Tử thư tây hạ - Tập 1 - Chương 06 phần 1

Chương 6:

Tứ Bình

 

 

1

_Một tuần sau, Đường Phong, Lương Viện, Hàn Giang, Triệu
Vĩnh và giáo sư La tập hợp lại trong mật thất của ngôi nhà nhỏ. Tấm kệ tranh ngọc
nổi gân cổ chạm châu báu Tây Hạ đang nằm ngay ngắn trên chiếc bàn trước mặt họ…Giáo
sư La Trung Bình sau một tuần đóng cửa nghiên cứu, đã cơ bản giả mã được những
kí hiệu bí ẩn trên bề mặt kệ tranh ngọc.

Giáo sư La phát cho mọi người bốn bản in thác bản của bề mặt
kệ tranh ngọc, ông giới thiệu: "Từ bảy văn kiện tuyệt mật đó, chúng ta đã
biết được năm đó Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra một số kí hiệu bí ẩn trên bề
mặt kệ tranh ngọc. Ivannovich Ivanov, Alekseeev và Menshikov đều cho rằng, những
kí hiệu bí ẩn này chonhs là văn tự Tây Hạ đã biến mất nhiều năm qua, và họ đã
cho tiến hành một số công việc dịch nghĩa. Nhưng kệ tranh ngọc mà Đường Phong
mang về này, do năm tháng bào mòn, cộng thêm điều kiện bảo tồn sau này không tốt,
nên những kí hiệu bí ẩn trên bề mặt đó giờ đều bị cáu bẩn, mờ nét, bản in thác
bản mà mọi người đnag nhìn thấy là do tôi dùng một loại chất lỏng đặc biệt để
lau rửa, kệ tranh ngọc sau khi được rửa sạch sẽ thì mới tiến hành lấy thác bản,
nên bản in thác bản giờ cũng khá là rõ ràng rối. Văn tự Tây Hạ là một loại văn
tự chết, hiện nay ở nưóc ta, thậm chí là trên toàn thé giới, số người có thế đọc
hiểu được văn tự Tây Hạ không vượt quá 20 người. Tôi tuy bất tài, nhưng đã bao
năm học hành nghiên cứu văn tự Tây Hạ, bởi vậy cũng may mắn nhận biết được một
vài văn tự Tây Hạ" -giáo sư La nói.

Lương Viện hiếu kỳ ngắt lời giáo sư La: "Giáo sư đừng
giảng bài cho chúng cháu nữa, nếu giáo sư có thể đọc hiểu thì mau mau nói cho mọi
người biết, những văn tự Tây Hạ trên đó nghĩa là gì đi ạ?"

Giáo SƯ La cười nói: "Viện Viện, cháu đừng nóng vội, nếu
muốn phá giải bí mật ần giấu trong kệ tranh ngọc Tây Hạ, mọi người ở đầy vẫn bắt
buộc phải nghe ông lải nhải. Không nói để các bạn đọc hiểu được văn tự Tây Hạ,
thì ít nhất cũng phải để các bạn đại khái hiểu được văn hóa lịch sử Tây Hạ; có như
vậy các bạn mới có thể hiểu rõ được giá trị và văn hóa ẩn chứa bên trong kệ
tranh ngọc này, bởi vậy ông phải giảng bài cho mọi người trước đã".

"Giảng bài ? Cháu vừa mới tốt nghiệp từ Mỹ về, đến đây
lại phải lên lớp sao ?" -Lương Viện tỏ ra nhụt chí.

Hàn Giang nghiêm mặt nói với mọi người: "Trên phương diện
học thuật, giáo sư La là chuyên gia, chúng ta đều là học sinh, hơn nữa còn là học
sinh tiểu học, bởi vậy bắt buộc phải nghe giáo sư La giảng bài cho chúng ta trước
đã. Còn riêng Đường Phong, về phương diện này dĩ nhiên

không phải là học sinh tiểu học, nhưng tôi có yêu cầu cao với
anh, nên anh lại càng phải chăm chú nghe giảng hơn chúng tôi, chăm học hơn
chúng tôi?"

