Tôi đã tập hôn như thế nào - Phần 7b (Hết)
Năm 1983, Jeff mô tả những hiểu biết của mình về bầy cá heo ở
công viên Thế giới Đại dương trong một bài viết gửi cho tập san của Tổ
chức Sinh vật biển có vú Hoa Kỳ. Nhưng Jeff đã không thể lường trước hậu
quả. Bực mình vì có một chú bé tự do chơi đùa với bầy cá heo, bất chấp
luật lệ như thế mà ban quản lý công viên không hề hay biết, Ban Giám đốc
công viên Thế giới Đại dương quyết định cấm cửa Jeff. Thế là Jeff đành
lủi thủi quay gót về nhà trong nỗi thất vọng não nề.
Nhưng cha mẹ
Jeff thì nhẹ cả người vì họ cho rằng chẳng ích lợi gì khi chơi với lũ cá
heo kia, cho đến một ngày tháng 6 năm 1984, khi gia đình họ bất ngờ
nhận được một cú điện thoại đường dài. Buổi chiều hôm đó, mẹ Jeff hỏi
con trai: “Gần đây con có tham dự cuộc thi nào không?”
Rụt rè,
Jeff thổ lộ rằng mình đã viết một bài luận để xin tổ chức Earthwatch một
học bổng trị giá hơn 2.000 đôla mà cậu hằng ao ước. Người giành được
học bổng sẽ được đi Hawaii một tháng cùng với những chuyên gia về cá
heo. Khi nói ra những điều này với mẹ, Jeff tưởng sẽ bị mắng một trận.
Nhưng không, trái lại, mẹ Jeff chỉ nói nhẹ nhàng: “Thế thì, con đã trúng
giải rồi.”
Jeff há hốc mồm vì ngạc nhiên. Trước hết, đó là lần
đầu tiên trong đời, cha mẹ Jeff đã nhận ra rằng con họ cũng có thể đạt
đến ước mơ dành trọn tình yêu của mình cho cá heo.
Jeff đi Hawaii
một tháng, dạy cho cá heo một loạt những mệnh lệnh để thử khả năng ghi
nhớ của chúng. Vào mùa thu, Jeff đã đáp ứng được thêm được một điều kiện
khác của học bổng, bằng một bài diễn thuyết về động vật biển có vú
trước các bạn học cùng trường Trung học Torrance. Báo cáo của Jeff thể
hiện một tình yêu mãnh liệt với đại dương, đến nỗi khán giả phải ghìm
nỗi ghen tức mà nể phục diễn giả trẻ tuổi.
Sau khi tốt nghiệp,
Jeff cố gắng tìm một việc làm trong ngành nghiên cứu đại dương, và kiếm
thêm thu nhập bằng cách làm ngoài giờ ca đêm với mức lương thấp nhất.
Cùng lúc đó, anh cũng đã nhận được bằng hội viên sinh vật học.
Tháng
2 năm 1992, anh xuất hiện tại văn phòng của cô Suzanne Fortier, quản lý
chương trình huấn luyện động vật-đại dương ở công viên Diệu Sơn. Mặc dù
đang làm hai công việc, anh vẫn tình nguyện chăm sóc những con cá heo ở
Diệu Sơn vào những ngày nghỉ. Fortier đã cho Jeff một cơ hội và ngay
lập tức Jeff khiến họ vô cùng ngạc nhiên. Trong số 200 tình nguyện viên
mà Fortier đã huấn luyện trong vòng 10 năm qua, cô chưa từng thấy một ai
c khả năng giao cảm đặc biệt với cá heo như Jeff.
Chẳng hạn như
sự việc sau đây. Những nhân viên của Fortier muốn chuyển con cá heo
Thunder nặng gần 300 kí đến một công viên khác. Con cá phải được chuyển
đi trong một cái bể chứa dài gần hai thước, rộng hơn một thước. Trong
suốt chuyến đi, Jeff luôn nài nỉ được ở trong thùng xe tải có cái bể
chứa cá heo để cố gắng trấn an con cá đang hoảng loạn. Sau đó, khi
Fortier gọi cho anh để hỏi thăm về tình hình con cá, từ trong buồng lái
xe tải, Jeff trả lời: “Nó rất ổn. Tôi đang ru cho nó ngủ đây.” Thật ra
Jeff đang ở trong bể chứa với Thunder! Fortier đã nhận biết điều đó.
