Người xa lạ - Chương 10
Phiên tòa bế mạc. Khi rời khỏi pháp đình để lên xe, tôi
thoáng nhận thấy trong giây lát mùi hương và màu sắc của chiều hè. Trong bóng mờ
của nhà pha lưu động, tôi thấy lại từng thứ một, như ở tận sâu thẳm của mệt mỏi,
tất cả những tiếng ồn ào quen thuộc của một thành phố mà tôi hằng yêu mến và
trong một giờ nào đó, tôi cảm thấy hài lòng. Tiếng kêu của những người bán báo
trong không khí đã bớt căng thẳng, những con chim cuối cùng ở công viên, tiếng
gọi của các người bán bánh sandwich, tiếng rên rỉ do tàu điện chạy trên những
khúc quẹo cao của thành phố và tiếng xôn xao của bầu trời trước khi đêm tối đua
đưa trên hải cảng, tất cả mọi cái đó sắp xếp đưa lại cho tôi một lộ trình của
người lòa mà tôi biết rõ trước khi vào lao xá. Phải đó là thời khắc mà cách đây
đã lâu tôi đã cảm thấy hài lòng. Lúc đó, vẫn là một giấc ngủ nhẹ nhàng và không
mộng mị luôn luôn chờ đợi tôi… Tuy nhiên, một sự chi đã thay đổi vì trong sự chờ
đợi ngày mai đến, tôi lại gặp lại căn xà lim của mình.
Như thế là những con đường quen thuộc vạch trên bầu trời mùa
hè có thể dẫn đến các lao xá cũng như dẫn đến những giấc ngủ hồn nhiên, vô tội.
Dù ở trên ghế bị cáo, người ta vẫn thấy thích thù khi nghe đến
tên mình. Trong các cuộc tranh biện của biện lý và luật sư, tôi có thể nói là họ
nói đến tôi rất nhiều và có lẽ về tôi nhiều hơn là về tội trạng của tôi. Vả lại,
những cuộc tranh biện ấy có sự khác biệt nhau không nhỉ? Luật sư giơ tay lên và
biện hộ cho tội trạng nhưng lại có lời xin tha. Ông biện lý chìa tay ra tố cáo
tội trạng nhưng không xin tha. Tuy nhiên có điều làm tôi cảm thấy mơ hồ, bứt rứt.
Mặc dù bận trí, đôi khi tôi cũng muốn can thiệp và luật sư phải bảo tôi: “Ông
im đi, như thế có ích lợi cho việc của ông hơn”. Có thể nói là họ có vẻ bàn luận
về vụ này như không có mặt tôi. Số phận của tôi được định đoạt mà người ta
không cần đến ý kiến của tôi. Thỉnh thoảng, tôi có ý muốn ngắt lời mọi người và
nói: “Nhưng dù sao ai là người bị tố cáo đây? Bị cáo là quan trọng lắm và tôi
có một đôi lời muốn nói”. Nhưng sau khi suy nghĩ, tôi không có điều chi nói cả.
Vả lại, tôi phải công nhận rằng cái thú vị làm cho người khác chú ý không kéo
dài được lâu. Ví dụ như cuộc tranh biện của ông biện lý làm tôi chán ngán rất
mau lẹ.
Chỉ có những đoạn ngắn, những cử chỉ hay những tràng dài
nguyên vẹn nhưng tách rời khỏi toàn bộ, là làm tôi ngạc nhiên hay gợi sự thích
thú của tôi mà thôi! Theo sự suy đoán của ông, nếu tôi không hiểu lầm, thời tôi
đã dự mưu phạm trọng tội. Hay ít ra, ông đã cố gắng chứng minh như vậy, như
chính ông đã nói điều ấy: “Thưa quý vị, tôi sẽ đưa ra chứng cớ và sẽ đưa ra gấp
đôi. Trước hết là dưới ánh sáng chói lòa của các sự kiện và sau cùng là trong
ánh sáng lờ mờ do tâm lý của cái tâm hồn sát nhân này cung cấp cho tôi. Ông tóm
tắt những sự kiện từ khi má tôi chết. Ông nhắc lại thái độ vô cảm của tôi về tuổi
tác má tôi, cuộc tắm biển với một người đàn bà ngay sau hôm đám tang, cuộc xem
xi-nê Fernandel và sau hầu hết là cùng về nhà với Marie. Lúc đó, tôi không kịp
hiểu ngay vì ông ta nói “tình nhân của y” còn đối với tôi thì nàng là Marie.
