Gia Đình Dưới Chân Cầu - Chương 05

Chương
năm

Lão Armand cau cau có có đẩy chiếc
xe nôi dọc theo bờ sông. Lão đi qua một gầm cầu nữa. Cái gầm cầu này có vẻ sâu
và đầy mời gọi, lại có cả những vòng sắt rất tiện cho lão máng đồ lên. Nhưng
các tàu chữa cháy của Paris lại cập ngay đấy.

“Có cháy ở đâu đó gần bờ sông là cả
Paris kéo tới ngay trên đầu mình cho xem,” lão Armand lầu bầu.

Thế là lão lại lóc cóc sang nơi
khác. Lão chỉ dừng lại một lần xem một ông đang kéo dây câu vì tưởng sẽ có một
con cá to. Té ra chỉ là một chiếc giày ướt sũng.

“Chà, hi vọng của người ta rồi ra
đều thế cả, ông ạ,” lão Armand buồn rầu bảo ông câu cá. Thế rồi lão sung sướng
nhảy cẫng lên. “Cùng đôi với chiếc giày trong xe của tôi,” lão reo. “Ðúng y
rồi!”

Ông câu cá gỡ chiếc giày ra và đưa
nó cho lão Armand. “Ô là la, thưa ông,” lão lang thang nói, “chứng tỏ là đừng
bao giờ từ bỏ hi vọng.”

Rốt cuộc lão lang thang cũng tìm được
một cái gầm cầu vừa ý. Lão cẩn thận trải tấm bạt như một người đàn ông của gia
đình trải tấm thảm trong ngôi nhà mới.

“Không ấm cúng bằng căn phòng con bé
hoàng yến nó làm cho mình,” lão thừa nhận. “Lạ là mấy đường kẻ đen đen trên nền
bê tông thế mà cũng che được gió lùa cơ đấy.”

Và đêm đó lão ngủ không yên giấc.
Lão cứ nghĩ đến bọn trẻ. Chúng có đủ ấm không? Chúng có thấy cô quạnh không? Lão cố giả bộ như
mình đang buồn vì cơn cớ gì khác. “Ðó là cây cầu của mình kia mà,” lão nói
thành tiếng. “Cái nhà ấy không có quyền đuổi mình ra khỏi tài sản của mình.
Mình phải trở lại đòi quyền của mình mới được.”

Sáng hôm sau thức giấc, lão Armand
nhận thấy đêm qua tuyết nhẹ đã rơi. Lão ngồi lên, dụi mắt nhìn ra bờ sông. Chỉ
qua một đêm, Paris đã chuyển thành màu trắng. Ðó là một cảnh tượng thật đẹp cho
những ai đứng trong phòng ấm mà nhìn qua cửa sổ. Nhưng bọn trẻ lúc này đang làm
gì? Hẳn chúng sẽ chơi trong tuyết đến chết cóng mất vì không có người lớn trông
chừng.

“Mình sẽ cho họ biết,” lão hậm hự.
“Mình sẽ quay lại liền bây giờ để nói cho ra nhẽ. Ðể xem có dám đuổi mình đi
nữa không.”

Thế là lão hấp tấp đẩy cái xe nôi
quay lại, bánh xe hằn những vệt đen ướt trên mặt tuyết. Chả có ma nào ở chỗ mấy
cái tàu chữa cháy. Nhưng khi lão đến gần gầm cầu cũ thì có hai bà mặc áo lông
đang đi dưới ke. Lão Armand hốt hoảng nhận thấy vết chân họ dẫn đến cái lều
dựng sát tường. Lão cố bước thật nhanh. Lúc hai bà kia đi ngang, cả hai cùng
ngoái sang nhìn lão.

“Một sinh linh khốn khổ đáng
thương!” bà mặc áo lông đen phán một câu.

“Hẳn chúng ta có thể cứu giúp được
ông ta đấy,” bà mặc áo lông nâu tiếp lời.

“Thôi thôi, đi mà cho bồ câu ăn thì
có ấy,” lão Armand giễu.

Vết chân to bè của lão xóa hết dấu
chân của họ trên mặt tuyết đang tan. Lão vén tấm bạt. Bọn nhóc đang khóc rưng
rức.

“Có chuyện gì thế?” lão hỏi. "Vẫn
còn khóc vì ta bỏ đi cơ à? Chúng bay phải biết là ta sẽ quay lại chứ."