Trong vòng bốn tiếng đồng hồ, Jeff bềnh bồng trong cái bể chứa lạnh ngắt
để ôm con cá trong vòng tay của mình.
Các cộng sự của Jeff càng
ngạc nhiên hơn khi thấy anh rất thân thiết với những con cá này. Tại
công viên Diệu Sơn, Jeff thích nhất nàng cá heo Katie, nặng khoảng 160
kí, tám tuổi; nó đã chào anh nồng nhiệt và bơi với anh hàng giờ liền.
Còn ở công viên Thế giới Đại dương, Jeff có thể trò chuyện hàng giờ với
những cô nàng cá heo và được chúng âu yếm đáp trả. Anh chẳng cần phải
quan tâm đến việc bị người ta thử thách như thế nào.
Khi Jeff cố
gắng chạy đến công viên Diệu Sơn vào buổi sáng xảy ra động đất, tất cả
các xa lộ đều hư hỏng nặng, và những con đường với vô số rãnh sâu đã
khiến anh phải quay ngược trở lại. Nhưng Jeff vẫn kiên quyết. Không gì
có thể ngăn được ta. Cuối cùng khi đến được công viên Diệu Sơn, Jeff
thấy mực nước sâu gần 4m trong hồ cá heo chỉ còn lại một nửa, và nước
vẫn đang tiếp tục chảy ra ngoài từ vết nứt bên thành hồ. Cả ba con cá –
Wally, Teri và Katie – đều đang rất hoảng loạn vì các cơn chấn động.
Jeff phải nằm choài xuống một cái gờ cách mặt hồ khoảng hơn một mét để
trấn an bọn chúng.
Để làm cho mấy con cá bớt căng thẳng trước
những cơn chấn động liên tục, Jeff chơi đùa với chúng, nhưng cũng không
thể xoa dịu được sự hốt hoảng. Tệ hơn thế, anh còn buộc lòng phải giảm
khẩu phần ăn của chúng, vì hệ thống lọc nước của hồ đã bị hỏng, nguy cơ ô
nhiễm hồ nước do chất thải của chúng rất cao.
Jeff vẫn ở lại với
bọn cá suốt đêm đó khi ngoài trời lạnh dưới 00C. Anh vẫn ở lại đó vào
ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa, và thêm ngày nữa
Đến ngày thứ tư,
một con đường được khai thông, các nhân viên của công viên Diệu Sơn tìm
được một chiếc xe tải để chuyển Wally, Teri và Katie sang cái hồ ở nông
trại Berry. Nhưng trước hết, cần phải có ai đó đặt chúng vào những cái
bồn chứa. Di chuyển một con cá heo là một việc làm đơn giản, chỉ cần
hướng dẫn nó chui vào một đường hầm và sau đó dùng một cái quang bằng
vải bạt lớn vớt nó lên. Nhưng hiện giờ mực nước trong đường hầm quá cạn,
không đủ cho cá bơi qua, vì thế buộc lòng phải bắt những con cá này khi
chúng đang bơi ngoài hồ, rồi chuyển sang những cái quang.
Jeff và
một nhân viên tên Bob tình nguyện làm việc này. Vì hiểu rõ những con cá
nên Jeff biết rằng nếu bắt chúng ngoài hồ như thế này, thế nào cũng bị
chúng quật đau hoặc gây thương tích.
Wally thì dễ dàng cho bắt,
nhưng Teri và Katie lại dở chứng. Mỗi khi Jeff và Bob tiến lại gần
Katie, con cá to khỏe này lại thủ thế bằng chiếc mõm cứng và mạnh mẽ của
nó.
Gần bốn mươi phút trôi qua, hai người phải vất vả đánh vật
với những cú húc đầu và quật đuôi tự vệ của Katie. Cuối cùng, trước khi
được vớt lên cái quang vải bạt, Katie còn cắm những cái răng sắc nhọn
như kim vào tay Jeff. Mặc cho vết thương đang rỉ máu, Jeff vẫn tiếp tục
bắt nốt Teri bỏ vào bồn chứa.
Khi đến nông trại Berry, con Katie
kiệt sức nhưng vẫn còn tỉnh táo. Sau đó, cô Fortier nói cho các đồng
nghiệp biết, nhờ có sự can đảm và tài điều khiển của Jeff mà các cô nàng
cá mới đến được nơi ở mới một cách an toàn.
