Thất lạc cõi người - Chương 06 (phần 3)

 

Tôi quay về căn hộ chung cư ở Amanuma, với thân hình rách rưới
tiều tụy, vứt bỏ mọi hy vọng, thả mình nằm dài trên giường. Tôi đã hai
mươi chín tuổi. Hoàn toàn trắng tay. Chỉ còn một manh áo Dotera. H cũng
chỉ đủ quần áo mặc. Tôi thấy mình đã rơi xuống tận đáy. Hoàn toàn dựa
vào số tiền trợ cấp anh cả gửi lên hàng tháng, chúng tôi sống lặng lẽ
như kiến như sâu.

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chưa xuống tận đáy. Vào
đầu xuân năm đó, tôi có một cuộc trao đổi không ngờ đến với một họa sĩ
chuyên vẽ tranh kiểu Tây Phương. Và dần dần trở thành bạn bè chí thiết.
Khi biết chuyện đã xảy ra tôi thiếu điều muốn đứng tim. H đã phạm một
sai buồn. Tôi chợt nghĩ đến dáng vẻ của H khi tôi rời khỏi cái bệnh viện
không may đó, ngồi trong xe hơi, H có vẻ buồn vô hạn trước câu nói tàn
nhẫn của tôi. Tôi đã gây cho H quá nhiều nỗi buồn phiền, nhưng tôi vẫn
muốn chung sống với H đến khi nào tôi chết. Tôi rất dở trong cách biểu
hiện tình cảm nhưng cả H cả người họa sĩ đó không hiểu được điều đó. Cho
dù nghe chuyện nhưng tôi cũng chẳng thể làm được gì. Tôi không muốn gây
thương tổn cho ai cả. Trong ba người thì tôi là người lớn tuổi nhất.
Tôi nghĩ chỉ có tôi là bình tĩnh để đưa ra những quyết định sáng suốt
nhưng quả thật tôi đã suy sụp trước chuyện này, đã hớt hải, đã đầm đìa
nước mắt khiến cho bọn H càng khinh miệt tôi hơn. Tôi chẳng thể làm được
gì. Tôi dần xa lánh người họa sĩ trong thời gian đó. Cho dù đau khổ
nhưng tôi vẫn thấy tội nghiệp và lấy làm tiếc cho H. Hình như nàng đang
muốn chết. Dù gì thì trong những lúc không thể nào chịu đựng nổi, tôi
cũng nghĩ đến cái chết. Thôi thì cả hai cùng chết vậy. Chắc thần linh
cũng sẽ tha thứ cho chúng tôi thôi. Hai chúng tôi cùng đi du lịch như
hai anh em đến suối nước nóng Minakami. Đêm đó, hai chúng tôi tự sát
trên núi. Tôi nghĩ mình không thể làm H chết được. Tôi cố gắng làm vậy. H
đã sống. Tôi cũng thất bại ngoạn mục. Chúng tôi đã uống thuốc ngủ.

