Ngược chiều vun vút - Chương 05 - Phần 01
5. MUỐN GIÃI
BÀY
Cơm quê
Có người Việt
Nam sống nửa đời ở nước ngoài. Có người nước ngoài sống nửa đời ở Việt Nam.
Cũng có người nửa một nửa hai, sống cuộc đời nửa here nửa there.
Tôi thích ăn
các món Việt Nam - bún bò, bánh xèo, cao lầu, xôi. Nhưng mỗi lần bị ốm, bị cảm
cúm hoặc viêm a-mi-đan, tôi chỉ thích ăn món Canada. Macaroni and cheese,
marmalade and toast, scrambled eggs with maple syrup… là những món hồi tôi nhỏ
và lúc tôi ốm thì mẹ tôi nấu và mang lên phòng.
Qua điều đó,
tôi biết tôi là người Canada.
Thời buổi hội
nhập, nhiều người đang tìm yếu tố xác định mình là người ở đâu. Dòng máu, giọng
nói, hiểu biết văn hóa - một điều gì đó giúp mình biết trái tim thuộc về đâu. Bởi
đa số chúng ta muốn trái tim mình thuộc về một nơi duy nhất. Thưởng thức các
nơi đẹp nhất, nhưng nó phải thuộc về một nơi duy nhất. Cảm giác đó ẩn sâu vào
lòng - không ai chào đời giữa hơn một đôi chân. Yếu tố đó phải gắn bó với tuổi ấu
thơ. Những sở thích cảm giác và kinh nghiệm ghi vào bộ não hồi nhỏ được ghi vào
rất sâu. Hồi ấy bộ não còn mềm, dây thần kinh vẫn còn là đất sét trong đôi bàn
tay là môi trường xung quanh.
Tôi có nhiều
bạn Việt Nam, lúc ốm đau họ chỉ muốn ăn cháo. Lúc khỏe mạnh họ thích ăn pizza,
ham-bơ-gơ, sushi, cà-ri - ăn gì chả được. Nhưng lúc nằm giường chờ mấy con vi
rút giải tán nốt, họ chỉ muốn ăn bát cháo hành thêm chút hạt tiêu và nước mắm.
Thèm món của
nơi nào, trái tim thuộc về nơi đó. Bởi những lúc ốm đau mình không ăn cho đỡ
đói. Mình ăn cho đỡ buồn.
Dầu xả tâm hồn
Trong lúc chờ
nước tắm nóng lên, tôi đọc nhãn nhập khẩu dán trên lọ dầu xả Nhật Bản.
“Dầu xả siêu
mượt giữ ẩm, giá 230.000đ. Công dụng: Giúp tóc hồi phục lớp sừng bị tổn thương,
giữ màu và giữ nếp cho tóc, điều tiết quá trình sinh lý của tóc.”
Là người
thích sáng tác vào những lúc chờ đợi, tôi thay từ “tóc” bằng từ “bạn”, “lớp sừng”
bằng “tâm hồn”, “nếp” bằng “sức”. Sản phẩm sẽ “giúp bạn hồi phục tâm hồn bị tổn
thương, giữ màu và giữ sức cho bạn, điều tiết quá trình sinh lý của bạn…”.
Tất cả chỉ
có 230.000đ/760g.
Tầm hồn tôi
đang bị tổn thương, màu nhạt dần, sức mất đi. Quá trình sinh lý cũng nên điều
tiết lại một chút, ở đâu có sản phẩm cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho tâm hồn
tôi? Ở đâu có dầu xả tâm hồn?
Tôi tự dưng
nhớ quê. Chắc có tuyết rồi. Tôi sinh ra giữa một đêm mùa đông, tuyết rơi ầm ầm
ngoài cửa sổ bệnh viện. Tôi có tuyết trong mạch. Nhưng sang Việt Nam lâu lâu,
tuyết ấy đã tan. Tôi sợ trở về Canada, nó sẽ đóng cứng lại thành băng. Tôi mê
nước này nhưng tôi nhớ nước tôi. Rồi tôi nhớ ra nước đang nóng lên ở phòng bên
cạnh. Chắc tắm được rồi.