Suzy kéo Evelyne lại gần. “Có hai bà
đến đây nói chuyện với chúng cháu,” nó khóc rấm rứt. “Họ bảo đi kêu người đến.”

“Họ định đem chúng cháu bỏ vào đâu
đó,” Paul quệt nước mắt nói.

“Họ còn bảo sẽ nhốt mẹ vào tù,” Suzy
nức nở. “Ôi, ông Armand, ông cứu chúng cháu với. Xin ông đừng giận mẹ chúng
cháu.”

Lão Armand vò vò cái mũ bê rê trên
mái đầu bạc. Bây giờ thì nồi súp đã bị hắt vào bếp lửa rồi. Lão biết mấy kẻ
kiểu hai bà mặc áo lông thú đó lắm chứ. Cứ nhăm nhăm cố bắt cánh lang thang
phải làm việc hoặc rửa mặt rửa mũi hoặc đọc sách cơ. Giờ lại còn đi nhặt cả trẻ
con nữa. Cứ phải dẹp bằng hết cái nạn bụi đời mới được cơ. Ðây thực ra không
phải là việc của lão, nhưng Mireli nói đúng. Cái đám lít nhít này... Lão sụp
cái mũ bê rê xuống thật chặt. Ðúng quá rồi. Mireli!

“Mấy đứa mau chất hết đồ đạc lên
xe,” lão ra lệnh. “Phải chuồn khỏi đây cho nhanh. Mấy mụ kia một khi đã quyết
cứu giúp những kẻ khốn cùng thì không chịu thua dễ dàng đâu.”

Rồi lão giúp bọn trẻ một tay thu dọn
xoong chảo và gấp chăn mền. Lão hạ tấm bạt và trùm nó lên xe.

“Nhưng mình đi đâu bây giờ?” Suzy
hỏi.

“Mẹ không biết mình ở đâu,” Paul kêu
lên. “Mình không thể bỏ mẹ lại được. Mẹ là phần chính của gia đình mình mà.”

“Ta sẽ quay trở lại cho bà ấy biết
mấy đứa ở đâu,” lão Armand nói. “Ta đã tìm được tổ cho chúng bay rồi.”

Lão giúp bọn trẻ kéo chiếc xe đẩy
lên các bậc cấp. Rồi vì chân Evelyne bị cóng nên lão đặt nó ngồi lên trốc đống
đồ của mình trên chiếc xe nôi. Lão đẩy xe qua mấy cây cầu xuống phố. Suzy và
Paul đẩy chiếc xe đẩy theo sau.

“Em mà lớn,” Paul nói, “thì mấy bà
đó đừng hòng hống hách như thế.”

“Mình đi đâu hả ông?” Suzy hỏi khi
đã ra đến phố Rue de Rivoli. “Ðến cầu cứu Cha Giáng sinh ạ?”

Lão Armand ngoái lại. “Không cần
phải nhờ đến Cha Giáng sinh,” lão nói. “Ðã có ta ở đây. Với lại ông ấy cũng
đang bận lắm. Còn bốn ngày nữa là đến Giáng sinh rồi.”

“Ông sẽ báo ông ấy là chúng cháu
chuyển đi chứ ạ?” Suzy lo lắng hỏi. “Nhỡ đâu ông ấy tìm được cách đem ngôi nhà
đến cho chúng cháu thì sao?”

“Khỏi lo đi,” lão Armand nói. “Cứ để
ta.”

Ðáng lẽ dẫn chúng đi xuôi theo phố
Rue de Rivoli thì lão lại chờ xe cộ dừng và ra hiệu cho bọn trẻ đẩy xe bám sát
mình. Cả bầu đoàn líu ríu băng qua đường, vừa sang đến nơi thì một chiếc taxi
đã kịp té nước bẩn lên người mấy ông cháu. Nhưng họ vẫn đi, sát bên nhau.

Trước mặt họ lù lù hiện ra một nhà
kho khổng lồ. Nó to bằng cả một nhà ga xe lửa, cũng đen cũng ồn ào như thế.

“Ðây là Halles,” lão Armand bảo bọn
trẻ. “Ðây là chợ lớn trung tâm, nơi cung cấp toàn bộ đồ ăn cho Paris.”

Bọn trẻ rảo hẳn chân khi nghe thấy
hai tiếng “đồ ăn”.

"Cháu đói," Paul nói.