Những lời Hàn Giang nói khiến Đường Phong cảm thấy áp lực
tăng lên gấp đôi. Anh bắt đấu hiểu ra tác dụng và giá trị của mình trong đội
ngũ này, nhưng lúc này anh cũng không thể biết mình có khả năng đáp ứng được
yêu cầu của Hàn Giang hay không, đặc biệt là việc đọc hiểu văn tự Tây Hạ đã thất
truyền

 

2

_Giáo sư La bật máy chiếu lên, trên màn hình máy chiếu xuất
hiện một ngọn núi tuyết nguy nga, dưới núi tuyết là rừng cây um tùm hun hút,
đang có một đám người quấn trên người những tấm da thú đang đuổi bắt dã thú,
hoàn toàn là cảnh tượng của một xã hội nguyên thủy. Tiếp đó, giáo sư bắt đầu
bài giảng của ông: "Người Đảng Hạng kiến lập vương triều Tây Hạ, từng là một
chi của người Khương cổ. Vào thời viễn cổ, người Khương cổ sinh sống tại đông bắc
cao nguyên Thanh Tạng, tại đây họ đã sáng tạo ra văn hóa Tây Khương. Người Đảng
Hạng chính là một chi trong bộ lạc Tây Khương. Vào khoảng thế kỷ thứ tư, người
Đảng Hạng bắt đầu bước lên vũ đài lịch sử Trung Quốc. Kể từ đó, người Đảng Hạng
đã không ngừng nghỉ tiến những bước tiến di chuyển của họ. Vào thời kỳ cuối Nam
Bắc triều, người Đảng Hạng bắt đầu hoạt động tại thượng lưu sông Hoàng Hà và
khu vực bắc Tứ Xuyên, cũng chính là vùng đông nam tỉnh Thanh Hải và dải Tung
Phan, Hắc Thủy, Bắc Xuyên, Mậu Huyện của Tứ Xuyên. Trong "Tuy thư -Đảng Hạng
truyền" có ghi chép lại: Đảng Hạng lấy thị tộc để phân chia bộ lạc, họ lớn
thì hơn năm vạn người, họ nhỏ thì hơn nghìn người. " Tục thượng vũ lực, vô
pháp lệnh, các vi sinh nghiệp, hữu chiến trận tắc tương đồn tụ, vô dao phú, bất
tương vãng lai. Mục dưỡng ngưu, dương, trư dĩ cộng thực, bất tri giá sắc".
Người Đảng Hạng lúc đó chủ yếu sống bằng chăn nuôi gia súc, săn bắt, vẫn còn
chưa biết sản xuất nông nghiệp, thuộc thời kỳ cuối của xã hội nguyên thủy. Sau
này, Đảng Hạng Khương dần dần phát triến thành 8 bộ lạc lớn là: thị tộc Tế
Phong, thị tộc Phí Thính, thị tộc Vãng Lợi, thị tộc Pha Siêu, thị tộc Dã Từ, thị
tộc Phòng Đương, thị tộc Mễ Cẳm, thị tộc Thác Bạt, trong đó thực lực của bộ lạc
Thác Bạt là mạnh nhất".

"Vậy thì, cái từ ‘Đảng Hạng’ này từ đầu mà có vậy?"
-Lương Viện lại tò mò hỏi.

Giáo sư La giải thích: "Cái tên ‘Đảng Hạng’ này là kết
quả của dịch âm sang tiếng Hán, khả năng lớn là dân tộc Hán có đã vay mượn cách
gọi Đảng Hạng của một vài dân tộc thiểu số khác ở Tây Bắc, ví dụ như người Mông
Cổ gọi người Đảng Hạng là ‘Đường Cổ Đặc’ hoặc ‘Đường Ngột Thích". Hầu hết
các điển tịch tiếng Hán cũng tiếp tục dùng cách xưng hô này. Trong lúc đó, người
Đảng Hạng lại tự gọi mình là ‘Miến Dược’ hoặc ‘Nhĩ Dược’, cách xưng hô này gần
giống với cách gọi người Đảng Hạng của người Tạng. Trong văn hiến của dân tộc Tạng
cổ, người Tạng gọi người Đảng Hạng trong thời kỳ Thổ Phiên di cư tới vùng Đông
Bắc cao nguyên Thanh Tạng là Nhĩ Dược".

