Khúc Nam Ai - Chương 01-P3

Mà đông thật. Trẻ con bao quanh sân khấu. Người lớn mé
ngoài. Có người ngồi sụp xuống cỏ. Có người mang theo cả ghế ngồi. Tôi cũng thấy
lòng mừng mừng, vui vui. Sau ngót hai ba tháng nghỉ hát hoặc họa hoằn vài người
đến xem vội vã, hôm nay, tôi mới được nhìn lại quang cảnh nô nức quen thuộc. Tiếng
đờn của bác Bảy Viễn bắt đầu báo hiệu màn sắp mở. Người lớn ngóng nghe giữa tiếng
ồn ào của bầy trẻ nhỏ. Chắc ba tôi sắp sửa ra sân khấu nói vài lời phi lộ. Hồi
trước, thường thường trước khi vô tuồng, ba tôi thường đứng ra giới thiệu đào
kép, tên vở tuồng, tóm tắt sơ lược câu chuyện trừ cái đoạn kết. Còn hồi này,
hát giữa đồng trống, ngoài trời, ngoài những chi tiết thường lệ trên, ba tôi
còn thêm vào mục quyên tiền trước khi vở hát bắt đầu để thay thế vé mua. Bao giờ
ông cũng định giá tối đa, và giá tối thiểu, rồi kết luận bằng một câu : tùy hảo
tâm của bà con cô bác. Thật tình ba tôi có nói cũng bằng thừa vì người coi hát
nào cũng cho một số tiền tối thiểu, lòng hảo tâm của họ đã bị hạn chế, bởi đời
sống chật vật khó khăn hiện nay, chứ không như hồi xưa. Ba tôi kể lại khi người
còn nhỏ, những gánh hát còn được người ta say sưa xem, mỗi lần đào kép xuống một
câu vọng cổ hoặc dứt một bài Lý con sáo là tiền thưởng từ dưới sân khấu bay lên
như bươm bướm. Thời ấy hết rồi, xa rồi.

Một tiếng trống ra hiệu nhỏ. Tôi kéo màn. Ba tôi bước ra sân
khấu trong lớp hoá trang người chinh phu. Ông cúi đầu chào mọi người :

- Kính thưa bà con cô bác...

Đám khán giả vẫn ồn ào. Có vài tiếng chửi thề, la lối của mấy
gã thanh niên nóng tính.

- … bà con muốn cho bao nhiêu cũng được, tùy lòng hảo tâm của
quý bà con cô bác. Kính chào quý vị.

Tiếng vỗ tay lẻ tẻ. Tôi kéo màn. Mẹ tôi dúi cho tôi cái rổ để
đựng tiền. Tôi mang rổ vòng ra phía bìa ngoài vì nơi đó có nhiều người lớn. Tiếng
trống dập dồn thúc giục. Chắc là do bác Tư Tình đánh. Tôi tiến đến một bà già
đang nhai trầu và chìa rổ dọn một gương mặt tươi cười. Bà ngần ngừ trong một
giây rồi móc túi bỏ vào rổ một đồng ken hai chục Tôi đi gần đến những người đàn
ông...

- Ti vi có cải lương tụi bây ơi.

Tôi khựng lại. Một đứa nhỏ trạc bằng tuổi tôi đang kêu bạn.

Cả đám người quay lại. Có mấy người hỏi to :

- Mở ti vi rồi hả. Ti vi sửa rồi à ?

- Tuồng gì vậy ? Gánh nào ?

- Cải lương có Bạch Tuyết, Hùng Cường...

Mấy đứa nhỏ đứng dậy la lên :

- Dạ lý hương tụi bây ơi. Bạch Tuyết, Hùng Cường, có đánh kiếm
nữa.

