Đức Phật và Nàng - Hoa sen xanh (Tập 2) - Chương 60

CHƯƠNG 60 Bát Tư Ba
qua đời

“Kẻ ít học thường kiêu
căng, ngạo mạn,

Người hiểu biết luôn
khiêm nhường, điềm đạm;

Suối nhỏ cứ róc rách
đêm ngày,

Biển lớn vẫn hiền hòa
muôn thuở.”

( Cách ngôn Sakya )

Năm 1280, tức năm Canh Thìn, Dương Thiết theo lịch Tạng, tức
niên hiệu Chí Nguyên thứ mười bảy, nhà Nguyên.

Bát Tư Ba bốn mươi sáu tuổi, Dharmapala mười ba tuổi, Chân
Kim ba mươi bảy tuổi.

- Drakpa Odzer vừa nói với em rằng, hôm nay Dharma học Đạo
quả pháp rất nhanh.

Tôi gượng dậy kéo rèm cửa, mình mẩy nhức mỏi rã rời, căn
phòng ấm cúng hơn nhờ nén nhang đất Tạng. Ánh nắng mùa đông lọt vào qua ô cửa sổ,
mang theo chút hơi ấm của sự sống, chiếu rọi thân hình héo hắt, gầy mòn của
chàng. Tôi ngồi dậy, thở dốc một hồi, bắt đầu bóp chân bóp tay cho chàng. Mấy
năm qua, chàng gầy rộc đi trông thấy, mỗi lần xoa bóp cho chàng, tôi đều cảm nhận
rõ ràng làn da ngày một nhăn nheo và xương cốt ngày càng rệu rã của chàng. Mỗi
lúc như vậy, tôi lại không cầm được nước mắt.

Thực ra, Drakpa Odzer còn thông báo một tin tức quan trọng
khác nữa, em trai thứ hai của Bát Tư Ba, người đã được chàng sắp xếp ở lại Đại
Đô kế nhiệm chức vịđế sư, đã qua đời năm ngoái. Tin tức đến bây giờ mới truyền
tới Sakya, nhưng tôi không dám nói với Bát Tư Ba. Chàng không thể chịu đựng nổi
một chấn động tinh thần nào nữa.

Tôi khẽ sụt sịt, gắng gượng nở một nụ cười thật tươi, vừa
xoa bóp cho chàng vừa nói:

- Còn chuyện này nữa, Dharma và Jumodaban rất quấn nhau, nay
Dharma đã mười ba tuổi, em thấy thằng bé không chỉ coi Jumodaban là chị gái
đâu. Tuy chàng đã hủy bỏ hôn ước của chúng nhưng nếu Dharma thật lòng thương
Jumodaban, chi bằng hãy tác thành cho hai đứa.

Tôi khẽ ngừng lại để cơn đau nơi lồng ngực tạm lắng dịu rồi
mới nghẹn ngào nói tiếp:

- Em không muốn bi kịch của Kháp Na tái diễn với con trai
mình.

Hơi thở của chàng rất mong manh, một lúc lâu sau chàng mới cất
giọng yếu ớt:

- Em là mẹ thằng bé, em hãy sắp xếp mọi chuyện cho Dharma.
Chàng ngừng lại, nghỉ ngơi một lát, gắng gượng nói tiếp:

- Em bảo Drakpa Odzer đưa Dani đến đây, ta cần gặp nó. Gọi cả
Sangtrum tới nữa.

Tôi ngạc nhiên, vì sao chàng muốn gặp Dani? Ba năm qua,
chàng không hề hỏi han đến thằng bé kia mà. Tôi trùm khăn che kín đầu, giấu đi
mái tóc và đôi mắt màu lam, đi tìm Drakpa Odzer và Sangtrum. Chỉđi lại như vậy
thôi cũng khiến tôi mệt bở hơi tai, chân tay bủn rủn, mắt hoa đầu váng. Tôi phải
ngồi sụp xuống trước cửa phòng để nghỉ ngơi một lúc rồi mới đứng lên, bước vào
khi Dani vừa tới.

Dani đã mười chín tuổi, cao lớn, lực lưỡng, tai to mặt lớn,
giống hệt cha. Thằng bé đến bên giường, khẽ gọi hai tiếng “bác cả”. Bát Tư Ba
đưa mắt ra hiệu cho tôi, tôi vội đỡ chàng ngồi dậy, giữ chàng tựa vào vai mình.
Bát Tư Ba nhấc cánh tay gầy guộc lên, run rẩy chỉ thẳng vào Dani, giọng chàng
khản đặc nhưng quyết liệt:

- Quỳ xuống!