Sau cùng, ông nói đến chuyện Raymond. Tôi thấy cách thức ông ta nhìn các biến cố
không thiếu sự sáng suốt. Điều ông nói có thể chấp nhận được. Với sự đồng ý của
Raymond, tôi đã viết thư để dụ nhân tình y đến và xô đẩy nàng vào sự đối xử tàn
tệ của một người đàn ông có “hạnh kiểm khả nghi”. Tôi khiêu khích những kẻ thù
của Raymond trên bãi biển. Raymond bị thương. Tôi hỏi y lấy khẩu súng lục. Tôi
trở lại một mình để sử dụng khí giới ấy. Tôi hạ tên Ả Rập như tôi đã dự định.
Tôi đã chờ đợi và “để cho chắc chắn là công việc đã thực hiện tốt đẹp”, tôi còn
bắn liền bốn phát, ung dung, chính xác, có thể nói là một cách thận trọng.
Ông phó chưởng lý nói: “Thưa quý vị, tôi vừa kể lại trước
quý vị mối dây mạch lạc những biến cố đã dẫn dắt người này đến việc sát nhân với
sự hiểu biết hoàn toàn. Tôi xin nhấn mạnh về điểm này. Vì đây không phải là một
vụ ám sát tầm thường, một hành động không suy nghĩ mà quý vị có thể coi như là
có những trường hợp giảm kinh. Người này, thưa quý vị, người này thông minh.
Quý vị đã nghe y khai phải không ? Y biết cách trả lời. Y biết rõ giá trị các
danh từ. Và người ta không thể nói là y hành động mà không biết việc y làm.
Về phần tôi, tôi để ý nghe và thấy người ta cho tôi là thông
minh, nhưng tôi không hiểu rõ tại sao những đức tính tốt của người thường lại
có thể trở nên những chứng cớ nặng nề cho một người phạm tội. Ít nhất, đó là điều
làm tôi không nghe ông biện lý nữa cho đến khi tôi lại nghe thấy tiếng ông nói:
“Có bao giờ y tỏ ra hối hận chưa? Thưa quý vị, chưa bao giờ cả! Không một lần
nào trong thời kỳ dự thẩm, người này lại tỏ vẻ cảm động về trọng tội ghê gớm của
mình”. Lúc đó, ông quay lại về phía tôi, vừa lấy ngón tay trỏ tôi vừa tiếp tục hành
hạ tôi mà thực ra tôi không hiểu rõ tại sao. Dĩ nhiên, tôi không thể nào không
công nhận rằng ông ta có lý. Tôi không hối tiếc lắm về hành động của tôi, nhưng
sự hăng say quá mức như thế làm tôi ngạc nhiên. Có lẽ tôi muốn thử cắt nghĩa
cho ông nghe một cách thực tình, gần như là tôi không hề bao giờ có thể thực sự
hối tiếc một việc gì. Tôi vẫn luôn luôn bị lôi cuốn bởi việc sắp xảy ra, bởi
hôm nay hay bởi ngày mai. Nhưng lẽ tất nhiên trong tình trạng hiện tại của tôi,
tôi không thể nào nói với ai cái giọng điệu đó được. Tôi không có quyền tỏ vẻ
thân ái, tỏ thiện chí. Và tôi lại thử cố nghe nữa vì ông biện lý đã bắt đầu về
tâm hồn tôi.
Ông nói là ông đã cúi xuống tâm hồn ấy và ông không tìm thấy
chi cả, thư quý vị bồi thẩm. Ông nói thực ra, tôi không hề có tâm hồn, không hề
có tình nhân ái và không có một nguyên tắc đạo lý nào, vẫn giữ gìn lương tâm
loài người lại có thể thấm nhuần vào tôi được.
Ông nói thêm: “Chắc chắn là chúng ta sẽ không trách cứ y về
điểm ấy. Điều mà y không có, chúng ta không thể phàn nàn là y thiếu. Nhưng khi
thuộc về phiên tòa này, cái đức tính hoàn toàn tiêu cực của sự khoan hồng cần
phải biến đổi ra đức tin, dễ dãi hơn nhưng lại là cao thượng hơn, của sự công bằng.