Hiện nay, Jeff là một
huấn luyện viên cá heo chuyên nghiệp tại công ty Nuôi dạy động vật biển
ở Gulfport, bang Mississippi, nơi anh tổ chức các chương trình giúp các
trường huấn luyện khác.
Một hôm, trước khi chuẩn bị đi
Mississippi, anh tổ chức một buổi thuyết trình cho 60 học sinh ở trung
tâm Swit tại một trong những công viên có bể nuôi cá mà anh đã giảng
dạy. Anh để ý thấy có một cậu học sinh tên là Larry đã lẻn ra ngoài.
Nhận thấy Larry là một trường hợp đặc biệt như mình trước đây, anh gọi
cậu bé lại đứng kế bên mình. Sau đó Jeff cho cả hai tay vào một bể cá
gần đó và vớt lên một con cá mập gai dài khoảng hơn một mét. Mặc dù con
cá này không nguy hiểm, nhưng trông nó có vẻ khá dữ dằn. Anh cho phép
Larry bế con vật ướt sũng ấy đi khắp phòng một cách hãnh diện trước sự
sửng sốt của bọn nhóc.
Sau buổi huấn luyện đó, Jeff nhận được một
lá thư cảm ơn. Trong thư viết rằng: “Cảm ơn anh vì những công việc đầy ý
nghĩa mà anh đã làm cho học sinh chúng tôi. Trở về nhà, các em rất hớn
hở vì đã học được nhiều kinh nghiệm. Nhiều em kể cho chúng tôi nghe
chuyện Larry đã được bế một chú cá mập. Đây quả là thời khắc sung sướng
nhất và hãnh diện nhất trong đời em ấy. Hơn nữa, việc anh đã từng là một
cựu học sinh ở đây góp thêm nhiều ý nghĩa. Anh chính là tấm gương để
bọn trẻ noi theo với thông điệp thế nào các em cũng sẽ ‘làm được’ như
thế trong đời.” Tác giả lá thư đó chính là Janet Switzer, người sáng lập
trung tâm này.
Vào buổi chiều tuyệt vời ấy, Jeff rất hài lòng về
những gì đã làm được. Khi đang diễn thuyết, Jeff thấy cha mẹ ngồi trong
hàng ghế khán giả và chăm chú nhìn anh. Nhìn nét mặt hai người, Jeff có
thể nói rằng, cuối cùng cha mẹ cũng cảm thấy hãnh diện về con trai mình.
Trong
đời, Jeff chưa bao giờ kiếm được số tiền nhiều hơn 14.800 đôla một năm,
song anh vẫn tự cho mình là người giàu có và là một người may mắn hiếm
thấy. Jeff nói: “Tôi đã hoàn toàn được đền đáp, những con cá heo đã cho
tôi rất nhiều khi tôi còn là một cậu bé. Chúng đã mang lại cho tôi một
tình yêu vô điều kiện. Khi nghĩ về những điều mình còn nợ chúng…”, trong
khoảnh khắc giọng anh chùng xuống, và anh lại mỉm cười: “Chúng đã mang
lại cho tôi cuộc sống. Tôi nợ chúng mọi thứ.”
PAULA MCDONALD
Đối mặt với sự thật
Với bất cứ những gì mà bạn đang làm, hãy yêu chính bản thân bạn vì điều đó.
Với bất cứ những gì mà bạn đang nghĩ, hãy yêu chính bản thân bạn vì điều đó.
Thadeus Golas
Khi
sắp bước qua tuổi 16, bạn thường đứng trước gương và ngắm nghía khuôn
mặt mình không sót một chỗ nào. Có thể bạn sẽ đau khổ vì cái mũi mình to
quá, còn trên cái mũi ấy là một cái trán đầy mụn, và trên cùng là
khuyết điểm khiến bạn thất vọng hết chỗ nói: tóc bạn không có màu vàng
óng, nên anh chàng học cùng lớp Anh văn vẫn chưa thèm để ý đến bạn.
Hai
năm trước đây, Alison chưa bao giờ bận tâm về vấn đề nan giải này. Vốn
là một nữ sinh lớp mười một, yêu kiều, thông minh và được nhiều người
biết đến, Alison còn là một thủ môn trong đội tuyển bóng gậy của trường
và là một tình nguyện viên của chương trình Bảo vệ sự sống đại dương.