Hội chứng
Tây sợ Tết
Khi được báo
chí phỏng vấn về Tết Việt Nam, người phương Tây chúng tôi hay nhận xét một cách
nhàm chán. “Không khí vui.” “Món ăn ngon.” “Con người thân thiện.” Chúng tôi
thường bị hạn chế ở hai điều: điều mình có khả năng cảm nhận và điều mình nghĩ
người Việt sẽ thích nghe. Ít ai cảm nhận sâu sắc, ít ai dám nói bánh chưng
không ngon.
Khi trả lời
phỏng vấn bằng tiếng Việt, chúng tôi bị hạn chế ở một điều nữa - điều mình có
khả năng thể hiện, vốn từ chưa nhiều, cách diễn đạt chưa lưu loát; kể cả có cảm
nhận sâu sắc cũng không thành lời cho ra. Thế là Tết vui. Thế là cơm ngon.
Sự thật là
nhiều người Tây sợ Tết. Bản thân tôi cũng hơi sợ, nghe bài Tết Tết Tết Đến Rồi
có cảm giác muốn chạy chạy chạy chạy xa rồi. Có nhiều người Việt sợ Tết vì vất
vả - “Quanh năm suốt tháng đi làm đã mệt bở hơi tai, lại còn thêm mấy ngày Tết,
chả ai được nghỉ ngơi chút nào!’ - và có nhiều người Tây sợ Tết vì căng thẳng.
Sợ thành cá
cảnh
Người lầy
không cần ở Việt Nam lâu mới cảm nhận giá tri cá cảnh của mình. Mời đi họp, rủ
đi ăn, bảo lên sân khấu tra giải - vai trò chủ yếu là cười tươi và thể hiện làn
da trắng
Công ty ta
có chuyên gia là người Tây. Gia đình ta có khách quen là người Tây. Trong không
ít trường hợp, chúng tôi thành logo, thành slogan, thành thương hiệu - và mất
chất con người. Người ta không thực sự quan tâm đến mình mà chủ yếu tập trung
vào những điều thương hiệu đó sẽ mang lại cho họ.
“Không ít”
trường hợp thôi, chưa phải nhiều - nhưng đủ để chúng tôi biết cảnh giác, nghi
ngờ mục đích của người khác.
Sợ phải thể
hiện
Có lẽ điều
chúng tôi sợ nhất là nguy cơ trở thành trung tâm của sự chú ý. Từ cánh gà,
chúng tôi bị đẩy ra sân khấu, chưa học thoại, chưa biết vở kịch diễn ra như thế
nào.
“Anh ơi, anh
phát biểu một câu đi!” (câu gì?)
“Anh ơi, anh
bước vào trước đi!” (vào đâu?)
“Anh ơi, anh
chào bà đi!” (như thế nào?)
Trong các lễ
hội phương Tây, khách mời chủ yếu được quan sát và thưởng thức, cưỡi ngựa ăn
hoa quả. Nhưng ở Việt Nam, khách mời thường chủ động hơn. Khách ở tuổi a phải
làm việc b, ở vị trí y làm việc z; còn có một số việc khách dù ở lứa tuổi hoặc
vị trí nào cũng phải tham gia thực hiện.
Với người hiểu
ngôn ngữ và rành văn hóa (diễn viên độc thoại), những việc đó là vinh dự, là niềm
vui chung. Nhưng với người chưa giỏi tiếng, chưa hiểu lắm về văn hóa, thì những
việc đó có thể là gánh nặng. Biết đâu mình làm hỏng? Biết đâu mình làm sai?
Sợ làm sai
Một điều
khách Tây hay được dạy về Tết Nguyên Đán là sức ảnh hưởng đến năm tới. Tết đẹp,
năm tới đẹp. Tết hỏng… Nói chung Tết đẹp, năm tới đẹp. Người ta giải thích một
cách đơn giản, chúng tôi hiểu một cách đơn giản.