Hai đứa, rồi ba đứa, rồi một rừng người đứng dậy, chúng đổ
xô chạy về phía trụ sở xã. Người lớn ngồi ngại ngùng nhìn nhau. Có mấy bà đứng
dậy, cuối cùng họ cũng kéo nhau theo mấy đứa nhỏ. Kể cả những người đã mang ghế
đến, bây giờ họ cũng mang ghế đến chỗ đặt ti vi chung cho xã. Chiếc rổ quyên tiền
của tôi sững sờ trong tay. Tôi ngơ ngác nhìn theo đám đông kéo nhau đi. Những
tiếng la xa dần, và vọng lại đâu đó những tràng cười nói. Bãi cỏ nát rộng trống.
Chỉ còn bà già trót bỏ tiền vào rổ còn ngập ngừng ở lại với đứa cháu nhỏ. Đứa
cháu lúc lắc tay bà đòi :

- Bà... coi ti vi đi bà. Coi Bạch Tuyết, Hùng Cường bà.

Bà già ý hẳn tiếc hai mươi đồng mà cũng chẳng nhẽ lấy lại nên
ngần ngừ :

- Ừa...

Ba tôi đã đến sau lưng tôi. Tôi quay lại. Tiếng đàn của bác
Bảy Viễn đã im bặt. Bác Tư Tình trong lốt hóa trang, bộ râu chổi xể chiếm gần hết
gương mặt đang đứng ngó sửng ba tôi. Trên sân khấu, tấm màn được khoát ra. Mẹ
tôi ngồi ôm mặt bất động. Lòng uất ức, tôi ngã đầu vào lòng ba tôi mặc cho nước
mắt tuôn trào.

- Bị cái ti vi diễn tuồng hay chớ tụi tui cũng muốn coi lắm
chớ. Thôi chú chờ ngày mai đi. Mai ti vi không có cải lương chắc có người coi.

- Tụi cháu xui quá bác ơi.

Ba tôi nói giọng run run vì nghẹn ngào, buồn bực.

- Chắc cái mửng này hổng có hát hò gì được. Thôi tui về. Mấy
chục bạc cho cháu nhỏ nó uống nước. Tội nghiệp…

Bà cụ bỏ đi. Ba tôi vuốt lưng tôi nhè nhẹ. Người nói nhỏ như
tự nói với mình :

- Cái số trời bắt cực, không tránh được. Thôi, cũng đành...

Ba tôi dìu tôi ra xa. Bác Tư Tình ngồi bó gối. Bác Bảy dựng
cây đàn thẫn thờ. Mẹ tôi đã ra ngồi sau xe từ hồi nào. Tôi nghe tiếng mẹ tôi nấc
nhè nhẹ.

- Thôi em ạ. Đừng buồn để ngày mai mình kiếm cách... Lo chi,
trời sanh voi sanh cỏ mà...

Ba tôi bỏ ra phía trước, người gỡ mấy tấm phông, thổi tắt
cây đèn măng sông, nói với bác Bảy và bác Tư, giọng uể oải chán chường :

- Anh Bảy với anh Tư phụ tui dẹp mấy cái này. Mai hãy hay.

Đêm đó, chúng tôi không có nồi cháo khuya như mọi khi. Tôi gối
đầu trên vai mẹ, lòng bồn chồn không ngủ được. Tô hủ tiếu. Con gà thịt vàng lườm
mới đây còn là giấc mơ sắp thành sự thật. Tôi đã ngửi thấy mùi cay của tiêu,
mùi thơm của thịt, vị ngậy của nước dùng. Ấy thế mà giấc mơ đã chóng tan. Bụng
lép xẹp. Con gà luộc xa vời với những sợi hủ tiếu trắng phau không tưởng.

Trong đêm khuya.

Nghe gió lạnh sẽ lùa qua hiên...

Giọng bác Tư Tình buồn bã như tiếng than van cất lên trong
đêm vắng vẻ. Sao trên trời rung rung. Mặt trăng đang ở về phương tây trải ánh sáng
nhẹ nhẹ mơ hồ như có khói.