Dani giật mình, nó vừa gọi bác cả, ánh mắt sắc lạnh của Bát
Tư Ba đã lập tức ném về phía nó khiến nó run bắn, quỳ mọp dưới đất. Bát Tư Ba
nghiêm khắc tra hỏi:

- Hôm qua ngươi đã làm gì, có biết tội không?

- Cháu có làm gì đâu.

Dani ngơ ngác, toàn thân run lên bần bật, một lúc sau mới sực
nhớ ra:

- Ý bác là, hôm qua lúc chơi trò bịt mắt bắt dê, Dharma
không cẩn thận đã bị va đầu vào tường phải không ạ?

Chuyện đó đám người hầu đã thông báo với chúng tôi. Vì mải
chơi, Dharma không cẩn thận mới đụng vào cột nhà, trán sưng lên. Tuy thằng bé
có khóc lóc nhưng vết thương không nghiêm trọng.

Bát Tư Ba gật đầu:

- Dani, ngươi biết tội rồi chứ?

Dani vội vàng lạy lục:

- Thưa bác, cháu sai rồi, cháu hứa sẽ cẩn thận hơn. Hôm qua
thầy giáo cũng đã trách mắng cháu, phạt cháu quỳđọc kinh văn suốt hai canh giờ.

Bát Tư Ba bỏ ngoài tai những lời hối lỗi thành khẩn của
Dani, quay sang nói với Sangtrum:

- Dharma là người kế thừa của phái Sakya, không được phép có
bất cứ sơ sảy hay tổn thương nào. Sangtrum, hãy ghi lại khẩu dụ của pháp vương
Sakya.

Sangtrum ngồi trước bàn viết, trải rộng quyển giấy, cầm bút,
kính cẩn lắng nghe. Bát Tư Ba chậm rãi đọc từng chữ:

- Dani có hành vi phạm thượng, bắt đầu từ hôm nay sẽ bịđuổi
khỏi Sakya, lưu đày đến Giang Nam.

Tất cả những người có mặt trong phòng khi đó đều kinh ngạc,
Dani nắm chặt nắm đấm, nện thùm thụp xuống nền đất, máu loang lổ. Nó gào lên phản
đối:

- Thưa bác, cháu không phục! Cháu và Dharma đều là cháu trai
của bác, đều mồ côi cha mẹ, vì sao bịđối xử một trời một vực? Kể từ khi về
Sakya, cháu đã thận trọng trong mọi ứng xử, không gây ra bất cứ lỗi lầm nào.
Nhưng dù cháu có cố gắng bao nhiêu đi nữa, vẫn không được bác công nhận. Cháu
đã làm sai điều gì nào? Vì sao bác lại căm ghét cháu như vậy?

Drakpa Odzer rụt rè can ngăn:

- Thưa thầy, Dani tuy mắc lỗi nhưng không đến mức phải chịu
phạt như vậy. Thầy đày cậu ấy đến vùng Giang Nam xa xôi, làm sao trở về quê
hương được nữa?

Sangtrum cũng buông bút, quỳ xuống:

- Thưa thầy, xin thầy nghĩ lại.

Tôi quay sang nhìn chàng, khẽ gọi:

- Lâu Cát…

Chàng ngắt lời tôi, cương quyết:

- Ý ta đã quyết, không cần nhiều lời!

Bát Tư Ba nhắm mắt lại, giọng nói bình thản:

- Sangtrum, hãy chọn lấy một vài đệ tử, giải Dani đi Giang
Nam ngay hôm nay.

Biết không thể xoay chuyển quyết định của Bát Tư Ba,
Sangtrum đành cúi đầu nhận lệnh. Drakpa Odzer muốn tiếp tục can ngăn nhưng tôi
vội vàng đưa mắt ra hiệu, vì lúc này Bát Tư Ba đã từ từđổ xuống giường. Drakpa
Odzer đắn đo hồi lâu, vẫn quyết định lên tiếng:

- Nếu ý thầy đã quyết, vậy xin cho phép đệ tửđược đích thân
áp giải cậu Dani đi Giang Nam. Cậu ấy vẫn còn trẻ, lại chưa từng đến đất Hán,
có đệ tửđi cùng, mọi thứ sẽđược thuận lợi, suôn sẻ.