Không ai muốn
làm hỏng năm tới của ai. “Cứ thoải mái đi!”, người Việt hay nói. Nhưng rất khó
thoải mái khi biết một hành động vô tình có thể dẫn đến hậu quả lớn. Biết đâu cả
năm tới, mỗi khi có chuyện không hay xảy ra thì gia đình lại nhớ đến mình. “Cái
tòi cậu Joe đó mùng Một Tết vác bịch mực khô đến nhà đã biết ngay là xúi quẩy rồi
mà. Cậu ta chưa hiểu văn hóa thôi, nhưng… rõ là xúi quẩy.” Một lễ hội phương
Tây thường bắt đầu và kết thúc luôn cùng lễ hội đó. Người Việt thích đầu tư rủi
ro hơn: thắng thì thắng lớn, thua thì thua nặng, tiền được cá là 12 tháng âm.
Sợ phải ăn
Sự thật phũ
phàng là nhiều người Tây thấy các món Tết Việt Nam không ngon. Thịt đông, gà luộc,
bánh chưng. Lạ quá, lạnh quá, nhiều mỡ lắm. Đơn giản các món ấy không phù hợp với
lưỡi của họ, cũng như nhiều món truyền thống của Tây không phù hợp với lưỡi của
không ít người Việt mặc dù thấy bánh nướng bí ngô không ngon chút nào nhưng vẫn
cười tươi, xin thêm miếng: “It’s delicious”
Muốn hay
không, các miếng, sợi và chiếc sẽ xuất hiện trong bát theo phép màu kỳ diệu của
văn hóa Việt Nam. Vì chúng tôi là những khách mời đặc biệt nên cả nhà sẽ xem kỹ
chúng tôi cảm nhận như thế nào, thích món gì nhất. Tất nhiên những món khó ăn
nhất, chúng tôi sẽ giả vờ thích ăn nhất (ăn càng sợ, cười càng to). Thế là các
miếng, sợi và chiếc của chính các món ăn đó sẽ tiếp tục xuất hiện trong bát
theo phép màu kỳ diệu của ma xó xã giao.
Sợ cô lập giữa
đám đông
Tôi chia các
lễ hội văn hóa thành hai loại: lễ hội hành động và lễ hội tâm lý. Tết Thái là lễ
hội hành động. Té nước và ném hoa là hai việc không cần sự hỗ trợ của ngôn ngữ;
một người không biết tiếng có thể làm cùng người dân và thấy vui. Tất nhiên có
những phong tục đòi hỏi sự hiểu biết văn hóa sâu; nhưng bên cạnh đó có những
phong tục hết sức “dễ chơi” đối với du khách mới sang.
Đón xuân về,
người Việt không té nước mà té chữ. Thăm, chúc, đón, hát - những động từ gắn bó
nhất với Tết Việt Nam dựa trên ngôn ngữ. Vì thế, không biết tiếng là hơi khó
tham gia. Phim hành động, nếu không ‘biết tiếng thì vẫn xem được; phim tâm lý,
nếu không biết tiếng thì cựa quậy trên ghế, nhìn đồng hồ, nhắn tin cho người
yêu cũ.
Trong suy
nghĩ của một số người Việt, đã mời đàng hoàng đã xếp vị trí tốt, đã gắp miếng
ngon, đã thể hiện sự ý mến và tình cảm bằng ánh mắt - là đủ để khách Tây cảm thấy
vui. Sự thật là nếu không làm bất cứ một việc nào như thế mà đơn giản giải
thích kỹ càng về chuyện đang xảy ra thì khách sẽ vui hơn. (Nghe người xung
quanh cười mà không hiểu vì sao là cảm giác rất căng thẳng).
Những lúc
đông vui nhất, người Việt hay quên khách Tây ngồi đối diện chưa hiểu tiếng. Người
khách ở đâu cổ trách nhiệm học ngôn ngữ và phong tục của nơi đang ở. Nhưng việc
đó mất thời gian. Vậy người mời khách Tây đến nhà chơi cũng có trách nhiệm tạo
điều kiện để khách cảm thấy thoải mái và “hiểu phún”. Có nghĩa là phải mời cẩn
thận; sự thân thiện không bù được ngôn ngữ, và trong một lễ hội như Tết Việt
Nam, ngôn ngữ luôn là chính.
