuyện về ngay. “Mình phải qua bên đám lễ mi-sa nửa đêm ở bờ sông đã,” chị nói.
“Có một cô nói với tôi thế.”
Một bàn thờ được đặt ở bờ Tournelle
ngay giữa trời. Vị linh mục trong chiếc áo lễ màu sáng, cùng các chú phụ lễ
theo sau, đang bước đến bàn thờ đúng vào lúc lão Armand và mẹ con nhà Calcet
tới nơi. Nhiều người vô gia cư cũng ở lại xem lễ.
Evelyne ngủ vùi trên tay mẹ. Jojo
yên lặng và nghiêm trang, mặc dù đây là lần đầu nó đi lễ nhà thờ.
Lão Armand bứt rứt lắc lư đổi chân
liên tục. Đã lâu lão không đi lễ. May mà lễ này lại ở ngay ngoài bờ sông. Chứ
những nhà thờ đẹp đẽ ngời ngời thì đố mà lôi được lão vào.
Còn một điều nữa khiến lão bụi đời
bứt rứt. Cảnh ngộ của cái gia đình này. Chả hiểu làm sao lão lại mắc cứng với
họ thế nhỉ? Điều gì đã xua lão chui vào cái bẫy này chứ? Đó là cái cách lũ sáo
đá kia nài nỉ lão ở lại với chúng. Chúng lấy trộm mất trái tim của lão như thế
đó. Xưa nay chưa từng có ai khiến lão cảm thấy họ cần mình. Còn bây giờ thì lão
lại nói dối họ. Chẳng có cái nhà nào đang xây cả phải cho họ.
Trong nỗi khổ tâm, lão ngước mắt
nhìn lên phía trên bàn thờ - lên những vì sao trên bầu trời Paris. “Lạy Chúa,”
lão mấp máy môi không thành tiếng, “con không còn nhớ phải cầu nguyện thế nào.
Giờ đây con chỉ biết van xin. Vậy nên con van xin Người hãy tìm cho gia đình
này một mái ấm.”
Đến đó thì lão chợt xấu hổ nhận ra
mình đang chìa cái mũ bê rê theo cách vẫn xin ăn hàng ngày. Lão vội chụp nó lên
đầu.
Khi cả nhóm về đến trại lúc rạng
sáng thì thấy người gypsy đều đã dậy hết, kể cả Petro. Chẳng mấy chốc họ đã hiểu
vì sao.
“Nhìn này!” Tinka vui vẻ kêu lên. Nó
chỉ vào một cây thường xanh đẹp đẽ trước ngôi nhà gypsy. “Chúc mừng Giáng
sinh!” nó reo lên.
Cái cây có màu xanh nõn khác thường
với những cái gai mềm tựa lông. Trên những cành duyên dáng buộc những gói quà
nho nhỏ bọc giấy màu đỏ, trắng và lam dường như được nhặt ở gần chợ Halles.
Trên đỉnh ngọn cây treo một ngôi sao bằng đồng giống như miếng vá mà người
gypsy dùng để vá xoong nồi.
“Tôi dám cá đây là cái cây tươi
nhất, xinh nhất Paris,” Nikki kiêu hãnh nói. “Tôi chặt ở vườn bách thảo mới vài
giờ trước thôi. Mà cái biển treo ở đó nói rằng đây là loài cây rất quý hiếm ở
mãi bên Ấn Độ cơ đấy.”
Bọn trẻ gypsy gỡ những gói nhỏ trên
cây xuống và đưa cho bọn trẻ nhà Calcet. Bên trong là hạt dẻ, kẹo cùng những
món đồ chơi bằng nhựa.
“Bọn tớ thích tặng quà,” Tinka giải
thích. “Có lẽ là vì một trong các nhà thông thái mang quà đến cho Chúa Hài Đồng
người gypsy.”
“Tớ chưa từng nghe chuyện đó,” Suzy
nói.
Tinka thất vọng nhìn cô bạn. “Thế
thì cậu học được những gì ở trường ngoài mấy cái chữ kia?” nó hỏi.
Nhưng Suzy chưa kịp trả lời thì lão
Armand đã tặng cái hộp cạc tông của mình cho người gypsy. Lão còn bảo đó là quà
của cả mẹ con nhà Calcet nữa. Nhưng ngạc nhiên lớn nhất lại là dành cho chính
lão. Chị Calcet lấy ra một gói nhỏ bọc kĩ bằng giấy báo. Một mùi hương thơm
ngát bao quanh gói quà. Lão mở ra và thấy đó là một thỏi xà bông màu hồng láng
bóng. Lão cứ trân trối nhìn nó. Rồi trầm ngâm hít ngửi một hơi.
“Đúng là thứ tôi cần,” lão lịch sự
cảm ơn chị Calcet.