Bát Tư Ba khép chặt hai mắt, mệt mỏi gật đầu. Drakpa Odzer
kéo Dani đứng dậy, Dani uất hận vùng vẫy, Sangtrum và Drakpa Odzer phải hợp sức
lại mới khống chếđược Dani và lôi ra ngoài. Bàn tay Dani rướm máu, ánh mắt ngập
tràn hận thù, vừa vùng vẫy vừa gào thét:

- Tôi sẽ quay lại, sẽ có ngày tôi đòi lại mọi thứ thuộc về
tôi!

Tôi rùng mình kinh hãi, như thể vừa mới trông thấy Yeshe vậy.
Hắn cũng từng nói những lời đó với hai anh em Bát Tư Ba. Chẳng ngờ hơn mười năm
sau, những lời nói đe dọa này lại được tuôn ra từ miệng con trai hắn, nó giống
như một thứ lời nguyền nanh ác vang vọng khắp điện thờ. Tôi nghẹn ngào, lắc đầu
chua xót:

- Vì sao chàng phải nhẫn tâm với Dani như vậy? Mấy năm qua
nó chưa từng mắc lỗi lầm gì, tội lỗi của cha nó, không nên bắt nó gánh chịu mới
phải.

- Với thân phận của mình, Dani hoàn toàn có quyền thừa kế
Sakya, điều đó đồng nghĩa với việc, nó là một hiểm họa. Trước khi rời xa cõi đời
này, ta buộc lòng phải đuổi Dani, ta phải dọn đường cho tương lai của Dharma. -
Chàng nghiêng đầu ho khan dữ dội, rồi thở dốc một hồi mới đủ sức nói tiếp. - Ta
phải đích thân làm việc này, nếu không, tiếng xấu từ bia miệng thế gian sẽđổ
lên đầu Dharma.

- Vì Dharma, chàng bằng lòng hứng chịu mọi lời chỉ trích của
người đời.

Tôi khóc nấc lên, vuốt ve gương mặt gầy guộc, hốc hác của
chàng:

- Lâu Cát, vì sao chàng nhất định phải chất mọi gánh nặng
lên vai mình? Vì sao chàng phải sống khổ sở như vậy?

Hai mắt chàng khép chặt, dường như chàng không hề nghe thấy
tiếng tôi nói. Gò má xương xương, hai mắt trũng sâu, hơi thở mong manh đến nỗi
chỉ cần bên ngoài vang lên tiếng động bất kỳ thì tôi sẽ không thể nghe được hơi
thở của chàng. Nước mắt tôi tuôn rơi, nhỏ xuống vùng ngực yếu ớt của chàng. Tôi
hiểu rằng chàng đã ở vào khoảnh khắc cuối cùng của chặng đường sinh mệnh, dầu cạn
bấc tàn, ánh đèn leo lét. Nhưng tôi không đành lòng chống mắt nhìn người tôi
yêu rời xa tôi mãi mãi.

Tôi run rẩy áp sát vào bờ môi tái xám của chàng, dồn cho bằng
hết chút linh khí cuối cùng trong cơ thể. Nhưng tôi chưa kịp chạm vào môi chàng
thì chàng đột nhiên mở mắt, nhìn tôi, ánh mắt sáng rực như thể thấu suốt tâm
can tôi, đôi mắt ấy là nơi duy nhất còn dấu hiệu sự sống trên cơ thể chàng.
Chàng ra sức lắc đầu, lấy tay che mặt, ngăn cản bờ môi tôi:

- Lam Kha, đừng phí sức vì ta nữa.

Tôi lắc đầu phủ nhận:

- Em không…

- Đừng giấu nữa, mỗi lúc ta hôn mê em đều lén truyền linh
khí cho ta. Đểđến bây giờ, em không còn đủ linh khí giấu đi mái tóc và đôi mắt
màu lam của mình, em đi đâu, gặp ai đều phải trùm kín đầu.

Chàng thở dài buồn bã, nhìn tôi xót xa, khóe môi nở nụ cười ấm
áp:

- Nhìn em kìa, mái tóc xơ xác, gương mặt tiều tụy, sức khỏe
giảm sút. Nếu tiếp tục như vậy, em sẽ bịđẩy trở lại nguyên hình đó.

Tôi lắc đầu, hít một hơi thật sâu, tiếp tục ghé vào môi
chàng:

- Chỉ cần giữđược chàng, em sẽ làm tất cả.

Chàng vẫn kiên trì lấy tay che mặt, tôi sốt ruột kéo tay
chàng ra, chàng không đủ sức giằng co với tôi nhưng kiên quyết quay mặt đi.