Tôi viết bài
này không phải vì chán đời, trầm cảm hay muốn làm các bạn cảm thấy áy náy. Đơn
giản tôi biết các bạn từng thấy nhiều bài phỏng vấn trong đó các ông bà Tây ca
ngợi Tết Việt Nam với những tính từ tích cực nhất. Tôi không nghĩ họ nói dối -
với đa số người Tây ở Việt Nam, Tết là dịp lễ thú vị mang lại nhiều niềm vui -
nhưng cái gì cũng có hai mặt. Họ sẵn sàng nói về mặt phải, còn tôi, chắc vì ở
Việt Nam lâu và không tự coi mình là khách mời lịch sự nữa, rất sẵn sàng nói về
mặt trái.
Hâm 3.0
Nhiều người
nói với tôi rằng đàn ông bước qua tuổi ba mươi mà vẫn chưa có gì sẽ bắt đầu hâm
hâm. Thuộc dạng trên, tôi bắt đầu lo lo.
Tôi là người
càng lo về một chuyện càng phân tích xem tôi có thực sự hiểu chuyện đó không -
càng phân tích càng cảm thấy chưa hiểu. Và càng lo. Chết đuối trong xoáy nước
này, tôi xác định hai câu hỏi mấu chốt:
1. Đàn ông
ngoài ba mươi, chưa vợ có thực sự bị hâm không?
2. Nếu có
thì:
a. Hâm vì
chưa có vợ.
b. Hâm từ
trước nên không cô nào muốn lấy.
Sự khác biệt
giữa (2.a) và (2.b) rất quan trọng. Theo lôgíc (2.a), đa số các anh ở tuổi hai
mấy là đàn ông bình thường. Nếu lấy vợ trước khi lên tuổi ba mươi, họ sẽ tiếp tục
là đàn ông bình thường, đến cõi mộng vẫn là đàn ông bình dị, thường kỳ. Còn các
anh bước qua tuổi ba mươi vẫn chưa có gì sẽ bắt đầu hâm hâm, bộ não bắt đầu
phân hủy… Điều quan trọng là đa số “đàn ông ngoài ba mươi chưa vợ và đang hâm”
(ĐONBMCV&ĐH) đã từng có cơ hội tránh số phận đen đủi này. Đã từng có và đã
từng bỏ.
Theo lôgíc
(2.b), đa số ĐONBMCV&ĐH đã không có cơ hội ấy đâu. Họ bị hâm từ hồi nhỏ, thậm
chí hâm bẩm sinh. Lúc hai mấy tuổi, họ rất muốn lấy vợ. Nhưng phụ nữ Việt Nam
nhận ra mùi hâm như con nai nhận ra mùi khói lấy vợ làm sao được khi các em đến
gần một chút là tự nhiên chạy ra như vừa thấy thần chết.
Theo lôgíc
(2.a), xã hội nên trách ĐONBMCV&ĐH. Vì quá lười, quá đa tình, quá yêu sự
nghiệp nên họ đánh mất tương lai - tự mở cửa cho gió hâm thổi vào. Theo lôgíc
(2b) xã hội nên thương họ. Vì sinh ra là thế nên họ nỗ lực đến mấy cũng không
bao giờ có tương lai hạnh phúc. Họ khổ. Họ phải chịu áp lực cuộc sống như mấy
chiếc ghế nhựa ở quán bia hơi phải chịu áp lực cái mông của các chú béo phì.
Nhưng trả lời
câu hỏi (2) trước khi trả lời câu hỏi (1) là gửi hết tiền trước khi uống cốc
bia nào. Vậy câu hỏi (1) thì sao? Đàn ông ngoài ba mươi và chưa vợ có thực sự bị
hâm không? Có lẽ cách tốt nhất để biết về các anh nói chung là nhìn vào một số
trường hợp nói riêng.
Nên chọn trường
hợp ai cũng biết đến, người nổi tiếng ai cũng có thể đánh giá riêng dựa trên cảm
nhận cá nhân. Thế là phải chọn sao. Bắt đầu với sao Tây. Robbie Williams? Simon
Cowell? Ronaldo béo? Hâm, hẩm, hấp. Tiếp tục với sao ta.
Hay thôi.