Tiếng đàn của bác Bảy Viễn cũng hòa theo. Nửa chừng, bác bắc
qua bản Nam Ai não nuột. Bác Tư không hát nữa, chỉ còn tiếng đàn của bác Bảy buồn
như giọt mưa khuya. Tiếng đàn theo gió chảy loãng ra trong không gian tràn vào
lòng người man mác. Tôi ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy thật trễ. Nắng đã lên cao, trời
xanh mát dịu như một dải lụa mềm. Mẹ tôi và ba tôi đã đi đâu mất. Bác Tư Tình,
bác Bảy Viễn đang rửa chân bên cái lạch nước nhỏ để dẫn nước vào ruộng. Tôi lười
biếng chưa muốn dậy. Tấm mền nâu mỏng ươm hơi hâm hấp nóng. Tôi đẩy mền sang một
bên. Cơn gió nhẹ vờn trên mấy ngọn lúa non bò vào xe mơn man trên da tôi thoải
mái. Tôi trở mình. Một cảm giác nôn nao trống rỗng, lúc đầu hiện diện nhẹ
nhàng, nhưng sau đó trở nên khó chịu lạ lùng. Bụng đang nôn nao bỗng cồn cào.
Không muốn nằm nướng thêm nữa. Tôi trỗi dậy trong tư thế ngẩn ngơ vì thấy thiêu
thiếu một cái gì. Tôi bước xuống xe. Bước chân say say như người mơ ngủ. Tôi
kêu nhỏ một tiếng trong cổ họng. Lạ thật. Đâu phải tôi đau. Không, tôi đâu có
đau ở đâu đâu. Thế sao tôi vẫn cảm thấy khó chịu quá đi mất.

- Kem cây đây... Kem cây đây...

Bụng tôi nhói đau, một chút nước miếng tràn ra qua kẽ răng.
Tôi nhớ ra rồi. Tôi chưa ăn sáng, tôi bị đói bụng. Hồi hôm qua tôi chỉ được ăn
có hơn một chén cơm đầy. Tưởng rằng tôi có cháo khuya như thường lệ. Ấy mà
không. Cho nên bây giờ tôi đói muốn xỉu. Tôi thấy thèm một khúc bánh mì thịt.
Những miếng thịt đùi đỏ hồng cuộn cứng. Những sợi cải nhỏ trắng phau, chua chua
kèm miếng dưa leo xanh mát. Thèm bánh mì xong, tôi lại thèm tô hủ tiếu mơ ước bấy
ngày nay.

- Sáng nay hổng có cái gì ăn nên thằng Hiệp ngó bộ muốn xỉu.

Tôi ủ rủ như con gà bị nước :

- Mẹ có để cái gì cho tui không bác Bảy ?

- Có để cái roi.

Tôi thấy tức tức ở ngực. Nước mắt muốn ứa ra.

- Bộ hổng có gì ăn sáng thiệt hả bác Tư ?

- Thôi, ráng nhịn đến bữa trưa luôn. Tiền đâu mà ăn sáng ? Để
gạo nấu trưa chớ ! Cái đoàn hát mình đến cái thời kỳ mạt vận rồi.

Nói xong câu đó, bác đổi giọng ngâm i ỉ :

Anh hùng mạt vận lạc đường gươm,

Ngựa chết yên cương cũng não nùng,

Tiếng thét vang xưa hề đã mất, ……

- Thôi bỏ đi, buồn thấy mồ mà còn ngâm với nga.

Bác Bảy gắt nhẹ rồi kiếm một chỗ trên bờ cỏ ngồi bó gối. Tôi
không dám hỏi câu nào nữa mặc dù bụng càng lúc càng cồn cào khó chịu.

- Hiệp, cho mày gói đậu phọng ăn đỡ nè. Của tao để dành nhậu
đó mầy.

Tôi đỡ lấy gói đậu một cách miễn cưỡng. Tôi không thích đậu
mà chỉ thích cái gì mặn mặn thôi.

- Má mầy về kìa Hiệp.

Tôi mừng rỡ phóc xuống xe, chạy ra đường. Má tôi xách đầy một
gói đồ ăn. Tôi thấy có cá khô nhỏ, có gạo, có muối, có nước mắm. Thứ gì cũng
nhiều quá. Mẹ tôi xách cả hai tay. Tay kia tôi thấy có một trái bắp nóng. Cái bụng
thấy đồ ăn càng đòi hỏi dữ. Tôi nói với mẹ, nũng nịu :

- Con đói muốn chết, mẹ à...