- Lam Kha, nếu không nhờ vào linh khí của em, ta làm sao sống
nổi đến bây giờ? Nhưng ta đã hoàn tất mọi việc và giờ có thể thanh thản ra đi
được rồi.

Tôi bật khóc thảm thiết:

- Đừng mà, chàng mới bốn mươi sáu tuổi, em không thểđể chàng
ra đi lúc này. Em không muốn một mình cô đơn đối diện với những đêm dài bất tận…

- Em bất chấp tất cảđể giữ ta lại, ta cũng chỉ có thể nằm liệt
trên giường như một người đã chết. Ta không muốn như vậy. - Bàn tay chàng run rẩy
vuốt ve gương mặt tôi, nụ cười héo hắt trên môi. - Em chẳng còn bao nhiêu linh
khí để giữ ta ở lại nữa. Hãy để ta ra đi. Ta muốn được ra đi, vì ta mệt rồi…

Tôi tan nát cả cõi lòng, ngả vào ngực chàng, khóc cho
nghiêng ngảđất trời. Tôi không muốn từ bỏ nhưng tôi thực sựđã cạn linh khí. Ba
năm qua, tôi đã tiêu hao quá nhiều, đã đến cực hạn và bất cứ lúc nào cũng có thể
bịđẩy trở lại nguyên hình. Tôi cắn răng, nín khóc, lồng tay mình vào tay chàng,
gắng gượng nở nụ cười rạng rỡ nhất.

- Vâng, em hứa sẽđể chàng ra đi.

Tôi không muốn bịđẩy trở lại nguyên hình trước lúc chàng rời
xa thế gian này. Vì chàng thích ngắm nhìn dung nhan của tôi. Tôi muốn chàng được
yên lòng khi ra đi. Tôi cuống cuồng lau nước mắt nhưng nước mắt như sóng vỗ bờ,
cứ ào ạt tuôn chảy, không sao ngăn nổi. Chàng run rẩy vuốt ve hai má tôi, giọng
thoảng như gió nhẹ:

- Lam Kha, trước lúc ra đi, ta muốn được hôn em.

Tôi gật đầu tắp lự, nhưng mới ghé sát lại, chàng đã nghiêm mặt
“cảnh cáo”:

- Ta chỉ muốn hôn em thôi, hãy nhớ, không được truyền linh
khí cho ta.

Tôi vừa khóc vừa gật đầu, rồi sực nhớ ra, rút vội khăn tay,
chỉnh trang lại dung nhan, lau khô nước mắt, vuốt cho mượt mái tóc xác xơ, chỉnh
cho cân viên ngọc Linh hồn cài trên đỉnh đầu, vuốt cho phẳng phiu các nếp váy
và nở nụ cười thật tươi:

- Trông em thế nào, đẹp không?

Chàng nhìn tôi đắm đuối rồi gật đầu, ánh mắt như trôi về chốn
xa xưa, bồi hồi nhớ lại:

- Đẹp lắm, lúc nào em cũng xinh đẹp như vậy. Hôm đó, khi
Kháp Na đưa em đến trước mặt ta, em nhưđóa phù dung vừa hé nở, ánh mắt trong suốt
như ngọc minh châu, thánh thiện không vương chút bụi trần. Ta thầm nhủ, sao
trên đời lại có thiếu nữ thuần khiết, xinh đẹp nhường vậy?

Tôi cúi xuống, khẽ hôn lên bờ môi tím tái của chàng, không
mang theo nỗi bồn chồn muốn giữ chàng ở lại, không thừa dịp hôn chàng lén lút
khi chàng đã ngủ say như lúc trước. Nụ hôn dài miên man, mê đắm, dạt dào, tôi
muốn lưu lại những khoảnh khắc tuyệt vời nhất của đời mình. Không biết đã hôn
chàng bao lâu, môi chàng dần ấm lại, chàng rên rỉ khe khẽ, ánh mắt mê ly, gương
mặt thêm phần rạng rỡ:

- Lam Kha, ta không còn cảm giác đau đớn gì nữa, đến giờ ta
mới biết nụ hôn ngọt ngào, tuyệt diệu nhường nào.

Nỗi buồn dâng ngập lòng, nước mắt chực trào ra. Yêu tôi chừng
ấy năm tháng, vậy mà chàng chỉđược hôn người yêu trước lúc ra đi. Tình yêu ấy,
với cả tôi và chàng, nghiệt ngã biết chừng nào!