"Cũng có nghĩa là người Đảng Hạng thời kỳ này đã từ
phía tây Tứ Xuyên di chuyến tới vành đai hồ Thanh Hải?" -Đường Phong truy
hỏi.

"Đúng vậy, nhưng thời kỳ này, trên cao nguyên ThanhTạng,
một vương triều khác là Thổ Phiên cũng phát triển, mở rộng ra bên ngoài. Để trốn
tránh sự xâm lược và nô dịch của Thổ Phiên, các bộ lạc Đảng Hạng đã lần lượt di
chuyến về một vương triều mới nổi lên -Đại Đường. Triều Đường đã tiếp nạp họ,
người Đảng Hạng liền di chuyển tới khu vực hành lang Hà Tây và khu vực Cam Nam.
Sau loạn An Sử người Đảng Hạng lại di chuyển tới dải Thiểm Bắc, Hà Sáo, và từ
đó định cư lại tại đây".

Đường Phong tiếp lời giáo sư La: "Phần lịch sử sau đó
tôi đã biết rồi".

"Vậy thì sau đây sẽ tới lượt cậu nói nhé" -Giáo sư
La đang muốn thử Đường Phong.

Đường Phong tiếp tục phần giới thiệu của giáo sư La:
"Sau khi người Đảng Hạng định cư tại khu vực Thiểm Bắc, Hà Sáo, họ đã phát
triển rất nhanh chóng và lớn mạnh. Những năm cuối thời Đường, thiên hạ đại loạn,
từng nhóm người lớn mạnh khởi nghĩa, lãnh tụ kiệt xuất Thác Bạt Tư Cung của người
Đảng Hạng đã dẫn dắt người Đảng Hạng không ngừng mở rộng thực lực của bộ tộc,
và đã lập đại công trong việc trấn áp khởi nghĩa Hoàng Sào, được triều Đường
phong làm Định Nan quân tiết độ sứ, phong tước Hạ quốc công và ban tặng họ
"Ngốt Danh". Bởi vậy trong sử sách cũng gọi hoàng tộc Tây Hạ là họ
Ngôi Danh. Kể từ đó, người Đảng Hạng từng bước chiếm hữu vùng đất của 5 châu gồm:
Ngân Châu,ạ Châu, Hựu châu, Tuy chầu, Tịnh Châu, trở thành chư hầu một phương.
Sau khi triều Tống được thiết lập, triều đình thực thi chính sách bóc lột, thời
Tống Thái Tông, hậu duệ của Thác Bạt Tư Cung là Ngôi Danh Kế Bổng tiếp tục kế
nhiệm chức Định Nan quân tiết độ sứ. Không lâu sau, nội bộ quý tộc Đảng Hạng
phát sinh đấu đá tranh giành quyền lực, triều Tổng nhân cơ hội dụ dỗ Ngôi Danh
Kế Bổng dẫn dắt tộc người đầu hàng, thuận theo triều Tống và dâng tặng vùng đất
5 châu: Ngần Châu, Hạ Châu, Hựu Châu, Tuy Châu, Tịnh chầu. Kể từ đó, nội bộ dân
tộc Đảng Hạng phân tách và đứng trước nguy cơ suy vong. Lúc này, trong những
người Đảng Hạng không muốn thuận theo triều Tống, có một người đứng lên kêu gọi,
dẫn lĩnh tộc người tháo chạy tới Địa Cần Trạch, cách đông bắc Hạ Châu 300 lý
(khoảng 150km), tự xưng vương, chống lại triều Tống. Người này chính là người đặt
nền móng cho vương triều Tây Hạ -Thác Bạt Kế Thiên.