Nhất là khi mà sự trống rỗng của tâm hồn như người ta đã khá phá ở nơi người
này, thành ra một cái vực thẳm mà xã hội có thể sa ngã”. Thế rồi ông nói đến
thái độ của tôi đối với má tôi. Ông nhắc lại điều đó trong cuộc tranh biện,
nhưng ông nói dài hơn cả khi ông nói về trọng tội của tôi nhiều, dài quá đến nỗi
sau cùng, tôi chỉ còn cảm thấy sự nóng bức của buổi sáng hôm ấy. Hay ít ra cho
đếnkhi ông biện lý ngừng lại và, sau giây lát yên lặng, ông lại tiếp tục với một
giọng rất thấp và đầy tin tưởng: “Thưa quý tòa, tòa án này mai đây sẽ xử một trọng
tội ghê gớm nhất: vụ giết cha”. Theo ý ông, trí tưởng tượng lùi lại trước vụ
mưu sát tàn nhẫn này. Ông dám hi vọng rằng công lý của loài người sẽ trừng phạt
không nhu nhược. Nhưng ông không sợ mà nói lên rằng, sự khủng khiếp do tôi giết
cha gợi lên cho ông gần như phải nhượng bộ trước sự khủng khiếp do ông cảm thấy
trước trạng thái vô cảm xúc của tôi. Vẫn theo ý ông, một người đã giết mẹ mình
về tinh thần cũng tự loại mình ra khỏi xã hội loài người, y như một người chính
tay ám sát người đẻ ra mình. Trong tất cả mọi trường hợp, người thứ nhất sửa soạn
hành động của người thứ hai, có thể nói là y đã báo trước và chính đáng hóa những
hành động ấy. Ông cao giọng nói thêm: “Thư quý vị, tôi tin chắc rằng quý vị sẽ
không thấy tư tưởng của tôi qus tàn bạo nếu tôi nói là người đang ngồi trên ghế
dài kia cũng can tội sát nhân mà tòa sẽ xử vào ngày mai. Do đó, y phải bị trừng
phạt”. Tới đây, ông biện lý lau khuôn mặt bóng nhẩy mồ hôi. Sau cùng ông nói
nhiệm vụ của ông rất đau khổ nhưng ông sẽ cương quyết làm đầy đủ. Ông tuyên bố
là tôi không còn chi dính dáng đến một xã hội mà tôi đã phủ nhận những luật lệ
chính yếu nhất và tôi không thể nào kêu gọi trái tim con người mà tôi đã không
biết đền những phản ứng sơ đẳng! Ông nói tiếp:
- Tôi xin quý vị cái đầu người này và xin quý vị điều ấy với
một tâm hồn than thản.
Vì trong suốt cả cuộc đời chức nghiệp đã dài của tôi, nếu có
khi tôi đòi hỏi những chánh án tử hình thời không bao giờ được như hôm nay tôi
cảm thấy nhiệm vụ đau khổ này được đền bù, cân xứng, soi sáng do cái ý thức về
một mệnh lệnh khẩn yếu và thiêng liêng do sự ghê tởm của tôi cảm thấy trước một
khuôn mặt mà tôi chỉ đọc thấy toàn những quái đản! Có sự yên lặng khá lâu sau
khi ông biện lý ngồi xuống. Về phần tôi, tôi bị choáng váng vì nóng bức và kinh
ngạc. Ông chánh án ho chút xíu và bằng một giọng rất nhỏ. Ông hỏi tôi có điều
chi nói thêm không ? Tôi bèn đứng lên vì tôi muốn nói, nên tôi nói có hơi bừa
bãi là tôi không có ý định giết tên Ả Rập. Ông chánh án trả lời đấy là một sự
xác nhận, là cho đến nay ông chưa nhận thức được phương sách bào chữa của tôi
và ông sẽ rất sung sướng, trước khi nghe lời biện hộ của luật sư tôi, bảo tôi
xác định lại các động lực đã gây nên hành động của tôi. Tôi nói nhanh chóng, vừa
trộn lẫn các danh từ, vừa nhận thấy sự lố lăng của tôi, rằng đó là tại trời nắng.
Có tiếng cười trong phòng. Luật sư tôi nhún vai và liền sau đó, người ta nhường
lời cho ông nhưng ông tuyên bố là đã muộn rồi, ông cần phải nói nhiều giờ và
xin hoãn lại đến chiều. Tòa chấp thuận.
Buổi chiều, các quạt máy lớn vẫn xáo động không khí đặc sệt ở
trong phòng và các quạt nhỏ, màu sặc sỡ của các ông bồi thẩm, đều phe phẩy theo
một hướng. Tôi tưởng chừng lời biện hộ của luật sư tôi không bao giờ chấm dứt.