Chàng mân mê chiếc vòng hình hoa sen trên cổ tay tôi, ánh mắt
dừng lại nơi miếng ngọc Linh hồn trên đỉnh đầu tôi rồi từ từ khép mắt lại:

- Lam Kha, em còn rất nhiều năm tháng đợi chờ phía trước, cả
ta và Kháp Na đều không yên lòng để em một mình đối diện với nỗi cô đơn dằng dặc
ấy. Bởi vậy, sau khi chết, ta không mong thành Phật, ta nguyện tiếp tục dấn
thân nơi lục đạo luân hồi để mỗi kiếp lai sinh đều có thể cùng Kháp Na đi tìm
em, ở bên em.

Giọng chàng nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt lịm, bàn tay thôi vuốt
ve cổ tay tôi, từ từđổ xuống, buông thõng bên mép giường. Tôi ghì sát tai vào
khuôn ngực chàng, không còn nghe thấy nhịp tim thân thuộc nữa. Chàng đã kết
thúc hành trình mỏi mệt của đời mình. Ngày 22 tháng 11 năm 1280, Bát Tư Ba viên
tịch tại điện thờ Lakhang trong đền Nam Sakya, hưởng thọ bốn mươi sáu tuổi.
Dharma kế thừa ngôi vị giáo chủ phái Sakya và đế sư của triều đình Đại Nguyên,
đồng thời gánh vác trọng trách nối dõi tông đường dòng họ Khon.

Một giàn gỗ cao được dựng bên bờ sông Trum-chu, dưới chân
núi Benbo. Bát Tư Ba nằm đó, khép mắt an nhiên trên chiếc giường gỗ, trong bộ
pháp y trang trọng nhất. Áo cà sa lộng lẫy, rộng thênh thang ôm lấy thân hình
héo hon của chàng.

Tất cả các tăng nhân đều đội mũ ngũ sắc sặc sỡ, xếp thành
hàng chỉnh tề trên bờ sông lổn nhổn đá sỏi, lầm rầm tụng kinh siêu độ. Tuyết trắng
ràn rạt bay, thoáng chốc đã trút lên vai người một vạt trắng tinh khôi. Sắc đỏ
sẫm của áo tăng ni và sắc trắng tinh khiết của tuyết lạnh tạo nên sự tương phản
nhức nhối. Ai nấy đều đau buồn, thổn thức bước lên, dâng khăn lụa Ha đa và cúi
đầu vái lạy Bát Tư Ba. Sangtrum chuyển ngọn đuốc cho Dharma. Dharma châm lửa
vào đám cỏ khô xếp quanh chiếc giường gỗ. Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt, tiếng củi
cháy lép bép, hệt như một khúc tráng ca bi thảm dội lên trời cao.

Lửa bập bùng soi sáng cả một trời tuyết đổ, gương mặt hiền từ
của Bát Tư Ba chìm khuất trong sắc hồng rực rỡ. Tôi giấu mình trong kiệu, tay nắm
chặt rèm cửa sổ, âm thầm nức nở, siết chặt chiếc vòng trên cổ tay. Tôi không
còn đủ sức đểẩn đi mái tóc và đôi mắt màu lam của mình nữa. Bất cứ lúc nào tôi
cũng có thể bịđẩy trở lại nguyên hình, bi kịch khi Kháp Na qua đời đã tái hiện.

Khi củi tàn lửa tắt, Dharma ngồi xuống, góp nhặt tro cốt của
người đã khuất, Sangtrum đứng bên, che ô cho thằng bé. Dharma đột nhiên thốt
lên:

- Hạt Xá Lợi đẹp quá!

Giữa màn tuyết dày đặc, tôi nhìn thấy viên ngọc Xá Lợi lóng
lánh, rực rỡ trên tay Dharma, viên ngọc chứa đựng sinh mạng của Bát Tư Ba. Tất
cả những người trong giáo phái Sakya nhất loạt quỳ xuống trước ngọc Xá Lợi, kêu
khóc thương tâm, họ gào gọi pháp danh của pháp vương. Viên ngọc Xá Lợi lấp lánh
chiếu sáng bảy màu, lung linh huyền ảo, bao bọc lấy Dharma.