“Ở Halles thì khỏi lo đói đi,” lão
lang thang nói. “Ở đây mọi thứ đều bán sỉ. Nhưng một tay như ta thì đôi khi
cũng xoay xở được ít đồ ăn. Ta sẽ thử xem sao.”

Bọn trẻ trông thấy cả mấy con phố
ken đầy những gian kho đen xì. Giờ thì chúng phải đi đứng thật cẩn thận. Vỉa hè
ngổn ngang những thùng những sọt. Còn lòng đường phủ đầy giấy rách màu đỏ, màu
trắng, màu xanh.

Bọn trẻ vấp lia lịa vì cứ mải tròn
mắt nhìn ngó các thứ. Những thùng trái cây và rau củ làm thành những bức tường
quanh chúng. Hàng dãy dài hun hút treo đầy trên các móc những súc thịt nào bò,
nào cừu, nào heo. Cánh đàn ông qua lại vác những cái sọt to đựng đầy giò heo và
đầu bê.

Một ông đang nhấc một cái thùng rất
to. Ông này đội một cái mũ kì dị trông chẳng khác nào một nhân vật trong hội
hóa trang.

“Ai thế hả ông?” Suzy chỉ ông ta và
hỏi. “Sao ông ấy lại đội cái mũ buồn cười thế ạ?”

“Ðó là một trong những người mạnh
nhất,” lão Armand đáp. “Ông ta hết sức tự hào với cái mũ đó vì đội nó thì người
khác biết ngay một lần ông ta vác được cả hơn hai trăm cân.”

“Ông có vác được thế không?” Paul
hỏi.

Lão Armand nhún vai. “Ô là la! Chưa
biết đâu,” lão nói.

Họ vội vã đi qua những chiếc xe tải
đâu đuôi vào vỉa hè và các dãy bàn nơi người mua người bán đang ngã giá.

Lúc ra đến con phố phía sau Halles,
lão Armand gặp rất nhiều bạn cũ. Những người đàn ông và đàn bà rách rưới đang
nhặt nhạnh các thứ rau quả cũ bị vứt ra rãnh nước.

“Chào Charlot.” Lão vẫy tay chào một
ông mắt mũi kèm nhèm mặc bộ đồ túm lại với nhau bằng kim băng. “Chào buổi sáng,
Marguerite,” lão chào một bà mặc đồ đàn ông. “Có tìm được viên kim cương nào
trong thùng rác không thế?”

Rồi lão vấp phải chiếc xe đẩy bằng
sắt sáu bánh do một ông đội mũ cao và mặc quần lụng thụng đẩy qua. “Ơ kìa, có
phải Louis không,” lão thốt lên. “Ðang kiếm tiền để thuê cái hầm chuột chũi
ngoài Place Maubert đấy hả?”

Lão Louis cười móm mém. “Tôi có thể
kiếm việc cho anh hôm nay đấy, người ta cần thêm người đẩy xe. Lúc nào cũng cần
cả.”

Lão Armand đi tiếp. “Thì tôi đang
đẩy đây,” lão nói. “Mà anh không thấy tôi cũng có khối đứa đẩy cùng đây à. Chào
nhé.”

Bọn trẻ không muốn rời Halles tí
nào. Chúng thích sự ồn ào và nhộn nhịp.

“Nhiều đồ ăn thế kia,” Suzy nói, “ông
không nghĩ người ta có thể chia cho mình một ít ạ?”

Họ tiếp tục đẩy xe ngang qua nhà thờ
St. Eustache rồi vào một con phố lổn ngổn toàn xe đẩy. Cứ như thể cái chợ khổng
lồ đã làm chảy tràn ra con phố này những dòng quầy cá và thịt dọc hai bên vỉa
hè.

Paul dừng lại, nhìn vào cửa sổ một
tiệm cà phê có những con chim sặc sỡ của Nam Mỹ nhồi rơm đứng làm dáng trước
các bao tải cà phê hạt để mở.

Mặt đường trải nhựa kết thúc khi phố
Rue de Montorgueil nối vào phố Rue de Petits Carreaux. Giờ thì họ đi trên những
viên sỏi lát đường, nhỏ đến nỗi trông cứ như tranh ghép.

Lão Armand giữ chúng lại khi đến
ngang một tòa nhà có ba cái đầu Ai Cập đen trổ ra phía trước. Lão trỏ vào cái
ngõ hẹp vòng vèo.

“Ðây là một phần của điện Thần Diệu
cổ đấy,” lão nói. “Ở Paris ngày xưa, cánh ăn mày tụ tập hết ở đây, chả ai dám
làm gì họ cả.”