Với mái tóc vàng và dày, đôi mắt xanh lơ, thân hình cao và mảnh khảnh,
Alison trông giống như một người mẫu áo tắm hơn là một học sinh trung
học. Nhưng mùa hè năm ấy, một biến cố đã thay đổi cuộc đời Alison.
Sau
một ngày hoạt động cho chương trình Bảo vệ sự sống đại dương, Alison
lập tức quay về nhà, gội đầu cho trôi ngay thứ nước biển đầy muối và
chải mái tóc rối bời cho mượt. Alison phủ mái tóc bị nắng táp về phía
trước trán. Mẹ cô thốt lên: “Ali! Con đã làm gì thế này?” Bà đã phát
hiện một mảng tóc sói trên đỉnh đầu con gái. “Con đã nhổ tóc hay sao
thế? Hay là khi con đang ngủ có ai đó đã cạo đầu con chăng?” Sau khi tìm
đủ nguyên nhân, hai mẹ con cho rằng Alison đã cột tóc quá chặt đến nỗi
rụng tóc, rồi nhanh chóng quên đi sự cố đó.
Ba tháng sau, một mảng
da đầu trụi tóc khác lại lộ ra, và lại một mảng khác nữa. Chẳng mấy
chốc, mái tóc của Alison rụng lỗ chỗ gần hết. Chẩn đoán Alison quá căng
thẳng thần kinh và sau những lần điều trị bằng cách xức dầu dưỡng tóc
vào những chỗ tóc rụng, chuyên gia tóc bắt đầu sử dụng đến thuốc tiêm
cortisone. Cứ hai tuần một lần, Alison được tiêm 50 mũi cho mỗi chỗ rụng
tóc. Để che phần da đầu đỏ bóng đó, Alison được phép đội mũ bóng chày
khi đi học. Chỉ trong vòng hai tuần sau khi điều trị, từng chùm tóc nhỏ
lại tiếp tục rụng khỏi da đầu của Alison. Cô đã mắc chứng rụng tóc
(alopecia), một chứng bệnh về tóc không thể chữa khỏi.
Với bản
tính vui vẻ và được nhiều bạn bè yêu mến, Alison vẫn tiếp tục mọi sinh
hoạt với nỗi buồn giấu kín bên trong. Một lần, em gái của Alison đi vào
phòng ngủ của cô với chiếc khăn tắm trùm lên đầu. Khi gỡ chiếc khăn ra,
Alison thấy những lọn tóc dày và rối bời rủ trên đôi vai em gái. Nâng
mái tóc mềm mại của em trong tay, Alison bật khóc. Đó là lần đầu tiên
Alison khóc kể từ khi chuyện không may đó xảy ra với cô.
Dần dần,
Alison đã thay chiếc nón kia bằng một chiếc khăn trùm, không cần giấu
giếm bệnh của mình nữa. Vì mái tóc chỉ còn lơ thơ vài nhúm, Alison phải
mang tóc giả. Thay vì cố gắng hồi phục mái tóc vàng óng mượt thuở nào,
Alison lại giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cô đã chọn cho mình một
mái tóc giả màu vàng nâu chấm ngang vai. Sao lại không nào? Người ta
vẫn luôn cắt và nhuộm tóc đấy thôi. Với diện mạo mới này, Alison đã lấy
lại sự tự tin ban đầu. Ngay cả khi mái tóc giả bị gió thổi bật khỏi đầu
khi Alison ngồi bên cửa sổ xe hơi, mấy đứa bạn cũng vui vẻ cười thông
cảm.
Nhưng khi mùa hè trở lại, Alison bắt đầu lo lắng. Nếu không
thể mang tóc giả trong nước, thì làm sao cô có thể tiếp tục hoạt động
cho chương trình Bảo vệ sự sống đại dương được nữa? Ba cô hỏi: “Sao thế
con, con đã quên cách bơi rồi ư?” Câu hỏi đó đã mang lại cho Alison một
gợi ý.
Mang cái mũ bơi suốt cả ngày thật là khó chịu nên Alison đã
lấy hết can đảm quyết định để đầu trần, mặc kệ những ánh mắt soi mói và
những lời bình phẩm của một số người trên biển: “Tại sao lại điên khùng
cạo hết tóc của mình như những tay cuồng nhạc rock như thế?