Hơn 20 năm sau đó, người Đảng Hạ dưới sự lãnh đạo của Thác Bạt
Kế Thiên, đã mở mang bờ cõi, chinh phạt bốn bổ, mở rộng lãnh thó, khai phá vùng
sa mạc rộng lớn, không chỉ lấy lại lãnh thó 5 chầu đã mất, mà còn công chiếm trấn
địa trọng điểm của tây bắc bẫy giờ là Linh châu. Đến thời

kỳ con trai của Thác Bạt Kế Thiên, là Thác Bạt Đức Minh cầm
quyền, người Đảng Hạng một mặt xoay sở với hai cường quốc Tống, Liêu, một mặt
chinh chiến với Thổ Phiên, Hồi Cốt, mở rộng về hướng tây, khống chế huyết mạch
trên con đường tơ lụa -vành đai Hà Tây, từng bước thiết lập bờ cõi của nước Tây
Hạ sau này, đóng thời xây dựng đô thành của vương triều Tây Hạ dưới chân núi Hạ
Lan, đặt tên là Hưng Khánh Phủ.

Năm 1038, con trai của Thác Bạt Đức Minh là Nguyên ! lạo, trải
qua một thời gian dài chuấn bị, từ bỏ họ tên mà lioàng đế nhà Tống ban tặng, tự
xưng là họ Ngôi Danh, chính chức xứng đế, kiến lập nên vương triều của người Đảng
Hạng, lấy quốc hiệu Đại Hạ, người đời sau thường gọi vương triều là "Tây Hạ".
Vào thời kỳ huy hoàng nhất của vương triều này là Tây Hạ, Hoàng Hà được coi là
ranh giới phía đông, phía tây kéo dài mãi đến Tây vực, không chế con đường tơ lụa,
phía nam đối đầu với Túc Quan, phía bắc dựa vào đại sa mạc, diện tích hơn cả
ngàn dặm, bao gồm Ninh Hạ, toàn bộ Cam Túc Thiểm Tây, Nội Mông Cố, Thanh Hải, một
phần địa phận của Tân Cương ngày nay. Nguyên Hạo sau khi xưng đế, đã xây dựng bộ
điển chương chế độ hoàn chỉnh, còn sáng tạo ra một hệ thống cả văn tự Tây Hạ độc
đáo nữa".

 

3

_Giáo sư La nghe Đường Phong tường thuật xong, mỉm cười nói:
"Đường Phong, lịch sử Tây Hạ mà cậu vừa nói rất chính xác, vì cậu đã nhắc
đến Nguyên Hạo sáng lập ra văn tự Tây Hạ, vậy tiếp theo tôi sẽ nói vê văn tự
Tây Hạ đã thất truyền". Giáo sư La bấm nút điểu khiển, một số ký tự kỳ lạ
liền hiện ra trên màn hình máy chiếu, rồi ông tiếp giảng giải với mọi người:
"Những ký tự đặc biệt trên màn hình máy chiếu này chính là văn tự Tây Hạ.
Trước khi Nguyên Hạo xưng đế, dân tộc Đảng Hạng vốn không có văn tự riêng. Những
năm đầu, khi người Đảng Hạng còn sống du mục trên vùng cao nguyên Thanh Tạng,
do ngôn ngữ Đảng Hạng gần gũi với Tạng ngữ, nên họ đã vay mượn chữ cái của Tạng
văn để phiên âm ngôn ngữ của mình. Sự sáng tạo ra chữ viết Tây Hạ đã đánh dấu
cho một bước phát triển mới, lên một mình độ cao hơn của văn minh dân tộc Đảng
Hạng. "Tống sử" ghi: "Nguyên Hạo tự chế phiên thư, mệnh Dã Lợi
Nhậm Vinh diễn dịch chi, thành thập lưỡng quyền, tự hình thể phương chỉnh loại
bát phân, nhi họa pha trùng phục. Giáo quổc nhân kỷ sự dụng phồn thư, nhi dịch
"Hiểu kinh",c'Nhĩ Nhã", "Tứ ngôn tạp tự" vi phồn ngữ".
Thẩm Khoát người Tống thì viết trong "Mộng khê bút đàm": "Nguyên
Hạo quả bản, kỳ đổ ngấu khuất tiên sáng tạo phiên thư, độc cục nhẫt lâu thượng,
lũy niên phương thành, chí thị hiến chi". Trong hai đoạn văn ghi chép này,
đã nói rằng, trước khi Nguyên Hạo kiến lập vương triều Tây Hạ, đã ra lệnh cho đại
thấn thuộc hạ Dã Lợi Nhậm Vinh sáng tạo ra văn tự Tây Hạ, lệnh cho nhân dân
trong trước sử dụng loại chữ mới này. Nguyên Hạo còn phiên dịch rất nhiều điển
ách Hán văn thành chữ Tây Hạ. Thực ra, theo ý kiến của tôi, văn tự Tây Hạ vốn
không phải do cá nhân nào sáng tạo ra, mà là được từng bước hình thành trong
dân gian, cuối cùng được Dã Lợi Nhậm Vinh sưu tầm thu thập chỉnh sửa mà
thành". Giáo sư La giới thiệu liền một mạch sự ra đời và hoàn thiện của
văn tự Tây Hạ.