Lão dẫn bọn trẻ vào một con ngõ cổ
với những cửa hiệu tối tăm.

“Sao người ta lại gọi là điện Thần
Diệu hả ông?” Suzy hỏi.

“Bởi vì cái cách đám ăn mày rởm ấy
tối tối về đây bỏ nạng bỏ băng ra,” lão Armand giải thích, “bắt đầu mở tiệc vui
chơi. Ðó chẳng phải giống điều thần diệu sao. Thậm chí họ còn bầu ra vua của
mình nữa kia.”

Bọn trẻ thất vọng nhìn thấy lưng của
một cái ga-ra to và một vài gian kho nhỏ tối tăm nữa ở nơi vốn là cung điện của
đám ăn mày.

“Cháu cá ông sẽ là vua nếu họ còn
sống ở đây,” Paul nói.

Lão Armand thở dài. “Ô là la! Những
ngày xưa huy hoàng,” lão nói, cứ như chính lão đã từng sống ở đó và bây giờ hồi
tưởng lại vậy.

Cả đám rời khỏi điện cùng những ký
ức ngang tàng của nó. Họ đi qua lối vào của những nhà trọ đổ nát. Ở mỗi nhà họ
vẫn có thể lờ mờ nhận ra vệt cầu thang nghiêng ngả, chỉ rộng vừa đủ một đứa bé
chui lọt, uốn quanh lên những gian sảnh tối phía trên hoặc một gian phòng trên
tháp ma thuật - biết đâu đấy? Nhìn lên một cửa sổ cao bên kia đường, họ thấy
một bà già kỳ lạ đang phơi đồ trên những sợi dây căng ngang cửa sổ. Và đồ bà ta
phơi là sáu chiếc quần màu đỏ cùng áu đôi găng tay dài màu đỏ, cứ như bà là vợ
của Cha Giáng sinh vậy.

Cuối cùng họ ra đến một góc trống
được rào lại bằng ván gỗ. Bên trên sừng sững các mảng tường của những tòa nhà
đang bị phá dỡ dần từng tầng một. Những bức tường cao lởm chởm còn sót lại
giống như những vách núi đá. Trên vài mảng tường người ta còn có thể nhận ra
những gian phòng trước đó nhờ các ô giấy dán tường bạc phếch.

Mấy ông cháu nghe thấy tiếng đập phá
ầm ầm bên kia hàng rào chứng tỏ công nhân vẫn đang bận rộn với công việc phá
dỡ. Nhưng khi lão Armand dẫn bọn trẻ qua hết khoảng trống thì chúng trố mắt
ngạc nhiên.

Khoảnh sân cát đầy những lều tạm.
Hai chiếc xe hơi tàng tàng đang đậu lẫn trong đó. Mấy người đàn ông da sậm màu
đang vây quanh một đống lửa, dùng búa gõ những cái nồi cũ. Những phụ nữ mắt đen
mặc váy sặc sỡ bết cát ướt. Lũ trẻ với vẻ mặt cáo hoang nhìn họ chằm chằm. Năm
con chó tiến về phía họ sủa râm ran dọa dẫm.

Chưa kịp định thần thì Jojo đã nhảy
xổ vào đám chó, tạo nên một đám hỗn loạn di động những lông và tiếng gầm gừ.
Thế rồi một bà gypsy cầm gậy chạy đến vụt cho đám chó một trận, không cần biết
trúng đâu. Chúng thôi đánh nhau, hực lên vì đau và sợ. Lão Armand tóm lấy Jojo
và kéo nó lui lại. Bà gypsy quăng gậy, nói với lũ chó bằng một giọng trầm mượt
mà. Chúng rên rỉ một chút rồi hít ngửi Jojo ra chiều thân mật, như thể chúng
vừa mới được giới thiệu với nhau đàng hoàng rồi vậy.

“Armand,” bà Mireli kêu lên. “Xin
chào mừng ông bạn già. Có vẻ như ông định sống ở đây với bọn tôi ít lâu.” Bà
nhìn sang bọn trẻ. Paul và Evelyne sợ sệt nép ra sau lưng lão lang thang. “Chào
các nhóc,” bà tiếp. “Các cháu sẽ không thấy đơn độc ở đây đâu. Ta sẽ kiếm cho
các cháu thứ gì đó để ăn.” Bà bế Evelyne từ trên xe nôi xuống.