Alison
trở lại trường vào mùa thu năm ấy với cái đầu trọc lóc, không chân mày,
không lông mi. Như đã dự định từ lâu, Alison sẽ vận động tranh cử chức
chủ tịch hội học sinh, chỉ cần thay đổi bài phát biểu của mình chút ít
thôi. Kèm theo bài phát biểu, Alison chiếu phim giới thiệu các nhà lãnh
đạo có cái đầu hói, từ Gandhi cho tới Mr. Clean, khiến toàn thể học sinh
và các thầy cô nhiệt liệt hoan nghênh.
Trong bài phát biểu đầu
tiên sau khi trúng cử, Alison đã đề cập đến hoàn cảnh của mình, trả lời
những câu hỏi một cách hoàn toàn thoải mái. Alison chỉ vào chiếc áo sơ
mi đang mặc có dòng chữ in trước ngực “Ngày Chơi Tóc Bụi”, và nói: “Một
ngày nào đó khi tất cả quý vị thức dậy vào buổi sáng và cảm thấy không
hài lòng về diện mạo của mình, quý vị có thể mặc chiếc áo này vào.” Bên
ngoài, Alison mặc thêm một chiếc áo sơ mi khác có dòng chữ “Ngày Không
Tóc” và nói tiếp: “Buổi sáng khi thức dậy, tôi mặc chiếc áo này vào.”
Tất cả mọi người vỗ tay hoan hô. Và Alison với đôi mắt xanh lơ, xinh
đẹp, duyên dáng, nổi tiếng thông minh – chưa kể cô còn là một thủ môn
đội tuyển bóng gậy của trường, một tình nguyện viên chương trình Bảo vệ
sự sống đại dương và giờ đây, chủ tịch hội học sinh – đang mỉm cười từ
sau bục diễn thuyết.
JENNIFER ROSENFELD và ALISON LAMBERT
Tôi đã được tự do!
Nhiệm vụ phía trước chúng ta không bao giờ nặng nề như nghị lực trong lòng chúng ta.
Một kẻ nghiện rượu vô danh
Tháng 5 năm 1989
Chỉ
còn một tháng nữa là tốt nghiệp phổ thông, hơn bao giờ hết tôi quyết
tâm phải lăn cho được lên sân khấu tốt nghiệp bằng chính chiếc xe lăn
tay của mình. Như các bạn biết đấy, tôi bị bệnh bại não bẩm sinh nên
không thể nào bước đi được. Để luyện tập cho ngày tốt nghiệp, tôi tập
ngồi xe lăn hàng ngày ở trường.
Thật khó khi phải tự mình đẩy xe
đi vòng quanh sân trường, trong khi phải mang theo bốn năm quyển sách,
nhưng tôi vẫn cố làm được điều đó. Trong vài ngày đầu mới ngồi xe lăn ở
trường, ai cũng muốn đẩy xe giúp tôi đi từ lớp này qua lớp khác, nhưng
sau vài lần tôi nửa đùa nửa thật nói với tụi bạn: “Mình không cần sự
giúp đỡ hay thương hại của các cậu đâu nhé”. Thế là tụi bạn tôi hiểu ý
và để tôi tự mình thở hổn hển lăn xe đi khắp trường.
Lúc nào tôi
cũng cảm thấy hết sức hài lòng khi ngồi trên chiếc xe lăn của mình,
nhưng khi bắt đầu lăn xe đi vòng vòng trong sân trường, tôi nhận thấy
phần thưởng mình được hưởng còn lớn hơn nhiều so với những gì tưởng
tượng. Không những tự thấy mình thật khác biệt, mà dường như tôi cũng
được các bạn nhìn ở một đẳng cấp khác. Các bạn cùng lớp đã biết rõ sự
kiên trì và quyết tâm của tôi, và nói thật là cũng có phần nào nể trọng
tôi vì điều đó. Tôi hoàn toàn thoải mái về tinh thần và thể xác như thể
được hồi sinh khi kiên trì sử dụng chiếc xe lăn tay.