Sao ta thuộc bầu trời khác. Tất cả mọi việc từ sức khỏe tâm thần đến phong cách
ăn mặc tốt nhất không nên bình luận. Báo mạng bảo sao lầy ăn mặc xấu, sao ta cười.
Báo mạng bảo sao ta ăn mặc xấu, sao ta kiện. Tuy nhiên tôi đang hình dung vài
“anh sao” Việt Nam, đang xoa tay và cười - cứ coi như câu hỏi (1) đã được trà lời.
Thế là phải
quay trở lại với câu hỏi (2). Hâm vì không lấy ai, hay hâm nên không ai lấy?
Hâm vì thiếu sữa, hay hâm vì không chịu bú.
Rất tiếc
chúng ta cần có cuộc khảo sát quy mô lớn mới trả lời được câu hỏi đó. Có lẽ tốt
nhất là tôi dành mấy dòng chữ còn lại để nhìn vào trường hợp của chính tôi; hy
vọng từ cái nhỏ sẽ ra được cái to. Nếu như ở tuổi hai mấy tôi đã có khả năng
thuyết phục một trong các em đến thăm nhà ở lại làm vợ thì chuyện tôi đang bị
hâm bây giờ là do bản thân tôi phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.
Tôi không
đám chắc, nhưng tôi nghĩ tôi đã có - có khả năng mà không dùng đến, có cơ hội
mà không chớp lấy.
Mấy lần tôi
suýt thành đức ông chồng. Cô ấy sẵn sàng còn tôi cũng hơi hơi sẵn sàng nốt.
Nhưng cái “cũng hơi hơi” là cái khủng khiếp lắm - gần miệng hay không, cơm
không vào bụng mình vẫn chết đói. Tôi thích tự do. Tôi sợ có em nào chết vì tôi
thì em ấy sẽ kéo tôi xuống địa ngục để trả thù.
Dĩ nhiên đó
chỉ là tôi. Tôi không phủ nhận sự tồn tại của một số đàn ông ngoài ba mươi,
chưa vợ nhưng chưa chắc gì đã hâm (ĐONBMCVNCCGĐH). Nhưng dựa trên cảm nhận
riêng, đa phần các anh ngoài ba mươi và vẫn độc thân có vấn đề. Chúng tôi đã
hoàn toàn có thể lấy một phụ nữ tốt bụng làm vợ. Nhưng chúng tôi ích kỷ. Chúng
tôi lười. Còn bây giờ chúng tôi hâm.
Vậy chúng
tôi không xứng đáng để nhận lòng thương của xã hội. Nhưng chúng tôi vẫn giữ một
hy vọng nhỏ nhoi. Nếu khi còn hai mấy tuổi, chúng tôi cần một người phụ nữ bình
thường nhận chiếc nhẫn và duy trì độ hâm hấp của mình ở mức thường, thì bây giờ
chúng tôi cần một người phụ nữ đặc biệt hơn. Đó là một em có khả năng kéo độ
hâm hấp của mình xuống mức thường rồi nỗ lực cả đời để nó không quay lại mức
cao.
Khăn tắm
Không có gì
quý hơn một chiếc khăn tắm dùng qua ba tháng.
Với tôi, một
ngày không bắt đầu với mấy phút tắm nước nóng dưới vòi hoa sen là một ngày không
bắt đầu. Còn mấy phút tắm nước nóng không kết thúc bằng một chiếc khăn tắm mềm
mại là mấy phút không kết thúc.
Các khăn tắm
mới thường có lớp phủ ngoài bằng hóa chất - cho mượt, cho bóng. Khách vào siêu
thị, khách sờ, khách thích, khách lấy ví ra. Nhưng lớp hóa chất đó sẽ can thiệp
vào công việc chính của bất cứ một chiếc khăn tắm nào - là hút nước.
Từng ngày từng
ngày, máy giặt và mặt trời sẽ cùng nhau xóa lớp phủ ngoài đi. Khăn tắm sẽ trở
nên cứng hơn một chút, xấu hơn một chút - và tác dụng hơn nhiều. Sau khoảng ba
tháng, nó sẽ ở giai đoạn lý tưởng nhất trong cuộc đời một chiếc khăn tắm: chưa
hết mềm, đã hút tốt.