Mẹ tôi đưa trái bắp cho tôi. Nhưng mặt bà không vui như thường
ngày. Tôi mải ăn quên không hỏi tại sao mà mua đồ ăn nhiều như vậy ? Và ba tôi
đi đâu mất dạng từ sáng đến giờ ? Buổi ăn trưa ba tôi cũng không về. Câu hỏi được
đặt ra và má tôi giải thích. Thì ra lúc sáng tinh mơ, ba tôi gặp một người bạn
chạy xe vận tải ngang qua. Trông thấy ba tôi, anh ta mừng lắm vội mời ba tôi đi
ăn, đi uống. Ngoài ra còn gởi cho tôi năm trăm đồng. Chả là vì hồi ba má tôi mới
lấy nhau, ba má tôi đã giúp đỡ anh ta rất nhiều. Tên anh ta là Thuận. Mẹ tôi
nhân lúc túng cùng không từ chối được, và bà đã lấy tiền đó để mua thực phẩm
cho cả đoàn. Bác Bảy và bác Tư cứ tấm tắc khen mãi con người tốt bụng. Khen đã,
bác lại cảm ơn trời cao có mắt, tổ đãi con cháu cải lương. Trời sanh voi sanh cỏ.
Bữa cơm đã xong, ba tôi vẫn chưa về. Mãi đến khoảng bốn giờ chiều ba tôi mới về
kéo theo ông bạn cũ : ông Thuận. Cả hai đi trên chiếc xe vận tải to lớn có mui
vòm kín. Ba tôi và ông Thuận còn tiếp tục nói chuyện một hồi lâu rồi mới chia
tay. Lúc ấy trời đã dịu nắng. Một vài đứa trẻ bắt đầu bồng em thơ thẩn đến gần
chúng tôi. Ba tôi xua chúng đi và bảo hôm nay không có hát xướng gì cả. Bác Bảy
ngạc nhiên hỏi chuyện :

- Ủa, thiệt hả anh Hưng ? Hổng hát lấy gì ăn cơm ?

Giọng ba tôi trầm ngâm :

- Ở miền này, có hát cũng không kiếm đủ tiền ăn cháo đâu anh
Bảy à. Nhưng thôi, để ăn cơm xong tui nói chuyện cho nghe. Tôi đã tính rồi. Đã
ngót thì phải nghét.

Thế rồi ba tôi trầm ngâm, không nói thêm gì nữa. Bữa cơm diễn
ra trong im lặng. Không ai nói với ai câu nào dầu bữa cơm hôm nay khá ngon. Có
cá khô chiên, có canh mồng tơi, có rau muống xào mỡ. Chưa có bữa cơm nào tươm tất
kể cả nửa năm nay. Tôi cắm cúi ăn lấy ăn để vì chỉ sợ hết phần. Nồi cơm trở nên
quá bé. Đồ ăn thì sao mau vơi thế. Đến chén cơm cuối cùng, chén cơm ráng tôi mới
nhai kỹ, chậm rãi, mới nghĩ đến bài học vệ sinh khi ăn uống mà ba tôi đã dạy
cho tôi.

- Anh nè, anh Thuận ảnh bàn chuyện đó, anh hỏi ý kiến anh Bảy
và anh Tư đi. Bề gì cũng cùng sống cùng chết với nhau mà.

Bác Bảy lia đũa đánh soạt một tiếng xuống mâm :

- Có chuyện gì anh Hưng cứ nói, mình thông cảm nhau quá mà.
Khó khăn thì ai mà chẳng gặp lúc khó khăn. Đừng ngại gì hết, tui nói thiệt chớ
anh đi đâu là tui theo đó. Có cơm thì ăn cơm, có cháo thì ăn cháo. Cùng lắm thì
nhịn. Mà trời có mắt đâu để mình phải chết đói. Trừ ra cái số chết vậy thì
không nói.