Lương Viện nhìn chằm chằm vào những văn tự Tây Hạ kỳ quái
trên màn hình máy chiếu, đột nhiên hỏi: "Giáo sư sao cháu thấy mấy văn tự
Tây Hạ này hơi giống tiếng Hán nhỉ, nhưng cháu chẳng hiểu được chữ nào cả".

" Khà khà ! Viện Viện, cháu quan sát khá lắm, văn tự
Tây Hạ chính là Hán tự vay mượn, biến đổi mà thành. Các bạn xem, văn tự Tây Hạ,
về kết cấu rất giống Hán tự. Cũng giống như chữ ô vuông, do nét chấm, ngang, sổ,
mác, hất, quai, móc câu tạo thành, đến cả thể chữ cũng giống như Hán tự, có 5
loại thể chữ: Khải, Hành, Thảo, Triện, Lệ. Những người Itn »! IU nhìn thấy vẳn
tự Tây Hạ đều nhầm rằng đây là chữ Hán, thực ra đây hoàn toàn là một loại văn tự
khác. Cho tới nay, tổng cộng đã phát hiện ra hơn 5000 chữ trong văn tự Tây Hạ,
tuy giống chữ Hán, nhưng không có bất cứ một chữ nào tương đổng với chữ Hán. Điều
này đã phản ánh ý thức dân tộc mạnh mẽ của người Đảng Hạng, chúng ta xem lại mấy
văn tự Tây Hạ này nhé, nét nhiều nhưng rời rạc, nhiều nét nghiêng, đặc biệt là
nét phẩy, nét mác, bởi vậy mới có sách lịch sử viết về văn tự Tây Hạ là ‘loại
phù triện’, ý nói là nét chữ Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu. Bởi vậy,
sau khi Tây Hạ diệt vong, văn tự Tây Hạ nhanh chóng biến mất chôn vùi trong tai
họa rình rập.

 

Sau khi Tây Hạ bị người Mông Cổ tiêu diệt, văn tự Tây Hạ
cũng nhanh chóng biến mất trong dòng chảy lịch sử, mấy trăm năm sau không ai
hay biét. Mãi cho đến những năm Gia Khánh triều Thanh, một học giả người Cam
Túc là Trương Tấu trở về quê dưỡng bệnh, khi đến một ngôi miếu ở Vũ Uy, phát hiện
thấy một căn phòng nhỏ đóng kín, ông hỏi một nhà sư ở đó là: "Trong phòng
có vật gì ?" Nhà sư nói: "Trong phòng là một tấm bia, tấm bia này rất
quái dị, e rằng là yêu nghiệt, bởi vậy mới để trong phòng đóng kín cửa"
Trương Tấu bao năm làm quan bên ngoài, nghe nhiều biết nhiều, không tin vào
truyền thuyết ma quỷ nên đã yêu cầu nhà sư mở cửa phòng đé xem thử là yêu nghiệt
gì. Nhà sư không còn cách nào khác, đành phải mở cửa phòng cho Trương Tấu vào.
Trương Tấu phát hiện trong phòng quả nhiên có một tấm bia, chữ trên tấm bia là
những văn tự mà một đại học giả như ông chưa từng được biết đến, Trương Tấu lúc
đó kinh ngạc thất sắc. Khi ông cẩn thận rón rén đi vòng ra sau tấm bia thì phát
hiện ra mặt sau tấm bia có khắc chữ Hán, số chữ nhiều gần bằng chữ ở mặt trước.
Trương Tấu bấy giờ mới hốthoảng hiểu ra, hóa ra vàn tự ở mặt trước chính là văn
tự Tây Hạ đã biến mất! Tấm bia này chính là "Lương châu trùng tu Hộ Quốc Tự
cảm ứng tháp bia"^ rất nổi tiếng, hiện vẫn bảo tồn trong viện bảo tàng tại
thành phố Vũ Uy.