Khi lớn hơn
chút nữa, được sử dụng chiếc xe lăn điện tử, tôi càng cảm thấy được tự
do hơn rất nhiều. Tôi có thể đi lại bất cứ nơi nào một cách thoải mái và
tự do mà không phải tốn nhiều sức lực. Tuy nhiên, càng lớn, tôi càng
nhận ra rằng, chiếc xe lăn điện tử từng mang lại cho tôi nhiều sự tự do
ấy đã nhanh chóng trở thành chướng ngại vật. Tôi nhận thấy nếu còn phụ
thuộc hoàn toàn vào chiếc xe lăn điện tử đó, tôi không còn là một người
tự do nữa. Sự thôi thúc được tự do về mọi mặt trong cuộc sống đã làm tôi
hết sức bực mình.
Đối với tôi, tốt nghiệp phổ thông trên một
chiếc xe lăn là khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời. Tôi muốn vào đời
bằng hình ảnh một thanh n hoàn toàn tự do, độc lập – tôi sẽ không cho
phép mình trình diện trên sân khấu tốt nghiệp trong một chiếc xe lăn
điện tử. Không cần biết là phải mất 20 phút mới đi hết sân khấu, tôi
quyết sẽ đi bằng xe lăn tay.
Ngày 14 tháng 6 năm 1989
Ngày
tốt nghiệp. Buổi chiều hôm ấy toàn thể học sinh tốt nghiệp diễu hành
quanh sảnh đường với mão và áo thụng, rồi đi về phía chỗ ngồi ở sân
khấu. Tôi ngồi một cách tự hào trên chiếc xe lăn tay thông thường ở hàng
ghế đầu lớp tốt nghiệp của tôi.
Khi người dẫn chương trình xướng
tên tôi, tôi nhận thấy rằng tất cả những gì mình phấn đấu khi còn là một
đứa trẻ nay đã trở thành hiện thực. Cuộc sống độc lập mà tôi đã cố gắng
cật lực để đạt cho bằng được nay đang nằm trong tầm tay của tôi.
Tôi
đẩy xe từ từ về phía sân khấu. Trong lúc cố gắng tập trung đẩy mình về
phía trước, nhìn lên, tôi thấy mọi người trong sảnh đường đều dành cho
tôi sự hoan nghênh nhiệt liệt. Tôi nhận tấm bằng tốt nghiệp mà lòng cảm
thấy rất tự hào. Quay lại nhìn các bạn, tôi giơ cao tấm bằng qua khỏi
đầu, và la lên thật lớn: “Tôi đã làm được rồi… Tôi đã làm được rồi!”
MARK E. SMITH
Cho những khởi đầu mới
Tháng 6, 1996
Chào con yêu của mẹ,
Thật
là tốt đẹp vì con đã tốt nghiệp rồi! Sau lễ tốt nghiệp, con đã sẵn sàng
bước vào cuộc hành trình mới trong cuộc đời. Mẹ biết rằng con đang rất
phân vân, bối rối. Kỳ lạ là trong hầu hết những khoảnh khắc quan trọng
nhất của cuộc đời, tâm trạng của chúng ta thường lẫn lộn nhiều cảm xúc.
Nhưng điều đó cũng tốt. Nó làm cho những thời điểm thuận lợi trở nên quý
giá hơn và vào những thời điểm-không-thuận-lợi-lắm, chúng ta cũng có
thể chịu đựng được.
Mẹ đã suy nghĩ rất nhiều để cố tìm ra những
lời khuyên khôn ngoan dành cho con. Đó là một trong những trách nhiệm
khó khăn nhất của người làm cha mẹ – phải cân nhắc những gì nên nói ra
và những gì phải để lại cho con khám phá. Cuối cùng mẹ đã quyết định chỉ
gợi ý cho con một chút để trả lời được những câu hỏi của cuộc đời mà
thôi. Một số người sống hết cả cuộc đời mà vẫn không hề có một chút băn
khoăn về điều đó. Như thế thật là quá tệ. Khi con tìm kiếm những câu trả
lời, con sẽ có những khám phá thật tuyệt vời. Có khi con sẽ bực mình vì
ngay khi con nghĩ mình đã tìm được câu trả lời, con sẽ lại thấy mình
cần hỏi thêm những câu khác. (Đó là lý do tại sao ngay cả khi đến tuổi
trưởng thành, mẹ vẫn chưa thể tìm ra được những câu trả lời!) Ở mức độ
nào đó, mẹ mong rằng sự chia sẻ nho nhỏ về cuộc đời và tâm hồn của mẹ sẽ
ít nhiều giúp con trả lời được các câu hỏi mà con gặp phải.
Ai?