Bác Tư cũng tiếp theo :

- Anh Bảy nói trúng ý tui đó. Thiệt đến lúc mình phải tính
cùng lắm là bỏ nghề làm việc khác chớ. Trừ phi vợ chồng anh Hưng bỏ tụi tui chớ
tụi tui nhứt quyết theo vợ chồng anh.

Ba tôi cười xòa, giọng vui :

- Cha chuyện gì mà hai người nói nghe bắt ghê. Bỏ với không
bỏ. Tui nói đây là nói đến chương trình làm việc sắp tới của mình.

- Anh nói quách chuyện đó ra cho rồi chớ anh Bảy với anh Tư
sốt ruột lắm đó.

- Đây chuyện như thế này. Anh Tư, anh Bảy biết đó, suốt cả nửa
năm nay, mình không thu được xuất hát nào cho ra hồn nữa. Chỗ mình hát được là ở
làng xã nhỏ, thì bây giờ súng đạn dài dài, đêm thì sợ sệt ai còn bụng dạ nào mà
coi hát. Rủi thình lình có chuyện gì thì sao. Còn ở những vùng an ninh như ở
đây, thì mình cùng đành chịu. Mấy đoàn hát cỡ trung trung cũng thường mò xuống
quận, mà đây ra quận thì nhiều nhít gì, cỡ mười đồng xe lam là tới nơi. Lại còn
chỗ nào cũng có ti vi truyền hình, thiên hạ coi ở đó chớ công đâu ngồi ở đồng
không, tốn tiền còn phơi sương.

- Tựu trung lại là ở đây hết chỗ làm ăn.

- Cả miền Nam này không có chỗ cho cái đoàn hát cà rịch cà
tang của mình đâu. Bây giờ chỉ có một nước...

Bác Bảy cướp lời :

- Cái điệu này là anh định đi Trung phải không ?

Ba tôi gật đầu :

- Đi Trung mới sống nổi, chớ ở đây kẹt lắm. Tui hỏi anh Thuận,
anh Thuận cũng đồng ý như vậy còn khuyến khích mình nữa. Ngày mốt đây, xe vận tải
của ảnh chở hàng đi Trung. Ảnh cho mình quá giang. Khi nào muốn về Sài Gòn lại,
ảnh sẽ đưa mình về, bị anh chở hàng đi ra đi vô hoài.

Tôi ngẩn ngơ nghe ba tôi nói. Đi Trung. Trung là gì, ở đâu.
Tôi nghe như một miền nào xa xôi lạ hoắc. Lại được đi xe to. Ơ thế còn xe của
chúng tôi thì để đâu. Tôi buột miệng chen lời :

- Ủa vậy cái xe của mình cũng đi luôn hả ba. Ba khiêng bỏ
lên mui xe bác Thuận như chở hàng vậy phải không ba ? Mà đi Trung là đi tận đâu
vậy ba ?

Mẹ tôi nạt ngang :

- Để cho ba nói chuyện. Con nít cứ xen vô chuyện người lớn
hoài.

Tôi ngồi im thin thít.

- Ừa, còn cái xe làm sao anh Hưng ? Lại tiền đâu mà đi
Trung, tiền ăn, tiền này tiền nọ.

Ba tôi chậm rãi :

- Tôi tính hết trơn hết trọi rồi. Các anh đừng lo. Cái xe
mình hết dùng được, bề nào cũng đi xa. Tui nhận lời bán cho một tiệm buôn các
chú do anh Thuận giới thiệu. Họ nhận mua còn đòi coi xe mới trả tiền. Tiền đó
ra Trung mình lo việc chuyên chở về làng làm ăn. Nghe anh Thuận nói ở ngoài đó,
quận thường thường trung trung thích coi cải lương lắm. Mấy đại ban đâu có đi
xa, có ra Trung thì tiền vé cũng mắc, nên coi mòi mình có ăn lắm. Với lại ti vi
ở ngoải cũng không nhiều như trong này.

Bác Bảy trầm ngâm :

- Anh liệu có đi được không, xa quá, lạ nước lạ cái.