Rồi đến với
thời xuống cấp. Khăn cứng đi nhiều, xấu đi nhiều, giảm mức hiệu quả. Máy giặt
và mặt trời bắt đầu đánh mạnh, đấm lỗ, xé rách, cào cấu. Sờ tay vào sẽ có cảm
giác như mình đang sờ chiếc bánh đa.
Lúc đó mình
có hai lựa chọn. Tiếp tục với khăn cũ hoặc bắt đầu lại với khăn mới. Cuộc đời
thường chỉ cho mình hai lựa chọn ấy thôi, ít người bán khăn tắm dùng qua ba
tháng.
Hội những
người thích ở một mình
Tôi muốn
thành lập hội những người thích ở một mình. Đó sẽ là một hội rất trầm lặng, mỗi
năm gặp nhau không lần - vì tổ chức sự kiện cỡ nào cũng chẳng có ai đến.
Hội chỉ tồn
tại để người thích ở một mình biết có nhiều người khác cũng thích ở một mình.
Biết về sự tồn tại của nhau, biết xã hội không toàn người có tinh thần hướng
ngoại. Chúng tôi chỉ cần điều đó.
“Một mình” ở
đây không liên quan chuyện yêu đương. “Thích ở một mình” không có nghĩa là
không thèm yêu. “Thích ở một mình”, theo hiến pháp mới nhất của hội, có nghĩa
là mỗi ngày thích có chút thời gian ở một mình để suy nghĩ, thư giãn, sáng tác
- và sạc pin.
Ai muốn đăng
ký tham gia phải có tính cách giống chúng tôi. Vậy chúng tôi là những người như
thế nào?
Trước hết
chúng tôi là những người bình thường. Văn hóa Việt Nam hơi nghiêng về phía cộng
đồng, nên chúng tôi ở đây dễ dính từ “lập dị”. Nhưng chúng tôi không bị trầm cảm,
ám ảnh, tự kỷ hay bất cứ bệnh tâm thần nào khác. Chúng tôi chỉ thích ở một
mình. Thế thôi.
Hơn nữa,
không phải lúc nào chúng tôi cũng thích ở một mình. Chúng tôi đôi khi rất thích
chia sẻ, có người ngồi bên cạnh. Nhưng người đó phải hợp với chúng tôi; ăng-ten
của họ phải bắt đúng tín hiệu chúng tôi đang phát. Mặc dù chúng tôi có khả năng
nói chuyện xã giao với bất cứ ai (đời luôn tạo cơ hội tập luyện) nhưng chúng
tôi sẽ vất vả, nhanh hết pin.
Chúng tôi
hay ăn trưa một mình, nhìn ra cửa sổ.
Chúng tôi
hơi kiêu.
Chúng tôi
thích các quán cà phê yên tĩnh.
Chúng tôi
ghét người gây ồn ào tại các quán cà phê đáng-lý-là-yên-tĩnh. Chúng tôi đặc biệt
ghét người gây ồn ào bằng cách nói bậy. Chúng tôi cầu trời để một phần trần nhà
rơi trúng đầu họ cho bất tỉnh. Chúng tôi không hiểu vì sao họ không tự biết họ
đang nói quá to. Bản thân chúng tôi chỉ nói đủ to để người đối diện nghe thấy.
Một cuộc trò chuyện riêng là một cuộc trò chuyện riêng, sao nhiều người mãi
không hiểu điều đó? Chúng tôi hay bị người xung quanh hỏi: “Sao bạn ít nói thế.”.
Chúng tôi ghét câu hỏi đó.
Chúng tôi thỉnh
thoảng có cảm giác muốn thoát khỏi phòng karaoke, nhà hàng, đám cưới đông. Nếu
cảm giác đó mạnh thì chúng tôi biết nhiều cách biến nó thành hành động. Sáng
hôm sau có người nhắn tin hỏi: “Tối qua mày về lúc nào thế?”. Chúng tôi cười.
Hóa ra chúng tôi là ma.
Chúng tôi sợ
những lần đi chơi nhóm mà theo văn hóa Việt phải chờ mọi người đứng lên nói
“Đi!” mới bắt đầu giải tán. Chúng tôi càng sợ hơn khi mọi người đang chuẩn bị về
rồi quyết định “hát nốt” vài bài, việc hát nốt ấy kéo dài hơn nửa tiếng.