(1). Còn được gọi là: tấm bia Tây Hạ, là tấm bia khắc sổ lượng
chữ Tây Hạ đối chiếu với chữ Hán nhiếu nhất và hoàn chỉnh nhất được phát hiện.
Ban đầu bia đá nàv được đặt ở Đại Vân Tự, thời Tây Hạ, Đại Vân Tự được đổi tên
thành Hộ Quốc Tự -ND.

Kể từ đó về sau, văn tự Tây Hạ dần dần được giới học thuật
coi trọng. Năm 1909, nhà thám hiểm người Nga Kozlov tại di chỉ Hắc Thủy Thành
thuộc lãnh thổ Ejinaqi đã đào trộm một lượng lớn văn hiến có viết văn tự Tây Hạ
trên đó. Kozlov vận chuyến tất cả những văn hiến Tây Hạ này tới Petersburg, nhà
Hán học nước Nga Ivanovich Ivanov đã phát hiện ra cuốn "Phiên Hán hợp thời
chưởng trung châu" nổi tiếng trong văn hiến Tây Hạ được Kozlov chuyển về.
Đây là một cuốn từ song ngữ tiếng Tây Hạ và tiếng Hán, do học giả Tây Hạ là Cốt
Lạc Mậu Tài biên soạn. Ivanovich Ivanov nhờ có cuốn từ điển này đã đọc hiểu
không ít văn tự Tây Hạ cổ xưa. Ở nước ta, người bắt đầu nghiên cứu một cách hệ
thống văn tự Tây Hạ là hai cha con học giả nổi tiếng La Chấn Ngọc và La Phúc
Trường. Năm 1913, hai cha con La Chấn Ngọc và La Phúc Trường có được một phần của
'Miên Hán hợp thời chưởng trung châu" từ chỗ Ivanovich anov. Trải qua nhiều
năm nghiên cứu, La Phúc Trường đã dùng "Sáu phương pháp tạo nên chữ Hán
truyền thống" là: tượng hình, chỉ sự, hình thanh, hội ý, giả tá, chuyển
chú để phân tích văn tự Tây Hạ, giúp mọi người nâng cao rõ rệt kiến thức về cấu
tạo văn tự Tây Hạ. Sau đó, ngày càng có nhiều học giả nghiên cứu văn tự Tây Hạ,
nhưng do văn tự Tây Hạ mất mát đã nhiều năm nên đã không còn giá trị thực tế, cộng
net chữ của văn tự Tây Hạ nhiều mà rời rạc, mù mờ khó hiểu, thế nên cho tới tận
ngày nay, số học giả có thể nắm vững văn tự Tây Hạ chỉ còn lại thưa thớt vài
người"

 

4

_Chính trong lúc mọi người đang rất đối ngạc nhiên về văn tự
Tây Hạ cổ xưa thì Hàn Giang lại nhìn chằm chằm kệ tranh ngọc trước mặt, không
nói một lời. Bề mặt kệ tranh ngọc này rút cuộc khắc nội dung gì ? Có thực sự ly
kỳ đáng sợ như vậy không? Bao nhiêu người vì nó mà mẫt mạng, huyết chú đáng sợ!
Văn tự trên kệ tranh ngọc, anh không hiểu nổi một chữ, thật là một cuốn thiên
thư, không! Phải nói là tử thư! Nghĩ tới đây, Hàn Giang đột nhiên lên tiếng:
"Giáo sư, vậy thì tiếp theo chúng ta sẽ giải thích nội dung của tử thư bí ẩn
trên kệ tranh ngọc nhé".

"Tử thư?" -Mọi người nghe thấy từ này thốt ra từ
miệng Hàn Giang đều rất đối sợ hãi. Giáo sư La cũng hơi sững sờ, liền cười đáp:
"Không sai, đội trưởng Hàn nói không sai, đây quả thực là một cuốn tử
thư".