Cuối
cùng chúng tôi chia tay nhau. Tôi không đủ can đảm để níu kéo nàng lại
thêm nữa. Nói là tôi bỏ rơi nàng cũng được. Mặc dù cố thử chịu đựng bằng
cái từ chủ nghĩa nhân đạo trống rỗng nhưng tôi đã cảm nhận được rõ ràng
cái địa ngục xấu ác cũa những ngày tiếp theo sau đó. H một mình quay về
sống với mẹ già ở quê. Còn người họa sĩ kia thì tôi không biết tung
tích thế nào. Tôi ở lại một mình trong căn phòng chung cư, bắt đầu cuộc
sống tự nấu nướng lấy. Tôi bắt đầu uống rượu Sochu. Răng tôi lung lay
rồi dần rơi rụng. Mặt tôi trở nên đê tiện. Tôi chuyển sang một căn phòng
trọ gần khu chung cư. Đó là phòng trọ tồi tàn giá rẻ nhất. Tôi nghĩ nó
hợp với tình cảnh của mình. Dựa cửa nhìn trăng sáng, đêm cuối nhìn thế
gian, đồng khô dài trước mặt, tùng đứng lặng trầm ngâm. Tôi nhiều lần
uống rượu một mình trong căn phòng bốn chiếu rưỡi, say cuồng ra khỏi
nhà, đứng dựa cột ngâm ư ử một bài ca bất chợt. Trừ hai ba người bạn
thân thiết khó rời còn lại con người đều tạ tuyệt với tôi. Dần dần tôi
cũng hiểu được cái thế giới này nhìn tôi như thế nào. Tôi là một tên vô
lại kiêu mạn ngu si, một thằng cha hiếu sắc giảo quyệt hạ đẳng, một kẻ
lừa đảo thiên tài, sống xỉ xỉ bê tha, đến khi túng tiền thì cuồng ngôn
đòi tự sát nhằm uy hiếp cha mẹ anh chị nơi quê nhà. Đã ngược đãi người
vợ trinh thục như mèo như chó rồi cuối cùng tống cổ nàng ra khỏi cửa.
Ngoài ra còn nhiều thêu dệt trào tiếu, hiềm ác phẫn nộ khác mà thế gian
nói về bản thân tôi, bị thế gian chối bỏ, tôi bị đối xử như là một phế
nhân. Từ khi nhận ra điều đó, tôi không còn muốn ra khỏi phòng trọ tồi
tàn của mình dù chỉ một bước. Những đêm không có rượu tôi vừa gặm senbei
muối vừa đọc truyện trinh thám, tự mình vui trong nỗi lặng thầm. Các
tạp chí và tòa soạn báo cũng không đặt hàng tôi viết truyện nữa. Hơn thế
tôi không còn muốn viết gì cả. Tôi không thể viết được. Tuy món tiền nợ
trong khi nhập viện không bị ai thôi thúc trả nhưng tôi vẫn khổ sở với
chúng thậm chí trong những giấc mơ hàng đêm. Tôi đã ba mươi tuổi đầu.

Liệu
sẽ có một sự chuyển hóa nào chăng? Tôi nghĩ mình phải sống. Những bất
hạnh của gia đình tôi ở quê nhà đã cho tôi sức lực đó. Anh cả tôi sau
khi trúng cử đại nghị sĩ đã bị khởi tố vì tôi gian lận tuyển cử. Tôi vô
cùng tôn kính nhân cách nghiêm túc của người anh cả nên vụ này chắc chắn
là có kẻ xấu nào đó ra tay. Chị tôi mất. Cháu trai tôi chết. Người em
họ cũng qua đời. Những việc này tôi đều nghe người ta nói lại mà biết.
Vì từ lâu tôi đã không còn liên lạc thư từ gì với những người trong gia
tộc ở quê nhà. Những bất hạnh này dần dần từng chút một đã nâng tôi dậy.
Tôi rất hổ thẹn vì căn nhà to lớn ở quê của mình. Cái danh con nhà giàu
đã làm tôi tuyệt vọng. Cái cảm giác nản lòng là những ân huệ ấy không
xứng với mình đã làm tôi trở nên hèn nhát và yếm thế bi quan. Tôi tin
rằng trẻ con nhà giàu sẽ phải rơi vào đại địa ngục khủng khiếp cho xứng
đáng với kẻ nhà giàu. Trốn chạy là hèn nhát. Tôi muốn chết một cách đàng
hoàng với tư cách một đứa trẻ đầy ác nghiệp. Nhưng rồi một đêm tôi nhận
thấy mình đừng nói là một đứa trẻ con nhà giàu mà chỉ còn là một tên
tiện dân đến ngay cả một tấm áo mặc còn không có. Tiền trợ cấp từ quê
nhà gửi lên chắc chắn trong năm nay sẽ bị cắt. Tôi cũng bị chuyển hộ
khẩu rồi. Nhưng ngôi nhà tôi đã sinh ra và lớn lên ở quê giờ lại chìm
vào đáy của sự bất hạnh. Tôi không còn một thứ đặc quyền nào nữa để có
thể đe dọa người ta. Ngược lại chỉ có nợ nần. Cùng với sự ý thức này còn
có thêm một điều nữa. Đó là trong khi nằm dài trong căn phòng trọ,
không còn muốn chết nữa thì tự nhiên cơ thể tôi lại hồi phục sức khỏe
một ca1hc lạ thường. Đây là một nguyên nhân tôi cho là rất quan trọng.
Mặc dù có thể liệt kê ra nhiều nguyên nhân khác nữa như tuổi tác, chiến
tranh, dao động của lịch sử quan, sự căm ghét thói lười biếng, sự thấp
hèn của văn học hay là do thần linh nhưng khi giải thích về sự chuyển
hướng của con người tôi đều thấy có gì đó trống rỗng. Bởi cứ cho là sự
giải thích đó là đúng đến đâu đi nữa thì bao giờ tôi cũng nhìn thấy ra
được kẽ hở của sự dối trá ở đâu đó. Không thể nào có chuyện con người
lúc nào cũng suy nghĩ như thế này, cân nhắc như thế kia rồi mới chọn con
đường đi được. Trong nhiều trường hợp, vào một lúc nào đó, anh ta chợt
thấy mình đang đi trên một cánh đồng xa lạ.