Ba tôi cười buồn :

- Chớ bộ ngày xưa anh không đi Trung sao ? Mấy lần rồi ?

- Có đi Huế, đi Qui Nhơn. Nhưng ở tỉnh. Mà lúc trước khác, bây
giờ khác.

Ba tôi trấn an mọi người :

- Tôi hỏi kỹ anh Thuận tình thế rồi. Chuyện đến như bây giờ.
Ở đây cũng không làm ăn nên nổi. Mình liều một phen. May ra có tiền về lại xứ sở
mở tiệm buôn bán dưỡng già, chớ ngó bộ tụi mình già cả hết rồi.

- Đi hết mấy ngày đường hả anh Hưng ?

- Nghe nói độ một tuần. Cứ một tháng xe anh Thuận ra vô một
lần. Đừng lo, có chuyện gì mình lại quá giang xe trở về. Thôi, bây giờ mình sửa
soạn đồ đạc lần lần, gói lại cho kỹ càng, nhất là mấy tấm phông cảnh. Ngày mai,
có người tới mua xe. Giá được xong xuôi, mình lên xe vận tải của anh Thuận ở chờ
mốt đi sớm.

Thế là buổi họp tan. Tối hôm đó, tôi nằm tưởng đến chuyến đi
sắp đến với bao nôn nao. Tôi tưởng tượng, cố tưởng tượng. Nhưng trí óc nhỏ bé của
tôi chỉ nghĩ được những đống rơm, những cánh đồng xanh mát. Điều quyến rũ tôi
nhất là được nằm trên chiếc xe to lớn, khỏi phải làm gì cả và có đầy đủ thức
ăn. Thế nào bác Thuận lại chả dành cho tôi một cái bánh hoặc một thỏi kẹo nhỉ ?

*

* *

Chuyến đi dài thoáng qua như giấc mộng. Những cảnh sắc mới,
những địa thế mới mở ra trước mắt tôi. Cái gì cũng khác cũng lạ không giống như
quang cảnh miền quê của miền Nam. Tôi biết thế nào là miền Trung. Chuyến xe đã
chở đoàn hát chúng tôi nuốt biết bao cây số đường. Mỗi cảnh mỗi miền ba tôi đều
chỉ dẫn cho tôi từng ly từng chút theo sức hiểu biết của người. Tôi như lớn
lên, lòng như trải ra để đón nhận. Mặc dù gương mặt mẹ tôi luôn luôn ưu tư, mặc
cho bác Tư, bác Bảy thỉnh thoảng ngân nga câu vọng cổ hoài tình buồn não nuột.
Miền Trung, là lúa không xanh thẫm, là đất không ướt nước, là núi, là rừng, là
đèo, là những món ăn mặn chát muối, là những món ăn ngọt như mía, tanh cá biển,
là những người dân nghèo nàn, có giọng nói lạ lùng. Chiếc xe lớn của bác Thuận
thả chúng tôi giữa những chiếc xe hàng chở khách nhỏ. Và không để mất một giây
nào, ba tôi lại ra hiệu cho mọi người làm một chuyến đi khác nữa, lần này những
cây kẹo của bác Thuận đã ra vời tôi rồi.

Chúng tôi đến nơi đã định vào lúc giữa trưa. Nắng cháy cây
cháy cỏ. Nắng bỏng rát như muốn đốt vàng mái tóc hôi nắng của tôi, như muốn làm
bỏng hai bàn chân trần không thích mang dép của tôi. Mẹ tôi kêu lên :

- Chèn ơi, cái xứ nóng gì mà nóng muốn thấy tía luôn.

Buổi trưa, cái quận nhỏ nơi chúng tôi đến im lìm. Đồ đạc cồng
kềnh. Ba tôi sắp tôi đứng lại giữ đồ còn chia phiên cho mọi người làm việc. Mẹ
tôi phải chạy vào chợ mua một ít rau cải để ăn trưa lấy sức. Bác Tư, bác Bảy kiếm
một chỗ trống ở quận để dọn sân khấu. Ba tôi đi đến chi hành chánh để xin phép
được trình diễn ở quận.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3