Tuy nhiên, có một lúc tôi đã nghe tiếng ông vì thấy ông nói: “Đúng sự thực là
tôi đã giết người”. Rồi cung một giọng điệu, ông dùng chữ “tôi” mỗi khi ông nói
về tôi. Tôi rất ngạc nhiên. Tôi cúi xuống một người hiến binh và hỏi rằng tại
sao thế? Y bảo tôi hãy yên lặng và sau một lát, y nói thêm: “Tất cả luật sư đều
làm thế”. Về phần tôi, tôi đã nghĩ là như thế càng tách rời tôi ra khỏi nội vụ,
biến tôi thành con số không và nói theo một nghĩa nào đó, thay thế hẳn tôi.
Nhưng tôi ngờ là tôi đã ở rất xa phòng xử án này. Vả lại, luật sư hình như có vẻ
lố bịch. Rất mau lẹ, ông biện hộ cho sự gay cần, rồi chính ông lại nói đến tâm
hồn tôi. Nhưng đối với tôi, hình như ông ém tài bà hơn ông biện lý.
Ông nói: “Chính tôi cũng đã cúi xuống tâm hôn này nhưng,
trái với vị đại diện cao cả của công tố viên, tôi đã thấy một vài sự kiện và có
thể nói là tôi đã đọc thấy như ở trong cuốn sách mở sẵn”. Ông đã đọc thấy tôi
là một người lương thiện, một người làm việc đều đặn, không mệt mỏi, thủy chung
với hãng đã dùng mình, được mọi người yêu mến và động lòng trắc ẩn trước cảnh
khổ sở của người khác. Đối với ông, tôi là một người con gương mẫu đã nâng đỡ mẹ
mãi cho đến khi hết sức mình. Sau cùng, tôi hi vọng là một nhà dưỡng lão sẽ đem
lại cho bà cụ đầy đủ những tiện nghi mà các phương tiện của tôi không cho phép
tôi cung cấp nổi cho bà cụ. Ông nói thêm:
- Thưa quý vị, tôi ngạc nhiên thấy người ta làm rùm beng
chung quanh viện dưỡng lão này. Sau cùng, nếu cần có phải có một chứng cớ về sự
ích lợi cao cả của những cơ sở này, cần phải nói rõ là chính Quốc Gia đã trợ cấp
cho các viện ấy.
Tuy nhiên, ông không nói đến đám tang và tôi cảm thấy điều
đó thiếu sót trong bản biện hộ của ông. Nhưng vì tất cả những câu nói dài dòng ấy,
tất cả những ngày giờ vô tận trong đó người ta đã nói đến tâm hồn tôi, nên tôi
có cảm tưởng là mọi sự trở thành một thứ nước không màu sắc làm cho tôi thấy
choáng váng.
Sau cùng, tôi nhớ là trong khi luật sư tiếp tục nói, tiếng
kèn của người bán nước đá, từ ngoài phố lọt ra khắp khoảng trống của các gian
buồng và phòng xử án, vang dội đến tai tôi.
Những k niệm của một đời sống không còn thuộc về tôi nữa,
nhưng là một đời sống mà tôi tìm thấy những niềm vui nghèo nàn nhất và lâu bền
nhất dồn dập hiện về trí óc tôi: những mùi hương mùa hè, khu phố mà tôi yêu mến,
một bầu trời nhỏ bé nào đó về buổi chiều, tiếng cười và những chiếc áo dài của
Marie. Tất cả mọi sự tôi đã làm vô ích ở đây đều ứ lên cổ tôi và tôi chỉ còn mỗi
một sự vội vàng, là mong cho người ta kết liễu ngay vụ này để tôi chỉ hơi loáng
thoáng nghe thấy luật sư gào lên, đê kết thúc, là các vị bồi thẩm sẽ không muốn
xử tử hình một công dân lương thiện bị tiêu tan vì một phút lạc hướng và xin hưởng
trường hợp giảm khinh cho một trọng tội do tôi đã chịu sự trừng phạt chắc chắn
nhất bằng cách kéo lê sự sám hối vĩnh cửu. Tòa ngừng phiên xét xử vs luật sư ngồi
xuống với vẻ mệt mỏi, nhưng các đồng nghiệp đi về phía ông để bắt tay ông. Tôi