Vào mùa hè năm ba mươi
tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn
chương. Nghĩ lại thì đó là một ý ngộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn
trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn.
Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành
cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di
chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho
dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó
trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin
tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Vứt bỏ”
(Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự
sát tại suối nước nóng Minakami. Tác phẩm này tôi bán được ngay. Có một
biên tập viên vẫn không quên chờ đợi tác phẩm của tôi. Tiền nhuận bút đó
tôi không dám phung phí, đầu tiên tôi đến tiệm cầm đồ chuộc lại một cái
áo dạ mặc ngoài và đi du lịch. Tôi đến vùng núi Koshu. Cũng là để đổi
mới suy nghĩ và dự định viết một tiểu thuyết dài. Tôi ở Koshu đúng một
năm tròn. Tuy không viết được tiểu thuyết dài nhưng lại viết và xuất bản
được hơn mười truyện ngắn. Cũng nhận được nhiều lời khen ngợi từ bốn
phương. Tôi nghĩ mình phải cảm tạ chốn văn đàn. Tôi nghĩ người nào sống
được ở đó cả đời thì thật là may mắn. Năm sau, vào tết năm Chiêu Hòa 14,
nhờ sự giúp đỡ của vị ân sư mà tôi đã tổ chức được một đám cưới giản dị
với một người con gái qua mai mối. Không, cũng chẳng phải là đám cưới
giản dị gì nữa. Tôi cử hành hôn lễ mà không một xu dính túi. Rồi chúng
tôi thuê một căn nhà nhỏ chỉ có hai phòng ở xa Koshu mà chung sống với
nhau. Tiền thuê nhà một tháng là sáu yên năm mươi xu. Tôi gom lại những
truyện đã viết và in được thành hai quyển. Cũng dư dả được một chút xíu.
Tôi cũng từng chút một trả được món nợ canh cánh trong lòng nhưng trả
hoài mà không thấy hết. Vào đầu thu năm đó, chúng tôi chuyển đến khu phố
Mitaka, ngoại thành Tokyo. Nơi này không còn là thành phố Tokyo nữa. Kể
từ khi tôi mang một chiếc cặp rời nhà trọ ở khu Ogikubo đi đến Koshu
thì cuộc sống của tôi ở Tokyo đã bị cắt đứt hoàn toàn.

Tôi giờ chỉ
có mỗi việc tập trung viết văn. Trong sổ đăng ký khách trọ mỗi lần du
lịch, tôi không ngần ngại đề tên “nhà văn” vào mục nghề nghiệp. Cho dù
có khổ não nhưng tôi ít khi nói ra. Những nỗi khổ nhiều hơn trước đây
nữa tôi cũng mỉm cười mà đón nhận. Mấy kẻ ngu ngốc nói tôi đã trở nên
tầm thường. Mỗi ngày mặt trời lặn trên Musashino thật lớn với ánh sáng
rực rỡ thiêu đốt chói chang. Mỗi ngày tôi ngồi trong căn phòng ba chiếu
ngắm mặt trời lặn, ăn bữa cơm tối buồn thảm rồi nói với vợ mình. “Anh là
một thằng đàn ông như thế đấy nên không thể thành công, không thể giàu
có nhưng dù sao đi nữa anh vẫn muốn giữ gìn và bảo vệ cái gia đình này”.
Lúc đó đột nhiên tôi nhớ đến tám cảnh sắc Tokyo. Quá khứ bỗng trở về và
lướt qua tôi như hình ảnh của chiếc đèn kéo qu

Nơi này tuy là
ngoại thành Tokyo nhưng công viên Inokashira gần ngay đây vẫn được xem
là một trong những điểm danh thắng của thành phố này, nên tôi thấy việc
cho thêm cảnh mặt trời lặn ở Musashino vào “tám cảnh sắc Tokyo” thì cũng
chẳng sao. Tôi thử lật lại quyển album quá khứ để quyết định bảy cảnh
sắc còn lại. Tuy nhiên trogn trường hợp này, cái trở thành nghệ thuật
không phải là phong cảnh Tokyo mà là “tôi” ở trong phong cảnh đó. Như
vậy nghệ thuật đã lừa tôi chăng? Hay tôi đã lừa nghệ thuật? Kết luận.
Nghệ thuật chính là tôi.