Theo di nguyện của Bát Tư Ba, tháp Xá Lợi của chàng được xây
cất ngay bên cạnh Kháp Na. Tháp Xá Lợi này được hoàn thành từ ba năm trước, kiến
trúc giống hệt tháp hoàng kim của Kháp Na. Dharma đặt tro cốt của Bát Tư Ba vào
thân tháp, ngọc Xá Lợi đặt lên đỉnh tháp. Giáo phái còn tổ chức một pháp hội
truy điệu Bát Tư Ba kéo dài suốt bốn mươi chín ngày. Mới mười ba tuổi nhưng
Dharma đã sắp đặt và xử lý đâu ra đấy mọi việc. Trải qua mất mát này, thằng bé
trưởng thành lên rất nhiều.

Đêm tịch mịch, tôi lẳng lặng tìm đến điện thờ, vắt kiệt chút
linh khí cuối cùng, trèo lên linh tháp của Bát Tư Ba. Tôi mở nắp đỉnh tòa tháp,
lấy ra viên ngọc Xá Lợi, đặt vào lòng tay. Ngọc Xá Lợi đột nhiên chiếu sáng rực
rỡ, kỳảo. Tôi mang theo ngọc Xá Lợi của Bát Tư Ba, trèo lên linh tháp của Kháp
Na, làm theo di nguyện của chàng. Tôi mở nắp đỉnh tòa tháp của Kháp Na, bên
trong là một viên ngọc Xá Lợi nhỏ hơn. Tôi lấy viên ngọc ra khỏi đỉnh tháp, ánh
sáng màu trắng dịu dàng của ngọc Xá Lợi bao bọc lấy tôi.

Khi hai viên ngọc đặt cạnh nhau, ánh sáng lập tức hòa quyện,
nhập lại thành một dải sáng rực rỡ màu sắc, chiếu thẳng lên viên ngọc Linh hồn
trên đỉnh đầu tôi. Ánh sáng tắt dần, ngọc Xá Lợi tan biến, tôi gỡ ngọc Linh hồn
xuống và sững sờ trước vẻđẹp kỳảo, sống động của nó. Sự sống nhưđang chảy trôi
trong viên ngọc ấy, trong chuỗi ánh sáng lung linh, huyền ảo, tôi như thấy được
nụ cười rạng ngời của hai anh em họ.

Tôi áp viên ngọc vào ngực mình, nước mắt tuôn trào. Ánh sáng
dịu dàng tỏa ra từ viên ngọc quấn quýt lấy tôi, nhưđang khe khẽ an ủi. Tôi đặt một
nụ hôn nhẹ nhàng lên viên ngọc:

- Lâu Cát, Kháp Na, em sẽ chờ hai người, đời đời kiếp kiếp.

Giờđây, khi mọi việc đã hoàn tất, ngoài con trai, tôi chẳng
còn gì vướng bận. Nhưng bi kịch thay, tôi không thể tiếp tục duy trì hình hài
con người đểở bên che chở cho thằng bé. Sau khi suy xét kĩ càng, tôi quyết định
giấu Dharma. Ngay từ lúc chào đời, mọi người đều nói với thằng bé rằng, thân phận
của nó rất mực cao quý, cha nó là Bạch Lan Vương, mẹ là con gái của Vạn hộ hầu
Shalu, tiền đồ của nó vô cùng rộng mở, sáng láng. Làm sao nó có thể chấp nhận một
người mẹ là yêu tinh như tôi? Thôi thì, hãy để quá khứ tan theo Bát Tư Ba.

Nghĩ vậy nên khi không gắng gượng thêm được nữa, tôi đã đội
khăn trùm kín đầu, gọi Dharma lại, nén lòng nói với con:

- Dharma, dì Lam phải rời khỏi Sakya.

Dharma sửng sốt, nắm chặt lấy tay tôi, giọng nói khàn khàn của
lứa tuổi dậy thì vang lên:

- Dì Lam, dì định đi đâu?

Thằng bé giống Kháp Na nhưđúc, lòng tôi nghẹn đắng, bàn tay
run run vuốt ve mái tóc dài, đen bóng của nó.

- Dì có việc phải đi, không thểở lại chăm sóc con được nữa.
Con hãy giữ gìn sức khỏe, sống thật vui vẻ và thực hiện di nguyện của bác cả
con, phát triển giáo phái Sakya thật lớn mạnh, duy trì sựổn định và thống nhất
của đất Tạng.

- Dì đừng rời xa con. - Thằng bé sà vào lòng tôi, vòng tay
qua eo tôi, siết chặt, giọng nói nghẹn ngào, nức nở. - Con vừa chào đời đã mồ
côi cha mẹ, cô chú nuôi nấng con từ nhỏ cũng đã qua đời, người bác đôn hậu lúc
nào cũng chăm lo, dạy dỗ con cũng đã viên tịch. Nếu bây giờ dì cũng bỏ con mà
ra đi, con sẽ chẳng còn người thân nào cả!