Đó là một câu hỏi quan trọng mà mẹ đã mất không ít thời gian để tìm ra
câu trả lời. Con hãy dành thời gian để tìm hiểu xem con là ai và hãy
sống thật với chính mình. Hãy cố gắng sống chân thật, đáng kính và vui
vẻ. Khi con sống trong yên bình, mọi việc sẽ ổn định. Hãy cẩn thận đừng
để vật chất làm lu mờ nhân phẩm của con. Hãy làm sao để con được trưởng
thành và đổi mới. Và con hãy luôn nhớ rằng con không phải chỉ có một
mình – con còn có gia đình, bạn bè, được các thánh thần và Thiên Chúa
phù hộ (không cần thiết phải đúng theo thứ tự này đâu!)
Cái gì?
Đây cũng là một câu hỏi đòi hỏi sự khéo léo, và lúc đầu mẹ cũng đã muốn
phát khùng lên với câu hỏi này. Mẹ nghĩ câu hỏi sẽ là: “Hôm nay mình sẽ
làm gì?” Tuy nhiên, sau đó mẹ lại thấy mọi việc trở nên thú vị hơn khi
mẹ hỏi: “Mình đam mê điều gì?” Hãy khám phá xem điều gì đang thôi thúc
khiến con phải tiến lên, lúc đó hãy nuôi dưỡng, ấp ủ nó. Hãy phân tích
rồi tổng hợp lại, hãy làm điều con cảm thấy yêu thích. Niềm vui mà công
việc mang lại sẽ giúp con tiếp tục vượt qua một số nỗi buồn trong cuộc
sống.
Khi nào? Đây lại là một câu hỏi kín đáo. Đừng coi thường nó.
Nó sẽ giúp con đứng vững. Có một số việc tốt nhất là con nên làm từ bây
giờ. Chớ để ngày mai. Nhưng con cũng nên nhớ rằng làm điều gì cũng phải
có thời điểm phù hợp, cho nên có một số chuyện không nên dính dáng vào
lúc này. Cũng có thể con sẽ gặp khó khăn, nên con cần phải dành thời
gian để ngơi nghỉ và thưởng thức sự kỳ diệu của mỗi một ngày mới. Bằng
sự tập luyện, con sẽ được hài lòng về những việc đã làm và biết vui
sướng khi chờ đợi để lập kế hoạch cho những chuyện khác.
Ở đâu?
Thật ngạc nhiên, đây lại là một câu hỏi dễ trả lời nhất, đó là khi gia
đình luôn ở trong trái tim con và trái tim con ở bất cứ nơi đâu mà con
gọi là gia đình. Hãy trở thành một thành viên năng động trong cộng đồng
của con và con sẽ khám phá ra sự nồng ấm đặc biệt mà cộng đồng dành cho
con. Con hãy luôn nhớ rằng thái độ tử tế và khiêm tốn nhất sẽ mang lại
một sự khác biệt to lớn, và từ đó con có thể thay đổi cả thế giới.
Tại
sao? Đừng bao giờ ngừng hỏi câu hỏi này vì nó làm cho con trưởng thành.
Hãy để nó thách thức mỗi khi con trở nên quá tự mãn. Hãy để nó hét vang
khi con thực hiện những quyết định. Hãy để nó thỏ thẻ vào tai khi con
không nhận ra mình là ai hoặc mình muốn ở đâu. Nhưng con cũng cần phải
cẩn thận với câu hỏi này. Đôi khi, phải mất đến nhiều năm con mới tìm ra
được câu trả lời hoặc không. Khi nhận biết được điều căn bản này, con
sẽ trở nên thanh thản và có thể tiếp tục tiến lên.
Thế nào? À, đây
chính là câu hỏi mà mẹ không thể khuyên con được gì cả! Chính con phải
tìm ra câu trả lời theo cách rất riêng của con. Nhưng hình như con đã
tìm ra được câu trả lời trong mấy năm qua rồi mà, cho nên mẹ biết rằng
con sẽ ổn thôi. Hãy tin tưởng vào chính mình và vào những điều kỳ diệu.
Con hãy nhớ rằng những khám phá lớn lao nhất luôn xuất hiện sau khi con
đã trả lời sai. Và con hãy luôn luôn nhớ rằng mẹ rất yêu con.
Chúc mừng con với một sự khởi đầu mới.
Yêu con,
Mẹ
PAULA (BACHLEDA) KOSKEY