Mùa mưa ở Totsuka. Hoàng hôn ở Hongo. Lễ
hội ở Kanda. Tuyết đầu mùa ở Kashiwagi. Pháo hoa ở Hacchobori. Trăng
tròn ở Shiba. Ve sầu ở Amanuma. Chớp lóe ở Ginza. Hoa cosmos ở bệnh viện
thần kinh Itabashi. Sương sớm ở Ogikubo. Mặt trời lặn ở Musashino. Đóa
hoa tăm tối của ký ức đã rụng rơi lả tả khiến việc sắp xếp lại thật khó
khăn. Hơn nữa tôi nghĩ việc cố gắng gom góp lại thành tám cảnh cũng đã
hạ đẳng và vô lý rồi. Trong đó tôi đã thêm vào hai cảnh nữa của mùa xuân
và mùa hạ.

Vào ngày mùng bốn tháng bốn năm nay, tôi đã đi thăm
một bậc tiền bối S ở Koishikawa. Vị tiên sinh S này đã lo lắng cho tôi
rất nhiều khi tôi nhập viện năm năm trước. Cuối cùng tôi bị la mắng rất
dữ và bị xem như kẻ phá sư môn. Thành ra vào Tết năm nay, tôi đã đến xin
lỗi và tạ lễ. Sau đó thì im bặt trong một thời gian dài cho đến ngày vị
tiên sinh đó được mời làm người tổ chức một buổi lễ ra mắt sách mới
xuất bản của bạn tôi thì tôi mới có dịp đến thăm. Vị tiền bối đã nhận
lời và chúng tôi ngồi nói chuyện về hội họa và về những tác phẩm của
Akutagawa Ryunosuke. “Tôi biết mình đã làm khó cho cậu nhưng nhìn thấy
kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay, tôi nghĩ mình cũng nên lấy làm vui
mừng”. Tiên sinh nói với tôi bằng giọng cân nhắc chậm rãi. Chúng tôi
cùng đón xe đi Ueno. Và đã cùng xem một cuộc triển lãm về tranh họa Tây
Phương ở bảo tàng mỹ thuật. Có nhiều bức tranh chán ngắt. Nhưng tôi dừng
lại trước một bức tranh. Tiên sinh S cũng đến gần tôi, nhìn sát mặt vào
bức tranh đó rồi nói bất chợt.

“Nhạt nhẽo quá nhỉ”.

“Không được chút nào”, tôi cũng nói thẳng.

Đó là bức tranh của người họa sĩ kia, của H.

Chúng
tôi rời bảo tàng mỹ thuật và đến Kayabacho xem duyệt trước bộ phim
“Cuộc tranh đấu đẹp” rồi ghé Ginza uống trà kết thúc một ngày vui chơi.
Đến chiều tối vị tiền bối S bảo sẽ đón xe buýt về nhà từ nhà ga
Shinbashi nên tôi cũng theo chân vị S cùng đi bộ đến nhà ga Shinbashi.
Dọc đường tôi kể cho vị tiên sinh S đó nghe kế hoạch viết về Tokyo tám
cảnh của mình.

“Quả thật mặt trời lặn ở Musashino trông lớn lắm đấy”

Vị S dừng lại trên chiếc cầu trước nhà ga Shinbashi.

“Một bức tranh đẹp đấy chứ?”, vị S trầm giọng nói và đưa tay chỉ về chiếc cầu khu vực Ginza.

“Ah”, tôi cũng đứng sững lại và ngắm nhìn.

“Một bức tranh đẹp”, vị S lặp lại như độc thoại với chính mình.


tôi quyết định sẽ đưa hình dáng của tên đệ tử phá sư môn, dáng vẻ ngắm
nhìn phong cảnh của vị S vào một trong những cảnh sắc Tokyo hơn chính là
những phong cảnh được ngắm nhìn.