Tôi ôm riết thân hình gầy gò của thằng bé, nước mắt tuôn rơi
nhưng vẫn gượng cười:

- Ai bảo vậy, con vẫn còn người chị họ thân thiết kia mà.
Dharma, bác cả con đã nhận lời kết làm thông gia với Vương gia Mông Cổ Khởi Tất
Thiếp Mộc Nhĩở Lương Châu, con gái ngài ấy tên là Bối Đan. Trước khi qua đời,
Vương gia Khởi Tất đã đưa Bối Đan đến Đại Đô, chờ ngày con đến đó, làm lễ thành
thân với cô ấy.

Dharma tỏ ra bối rối, thằng bé rời tôi ra, cúi đầu lí nhí:

- Dì ơi, con nhất định phải cưới cô ấy ư? Con chưa gặp cô ấy
bao giờ, cô ấy là người Mông Cổ, còn con là người Tạng, làm sao chung sống với
nhau được?

Tôi thở dài:

- Ta biết chứ, nhưng đó là quyết định của bác cả con, kết
hôn với công chúa Mông Cổ sẽ có lợi cho giáo phái Sakya, con không thể từ chối.

Thấy thằng bé phụng phịu, giận dỗi, tôi dịu dàng an ủi:

- Dì biết con mong muốn điều gì. Sau này khôn lớn, dì cho
phép con cưới Jumodaban làm vợ.

Thằng bé phấn khích ngẩng đầu lên:

- Dì ơi, thật chứạ? Con có thể lấy chị họư?

Thấy con sung sướng như vậy, tôi cũng vui lây. Dù nó không
thể chối bỏ cuộc hôn nhân chính trịđó, nhưng chí ít, nó cũng được lấy người nó
yêu thương, không bi kịch như Kháp Na trước kia. Chỉ hiềm nỗi, hai người vợ với
thân phận khác nhau, một người là công chúa Mông Cổ, một người là con gái của kẻ
phạm tội, ngày sau ắt sẽ có sóng gió. Nhưng những chuyện sau này, tôi chẳng thể
giúp thằng bé.

Sức khỏe của tôi đang yếu dần, tôi hiểu rằng, đã đến lúc phải
ra đi nên vội vã căn dặn:

- Còn một chuyện nữa con phải ghi nhớ. Bác cả của con từng
nuôi dưỡng một tiểu hồ ly màu lam rất xinh đẹp và thông minh. Mấy năm trước tiểu
hồ ly này đột nhiên biến mất. Bác cả con rất cưng tiểu hồ ly này nhưng đến nay
vẫn không tìm thấy nó. Nếu con tìm được, hãy giữ nó ở bên mình, đưa nó đến
Trung Nguyên cùng con.

Tôi ngừng lại một lát, để cơn đau trong lồng ngực nguôi bớt,
mới tiếp tục:

- Tên của tiểu hồ ly đó là Lam Kha Mai Đóa, con cứ gọi nó là
Tiểu Lam cũng được.

Thằng bé trịnh trọng gật đầu. Tôi kéo con vào lòng, hôn lên
đỉnh đầu nó.

- Dì sẽ rất nhớ con, khi nào xong việc, dì sẽđến tìm con.

Chiều hôm đó, tôi đội ô rời khỏi Sakya. Buổi tối, Dharma tìm
thấy tiểu hồ ly màu lam trước cửa nơi ở của Bát Tư Ba. Thằng bé ôm tiểu hồ ly
lên, reo hò hoan hỉ:

- Ngươi là Tiểu Lam phải không? Sau này hãy ở bên ta nhé!

Tiểu hồ ly gật đầu, dụi đầu vào ngực thằng bé. Hồ ly không
dám cất tiếng vì không muốn thằng bé nhận ra giọng nói của mình.

Ngày Bát Tư Ba viên tịch, Sangtrum đã tìm cách nhanh nhất để
truyền tin đến Đại Đô. Tháng 11 năm 1281, một năm sau khi Bát Tư Ba qua đời, ý
chỉ của Hốt Tất Liệt mới đến được Sakya. Hay tin quốc sư qua đời khi tuổi mới
ngoại tứ tuần, Hốt Tất Liệt vô cùng sửng sốt và đau buồn. Nhà vua lệnh cho
Dharma đưa tro cốt của Bát Tư Ba vềĐại Đô an táng, đồng thời kế nhiệm chức vịđế
sư triều Nguyên.