“Bọn tôi cũng không đến tay không,”
Lão Armand đáp lời. Lão lôi các thứ từ trên xe nôi xuống. Ðầu tiên là một mớ
cần tây. Tiếp theo là mấy quả táo. Cuối cùng lão trịnh trọng giơ lên một cái
đầu bê.

Lão thấy bọn trẻ nhà Calcet ngạc nhiên
nhìn chỗ đồ ăn, cứ như lão là một ảo thuật gia biết lôi các thứ ra từ cái mũ.
“Không hiểu làm sao mấy thứ này lại rớt vào xe nôi của ta,” lão bảo chúng.
“Nhất là có cả Evelyne ngồi trên nữa mới hay chứ. Chắc ta va vào cái gì ở chợ
Halles đây thôi.”

Bọn trẻ gypsy xúm lại quanh bọn trẻ
nhà Calcet. Bọn con trai mặc quần dài, chả đứa nào có áo khoác. Mấy đứa con gái
nhỏ thì mặc váy lòe loẹt dài sát đất bên trong những chiếc áo choàng rách rưới.
Mái tóc dài của chúng xén ngang trước trán, ngay bên trên cặp mắt hạt cườm.
Nhưng chúng lại nghĩ rằng bọn trẻ nhà Calcet trông mới kì cục. Chúng chỉ vào
mái tóc đỏ của Evelyne. Chúng sờ chiếc áo dài vải thô màu tối của Suzy rồi lại
sờ vào mớ giẻ sặc sỡ của mình.

“Quần áo các cậu sao trông buồn
thế,” một con bé gypsy nói, “nhưng tóc cậu thì vui.”

Một người đàn ông gypsy buông búa và
chào cả bọn cũng nhiệt tình chẳng kém gì Mireli. “Trong trại của chúng tôi
không phải một mà cả mười người nữa cũng có chỗ ở,” ông ta nói. “Bác ở cùng
Petro nhé, Armand. Cậu ta đang nằm trên giường trong đó. Cậu ta không ưa lạnh,
thành ra cứ ngủ suốt mùa đông.”

“Cho bọn con gái ở trong xe với
chúng cháu, ông nhé?” một con bé gypsy tầm tuổi Suzy hét lên. Quần áo của nó
màu sáng nhất đám, nó còn đeo cả khuyên tai, nhưng đôi giày cao cổ thì kêu lộp
độp như đôi bốt vì không có dây buộc.

“Còn cậu có thể ở cùng lều với bọn
này,” một thằng bé cao lớn rủ Paul. “Lều của bọn này ở sát vách lò nướng bánh
nên vừa ấm lại vừa thơm.”

Con bé gypsy cầm tay Suzy. “Tên tớ
là Tinka,” nó nói. “Còn cậu tên gì?”

“Tinka,” Suzy lặp lại. "Tên cậu đẹp
thế! Tớ là Suzy Calcet, đây là em trai tớ, Paul, và đây là em gái út của tớ,
Evelyne. Bọn tớ không có nhà ở."

“Ðể tớ đưa cậu đi xem nhà bọn tớ,”
Tinka đề nghị. “Cả Paul và Evelyne nữa.” Con bé dẫn mấy đứa nhà Calcet đi xuyên
qua các dãy lều. Ở góc xa là nhà của Tinka. Lũ nhóc tóc đỏ nhà Calcet há hốc
mồm khi trông thấy. Ðó là một ngôi nhà nhỏ có mái vòm, cửa lớn và cửa sổ màu
nâu chạm khắc. Ðáng lẽ đứng trên mặt đất đất thì ngôi nhà này lại có những bánh
xe.

“Ngôi nhà gypsy trên bánh xe,” Paul
thốt lên. “Rồi, đó chính là loại nhà mà em muốn có.”

“Bọn tớ có thể đưa nhà của mình đi
đâu tùy thích,” Tinka hãnh diện nói. “Chỉ cần móc nó vào đuôi chiếc xe của chú
Nikki là xong.”

Cặp mắt Suzy sáng bừng lên như ánh
lửa xanh. Nó nhéo tay Paul. “Con lừa nhỏ của Cha Giáng sinh có thể đem cái nhà
trên bánh xe đến cho chúng mình rồi,” nó kêu lên. “Kéo đến là được mà.”

“Phải báo ngay cho ông Armand,” Paul
nói. “Ðể ông còn nói lại cho Cha Giáng sinh biết quyết định của bọn mình.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3