Sau đó chừng khoảng hai tháng,
tôi lại bắt được một cảnh sắc sáng sủa khác. Vào một ngày kia, tôi nhận
được một lời nhắn từ người em vợ. “Ngày mai T sẽ khởi hành. Chúng ta có
thể gặp mặt anh ấy ở công viên Shiba. Hãy đến đó vào chính giờ sáng mai
nhé. Và nhờ anh hãy truyền đạt lại tình cảm của em với anh ấy nhé. Vì em
ngu ngốc chẳng biết nói với T cả”. Tuy em vợ tôi đã hai mươi hai tuổi
rồi nhưng vì dáng người nhỏ bé nên trông cứ như trẻ con. Năm ngoái đã
được sắp xếp gặp mặt cậu T và đính hôn ước rồi đấy nhưng ngay sau khi
hứa hôn cậu T lên đường nhập ngũ, đồn trú ở một đơn vị thuộc Tokyo này.
Tôi cũng đã từng một lần gặp mặt cậu T khi cậu đang mặc đồ quân phục và
nói chuyện cùng nh chừng nửa tiếng. Đó là một thanh niên sáng sủa, quý
phái. Và ngày mai cậu ta phải đi vào chiến địa. Sau khi nhận được lời
nhắn đó trong vòng chưa tới hai giờ đồng hồ tôi lại nhận được một bức
điện khác từ cô em. “Sau khi suy nghĩ kỹ, em thấy lời yêu cầu trước với
anh thật là nhẹ dạ phù phiếm. Anh không cần nói gì với T cả. Chỉ cần anh
đến đó tiễn anh ấy vậy là được rồi”.

Cả tôi và vợ đọc xong thì
phá ra cười. Tôi cũng rất hiểu sự gấp gáp lật đật của cô em vợ. Từ hai
ba ngày trước nàng đã đến nhà giúp việc cho cha mẹ cậu T rồi.

Sáng
hôm sau chúng tôi thức dậy sớm đi đến công viên Shiba. Trong khuôn viên
chùa Zojoji, rất nhiều người đến tập trung đưa tiễn. Tôi nắm lấy một
ông già mặc bộ quần áo kaki, đang vội vã chen lấn đám đông để hỏi thăm
thì ông cụ trả lời đơn vị của cậu T sẽ dừng lại ở ngoài sơn môn nghỉ
chân chừng năm phút rồi lại xuất phát ngay. Chúng tôi từ trong khuôn
viên chùa đi ra ngoài cổng sơn môn chờ đơn vị của cậu T đến. Cô em vợ
của tôi tay cầm lá cờ nhỏ cùng với cha mẹ cậu T đã đến đó từ trước. Đây
là lần đầu tiên tôi được gặp song thân của cậu T. Vì cũng chưa quen thân
nhiều lắm với lại tôi cũng kém xã giao nên cũng chẳng hỏi thăm gì. Tôi
chỉ gật đầu chào nhẹ rồi bắt chuyện với cô em.

“Đã bình tĩnh lại chưa em?”

“Dạ, không có gì đâu ạ”, nàng đáp và cười rất tươi.

“Có chuyện gì với em thế?”, vợ tôi cau mặt lại hỏi. “Sao lại cười rúc rích thế kia?”