Trong thánh chỉ ban xuống, Hốt Tất Liệt đã phong tặng danh
hiệu cho Bát Tư Ba là: “Hoàng thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng, khai giáo
tuyên văn phụ trị, đại thánh trí đức, phổ giác chân trí, hộ quốc như ý, đại bảo
pháp vương, Tây Thiên Phật tử, Đại Nguyên đế sư Pandita.”[31]

[31]. Ý nghĩa của
danh hiệu này đại thể như sau: Hốt Tất Liệt ca ngợi công đức to lớn của Bát Tư
Ba trong việc hoằng dương Phật giáo, phát triển văn hóa, trợ giúp nhà vua trị
quốc, ngài là bậc trí giả thông tuệ, một Phật tử thành tín, một pháp vương lỗi
lạc, một bậc đế sư đại đức của triều đình nhà Nguyên. (DG)

Mười bốn tuổi, với tư cách pháp vương mới nhậm chức của phái
Sakya, Dharma lên đường đến vùng đất Trung Nguyên xa xôi, cùng với người chịhọ
và tiểu hồ ly. Sau một năm trời gian khổ, ngày 25 tháng 12 năm 1282, tức năm
Chí Nguyên thứ mười chín, Dharma đặt chân đến đất Đại Đô phồn hoa đô hội, khi ấy
thằng bé mới mười lăm tuổi. Hốt Tất Liệt tổ chức nghi lễ nghênh đón tro cốt của
Bát Tư Ba rất mực long trọng, sau đó trao ngọc ấn và quyền thống lĩnh tôn giáo
cả nước cho đế sư Dharmapala mới kế nhiệm.

*

Tôi áp chặt viên ngọc Linh hồn vào ngực mình, hít thở sâu
nhiều lần để lấy lại bình tĩnh, tiếp tục câu chuyện:

- Khi tro cốt của Bát Tư Ba được đưa đến Đại Đô, Hốt Tất Liệt
đã lệnh cho Anigo xây một tháp Xá Lợi đẹp không gì sánh bằng cho đế sư của mình
trong chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương. Các đời đế sư sau đó đều ra sức cải tạo tu sửa
mái vàng của tòa linh tháp ấy. Nguyên Nhân Tông ban chiếu chỉ, lệnh cho các địa
phương trong cả nước đúc tượng thờ Bát Tư Ba, giống hệt tượng thờ Khổng Tử
trong truyền thống của người Hán.

- Nếu không ra đi quá sớm, Bát Tư Ba chắc chắn sẽđược nhiều
người biết đến hơn nữa.

Chàng trai trẻ suy nghĩ mông lung rồi thở dài, lắc đầu:

- Giá như có thể bảo tồn tòa tháp Xá Lợi của Bát Tư Ba đến
bây giờ thì tốt biết bao. Tiếc thay, trong lịch sử Trung Quốc, mỗi lần thay vua
đổi chúa, di tích lịch sử của đời vua trước đều không được lưu giữ trọn vẹn.
Ngôi chùa hoàng gia bề thếấy cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu khi cuộc chiến
tranh giữa nhà Minh và triều Nguyên diễn ra.

Tôi nghiêng đầu ho khan vài tiếng, lấy hơi, tiếp tục kể:

- Cuối đời nhà Nguyên, chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương, tháp Xá
Lợi Bát Tư Ba và cả tháp Xá Lợi của Dampa đều bị hủy hoại. Đến nay, chỉ còn lại
bảo tọa kim cang của tòa tháp Xá Lợi của Bát Tư Ba. Trên thân tháp vẫn còn
nguyên toàn văn bức thư chúc Tết tựa đề “Lời chúc cát tường” mà Bát Tư Ba gửi
cho Hốt Tất Liệt nhân dịp năm mới 1262. Bức thư này đã được khắc nổi trên thân
bảo tọa kim cang. Về sau, vào thời Vua Thành Hóa, nhà Minh, người ta đã xây dựng
một ngôi chùa có tên chùa Ngũ Tháp trên di chỉ ngôi chùa Đại Hộ Quốc Nhân Vương
năm xưa. Đó chính là ngôi chùa Ngũ Tháp bên bờ sông Cao Lương, ngoài cổng Tây
Trực, thành phố Bắc Kinh ngày nay.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3