Chúng tôi
không sợ nói dối, nếu việc đó giúp chúng tôi về sớm.
Chúng tôi sợ
Tết. Chúng tôi khó yêu.
Ai yêu chúng
tôi (và được chúng tôi yêu lại) là người may mắn.
Khi học cấp
ba và bị thầy giáo yêu cầu phải làm việc nhóm, chúng tôi cố tình nhận những việc
khó nhất, mang về tự làm. Chúng tôi không muốn mất thời gian bàn bạc. Thú thật
mà nói, chúng tôi sẽ làm tốt và nhanh hơn.
Chúng tôi
yêu thiên nhiên.
Chúng tôi sợ
người chậm hiểu. Ví dụ, một anh taxi hay bắt chuyện khách vào những lúc thực sự
không nên bắt chuyện khách. Chúng tôi sẽ trả lời hết sức ngắn gọn và xã giao để
anh ấy hiểu rằng chúng tôi không có gì để nói vào lúc này. Khi anh ấy hỏi tiếp
(và tiếp, và tiếp) chúng tôi sẽ bị điên trong lòng. Nếu đặt mình vào chiếc ghế
của anh ấy thì chúng tôi đã thôi ngay - có chút cảm giác khách không muốn nói
chuyện là im lặng như câm.
Chúng tôi chỉ
biết mỗi một cảm giác khó chịu hơn khi bị người chậm hiểu làm phiền. Đó là cảm
giác khi phải giải thích với người chậm hiểu rằng họ đang làm phiền mình.
Chúng tôi
thích đi bộ.
Chúng tôi
không thích phát triển quan hệ với cấp trên bằng cách đi nhậu. Chúng tôi thà
cho tiền gấp đôi vào phong bì A4 còn hơn ngồi uống bia cùng các ông thèm của
gió.
Sang nhà cô
hàng xóm để mượn tuốc nơ vít, thấy cô ấy đang xếp ghế và rót nước, chúng tôi
nghĩ: “Chết rồi!”
Chúng tôi
yêu mèo.
Chúng tôi
thích vẽ tranh, viết blog và các việc sáng tạo khác xuất phát từ những giây
phút ở một mình.
Chúng tôi
quý người già.
Chúng tôi có
khả năng nhận ra nhiều thứ. Ai đang yêu ai. Ai đang sợ ai. Ai đang sợ yêu ai.
Chúng tôi có
khả năng nhận ra nhau. Đi bữa tiệc sinh nhật, được giới thiệu với 15 người bạn
mới, thì chúng tôi nhận ra ngay ai là “đồng hương”. Anh Joe ơi, đây là bạn Linh
(tôi gật đầu, cười), kia là anh Hiếu (tôi gật đầu, cười), là em Nhung (tôi gật
đầu, cười), là em Hiền (đầu tôi dừng lại). “Em giống anh đấy,” hai mắt của em
Hiền nói cho riêng tôi nghe. “Và em biết anh rất giống em.”
Chúng tôi có
văn hóa riêng. Nếu tôi đi chơi cùng một người Canada “ngoài hội” và một người
Việt “trong hội”, tôi sẽ cảm thấy gắn bó với người Việt hơn.
Chúng tôi nhạy
cảm.
Khi thấy có
người đang buồn vì khó tham gia cuộc trò chuyện, chúng tôi sẽ tạo điều kiện để
người ấy nhảy vào.
Khi thấy có
người đang buồn vì phải tham gia cuộc trò chuyện, chúng tôi sẽ tạo điều kiện để
người ấy nhảy ra. Chúng tôi khéo (lúc chúng tôi muốn). Chúng tôi có khả năng
làm người chưa khéo cảm thấy sợ, ghen hoặc ghét (lúc chúng tôi không muốn).
Chúng tôi
hay bị hiểu nhầm là người bi quan. Nhưng chúng tôi không lắc đầu nhiều đâu.
Chúng tôi lạc quan và tự tin. Chúng tôi sống ý nghĩa và đóng góp cho xã hội -
theo cách của chúng tôi.