Người
đến đưa tiễn cậu T đông ơi là đông. Có đến sáu cây cờ lớn viết tên cậu T
dựng ngoài sơn môn. Các công nhân trong xưởng nhà cậu T, các nhân viên
nữ cũng nghỉ làm để lên đây đưa tiễn. Tôi tách khỏi mọi người, đứng
riêng ở ngoài rìa góc sơn môn. Tôi cảm thấy tự ti và ghen tỵ. Nhà cậu T
thì giàu. Tôi thì bị sún răng và không có chiếc áo lành mà mặc. Tôi
không mặc áo khoác hakama cũng không đội nón. Tôi là một nhà văn nghèo.
Chắc chắn bố mẹ cậu T sẽ nghĩ rằng bọn người thân rách rưới bẩn thỉu của
con dâu mình đã đến đây mà. Cô em vợ chạy đến nói chuyện với tôi nhưng
tôi đuổi đi và nói rằng “hôm nay em đóng một vai trò rất quan trọng đấy.
Quay trở lại chỗ bố mẹ chồng đi”. Đơn vị của cậu T mãi mà không thấy
đến. Mười giờ, mười một giờ rồi mười hai giờ cũng chẳng thấy đâu. Mấy
chiếc xe buýt chở đoàn học sinh nữ đi tham quan đã đi qua trước mặt tôi.
Trên cửa xe buýt có dán tờ giấy ghi tên trường. Đó là tên trường trung
học nữ ở quê tôi. Cháu gái con anh cả tôi chắc chắn cũng học ở trường
này. Có lẽ đang ở trên xe cũng nên. Tôi nghĩ cô cháu chắc cũng nhìn dòng
người đang đứng thẫn thờ trước cổng sơn môn của chùa Zojoji danh tiếng ở
Tokyo mà không biết có ông chú ngu ngốc của mình trong đó. Có đến
khoảng chừng hai mươi chiếc xe nối tiếp đi qua sơn môn và mỗi lần như
thế cô hướng dẫn viên trên xe lại chỉ tay đúng vào chỗ tôi và thuyết
minh điều gì đó. Đầu tiên thì tôi thản nhiên nhưng sau đó tôi cũng làm
dáng vài điệu bộ. Tôi khoanh tay lại đứng như bức tượng Balzac. Và ngay
lập tức tôi có cảm tưởng mình đã trở thành một phần của danh thắng
Tokyo. Đến gần một giờ chiều bỗng nghe có tiếng la hét “đến rồi đến rồi”
và một lúc sau chiếc xe tải chở đầy lính tráng đã đến trước sơn môn. Vì
cậu T đã học lái xe nên lần này cậu được làm tài xế. Tôi đứng nhìn mơ
màng từ sau lưng đám đông. “Anh này” cô em vợ từ lúc nào đã đến sau lưng
tôi thì thầm và đẩy vai tôi thật mạnh. Chợt bừng tỉnh tôi thấy cậu T đã
bước xuống xe vẫy tao chào thằng tôi đang đứng cuối đám đông này. Tôi
cũng hơi nghi ngờ, do dự nhìn quanh quẩn nhưng đúng rõ ràng là cậu ấy
vẫy tay chào tôi. Tôi quyết ý chen vào đám đông cùng cô em tiến đến chỗ
cậu T đứng. “Đừng lo gì chuyện nhà nhé. Tuy cô em tôi ngu ngốc thế này
nhưng chắc chắn nó biết cách vun vén chu toàn đấy. Đừng lo gì cả. Chúng
tôi sẽ chăm lo cho cô bé”. Thật là hiếm khi tôi nói mà không cười một
chút nào như thế này. Tôi nhìn cô em, thấy mặt nàng đang ngước nhìn lên
đầy căng thẳng. Mặt cậu T thoáng ửng đỏ nhưng rồi cậu im lặng và giơ lại
tay chào.

“Em không còn điều gì nói nữa hay sao?” Lần này tôi cười và hỏi cô em vợ.

“Dạ, đủ rồi ạ”, nàng cúi mặt nói.

Hiệu
lệnh xuất phát đã ban ra. Lần này tôi lại muốn âm thầm lẻn vào đám đông
người nhưng bị cô em đẩy vai đi đến tận buồng lái xe. Chỗ đó chỉ thấy
cha mẹ cậu T đang đứng chờ.

“Hãy yên tâm mà đi nhé”, tôi hét lớn.
Người cha nghiêm nghị của cậu T chợt quay lại nhìn tôi. Ánh mắt của cụ
như muốn nói “thằng ngu nào vừa mới la làng vậy?”. Nhưng lúc đó tôi
không sợ. Phải chăng tôi nhận ra mình đã nói một lời cuối từ niềm tự hào
vô cùng của con người rằng có những điều khổ đau đến chết mà chải mang
theo. Tôi không vào được quân ngũ và tôi nghèo nhưng tôi không bận tâm
nữa. Danh thắng Tokyo này lại hét lớn:

“Đừng lo lắng gì nữa cả”.

Từ
giờ trở đi vạn nhất chuyện hôn sự của cậu T và em vợ tôi có gì bất trắc
thì thằng tôi vô pháp vô thiên không biết thể diện này sẽ trở thành
điểm tựa cuối cùng cho cả hai người.

Lấy được cảnh sơn môn chùa
Zojoji, tôi cảm thấy tác phẩm của mình đã hoàn chỉnh như thể dây cung đã
được kéo căng hết sức giống như mặt trăng tròn vậy. Vài ngày sau đó tôi
mang một tấm bản đồ Tokyo, bút, mực và giấy viết hăng hái lên đường đi
du lịch Izu. Sau khi đến nhà nghỉ suối nước nóng Izu sẽ có chuyện gì nữa
đây? Tôi đã đến nhà nghỉ này được mười ngày rồi và vẫn còn tiếp tục ở
đây. Phải viết một cái gì đó mới được.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3