"Tử thư! Lẽ nào giáo sư cũng không biết sao?" -Đường
Phong ngạc nhiên hỏi.

Giáo sư La trầm ngầm hồi lâu, đáp: "Tôi vừa nói ban nãy
rối đấy, văn tự Tây Hạ giồng như chữ Hán, có năm th¿ thứ: Khải, Hành, Thảo, Triện,
Lệ. Cho tới nay, tôi đã từng nhìn thấy bốn thể chữ Khải, Hành, Thảo, Triện
trong văn tự Tây Hạ, chỉ có duy nhất thể chữ Lệ là chưa từng thấy trong văn tự
Tây Hạ. Còn văn tự trên kệ tranh ngọc này, từ kinh nghiệm bao năm qua của tôi
cho thấy, chúng vừa không phải là thể chữ Khải Tây Hạ, cũng không phải là thể
chữ Hành Tây Hạ, càng không phải là thể chữ Thảo Tây Hạ hay thể chữ Triện Tây Hạ,
bởi vậy bước đầu tôi phán đoán, văn tự Tây Hạ trên kệ tranh ngọc chắc là thể chữ
Lệ Tây Hạ mà nhân thế chưa từng nhìn thấy"

"A ! Sao phức tạp vậy, vì chưa có ai từng nhìn thấy, vậy
cũng chẳng có ai hiểu đâu nhỉ ?" -Lương Viện không giấu nổi sự thất vọng.

Khà khà, các bạn không phải sốt ruột đâu! Dù lần đầu tiên
tôi đọc những văn tự này cũng không hiểu, nhưng rút cuộc cũng chỉ là thể chữ
không giống, văn tự vẫn là văn tự rây Hạ, nếu là thể chữ Khải và thể chữ Hành
Tây Hạ thường thấy, thì chỉ cần một tiếng đồng hồ là tôi có thể dịch ra. Nguyên
nhân đóng cửa một tuần là do cũng là lần đầu tôi nhìn thấy thể chữ Lệ. Vẫn may,
thông qua một tuần nghiên cứu, tôi vừa đọc vừa mù mờ đoán nên cũng dịch được đại
khái nội dung văn tự trên kệ tranh ngọc, chỉ có điều tôi cũng không thể hoàn
toàn khẳng định..." -nói tới đây, giáo sư ngưng bặt.

Hàn Giang nhìn giáo sư La đầy tin tưởng: "Giáo sư, bất
luận là chính xác hay không, ngài cứ nói xem sao".

Giáo sư La gật gật đầu, bắt đầu dịch những văn tự trên kệ
tranh ngọc: "Văn tự trên kệ tranh ngọc phân thành hai phía trước sau, chữ ở
phần trên ít hơn, hơi giống như phần Hán tự trong toàn bộ bài văn, bước đầu tôi
tạm dịch ra, toàn phần mở đầu này là: Tủ tôn hữu nan, tử bình hợp nhất, vạn thủy,
cửu từ nhát sinh, Hạn Hải Mật Thành,ại trường sinh thiên tí hựu, khả đắc phục
quốc chi tư, phục quốc chi nhân, phi ngã tử tôn, tẩt thụ huyết chú. Tổng cộng
có 44 chữ, văn gốc không có dấu câu, dấu câu ở giữa là do tôi thêm vào, đây chỉ
là bản dịch ban đầu của tôi, thâm tâm cũng không chắc chắn, đặc biệt là ‘Hạn Hải
Mật Thành’ mấy chữ đó đá bị bào mòn, rất không rõ ràng".

"Giáo sư, bốn mươi tư chữ này nghĩa là gì?" -Đường
Phong nói ra sự thắc mắc trong lòng mọi người.

Sắc mặt giáo sứ La đanh lại, hình như ông đang băn khoăn cân
nhắc trùng trùng, mọi người đợi mãi một lúc lâu sau mới nghe thấy giáo sư La
nói: "Bốn mươi bốn chữ này, theo như suy đoán ban đầu của tôi, có liên
quan tới một bí mật lớn của vương triều Tây Hạ.."

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3