nghe thấy: “Tuyệt cú nhé!”. Một người trong bọn lại còn nêu cả tôi ra làm chứng
và nói với tôi: “Phải không ?”. Tôi đồng ý nhưng lời khen ngợi của tôi không thực
tình, vì tôi quá mệt mỏi! Tuy nhiên, trời đã xế ở bên ngoài và cái nóng đã bơtd
gay gắt. Do một vài tiếng ồn ào của phố xá mà tôi nghe thấy, tôi phỏng đoán sự
êm dịu của buổi chiều. Tất cả chúng tôi đều ở đấy để chờ đợi điều mà chúng tôi
cùng chờ đợi chỉ liên quan đến tôi. Tôi lại nhìn phòng xử án. Tất cả vẫn y
nguyên như buổi ban đầu. Tôi bắt gặp cái nhìn của kí giả mặc áo vét xám và mụ
đàn bà như người máy. Điều đó làm cho tôi nghĩ là trong suốt cả vụ xử án, tôi
không để mắt tìm Marie. Tôi không quên nàng nhưng tôi còn bận nhiều quá. Tôi
trông thấy nàng giữa Céleste và Raymond. Nàng ngầm ra hiệu cho tôi như muốn
nói: “Xong rồi!” và tôi thấy khuôn mặt nàng hơi lo lắng mỉm cười với tôi, nhưng
tôi cảm thấy tim tôi đã khép kín và tôi cũng không thể trả lời nụ cười của nàng.
Tòa tái nhóm. Người ta đọc rất nhanh cho các bồi thẩm một
dãy câu hỏi. Tôi đã nghe thấy: “Can tội sát nhân”… “có dự mưu”… “trường hợp giảm
khinh”. Các vị bồi thẩm đi ra và người ta dắt tôi sang căn buồng nhỏ, trước kia
tôi đã đợi ở đấy. Luật sư đến gặp tôi: ông rất lưu loát nói chuyện với nhiều
tin tưởng và thân mật hơn hẳn từ trước đến nay. Ông nghĩ rằng mọi thứ sẽ êm đẹp
và tôi sẽ thoát nguy với và năm tù hay lưu đày. Tôi hỏi ông nếu gặp trường hợp
án xử bất lợi thì có hy vọng xin phá án không ? Ông nói không. Mánh lới của ông
là không trình bày kết luận để khỏi phiền toái cho bồi thẩm đoàn. Ông cắt nghĩa
cho tôi hiểu người ta không phá một bản án như thế vì lý do không chính đáng.
Điều đó tôi thấy có vẻ hiển nhiên và tôi công nhận ông nói là phải. Xét đoán sự
việc một cách lạnh lùng, như thế là hoàn toàn tự nhiên. Trong trường hợp trái lại,
sẽ thêm nhiều giấy tờ vô ích. Luật sư bảo tôi:
“Dù sao đi chăng nữa, vẫn cố chống án, nhưng tôi tin tưởng rằng
chung cục sẽ thuận lợi”.
Chúng tôi đợi lâu quá, tôi tưởng đến ba khắc đồng hồ. Cuối
cùng có tiếng chuông reo.
Luật sư từ giã tôi và nói: “Chủ tịch bồi thẩm đoàn sẽ đọc
các câu trả lời. Người ta chỉ dẫn ông vào khi tuyên án”. Cửa đóng sập lại. Có
ngươi chạy trên cầu thang mà tôi không biết ở gần hay ở xa. Rồi tôi nghe thấy một
giọng ồm ồm đọc cái chi ở trong phòng. Khi chuông reo lần nữa, cửa buồng mở ra,
thời sự yên lặng và cái cảm giác kỳ dị mà tôi đã có khi tôi nhận thấy người ký
giả trẻ tuổi quay nhìn đi chỗ khác… Tôi không nhìn về phía Marie. Tôi không kịp
thì giờ nhìn nữa vì ông chánh án đã bảo tôi bằng một thể thức kì cục là nhân
danh dân tộc Pháp, tôi sẽ bị chém đầu tại một công trường! Lúc ấy hình như tôi
nhận thức được cảm giác do tôi đọc thấy trên mọi gương mặt. Tôi nghĩ rằng đó là
sự quý mến. Các hiến binh rất dịu dàng với tôi. Luật sư đặt tay lên cổ tay tôi.
Tôi không còn nghĩ đến sự chi cả. Nhưng ông chánh án đã hỏi tôi có điều gì nói
thêm không? Tôi đã suy nghĩ và tôi nói “Không”. Thế là người ta dẫn tôi đi.