Mẫn và tôi - Chương 12 (phần 1)
Xỏ xong quai dép bằng lá chà là, Anh Tư Luân rút ống thuốc mỡ
trong túi dết, kéo cao ống quần, bóp thuốc trên đầu gối, nắn chỗ sưng.
Anh cứ đủng đỉnh như ông câu dầm. Thấy tôi đứng lên dòm lần nữa, anh
cười khà
- Chưa đâu, lão. Săn heo rừng phải lì đợi chờ. Hai Mẫn đánh coi như ăn gỏi, con nhỏ lanh kỳ cục lắm đó.
Tôi
bị bắt quả tang đang sốt ruột, chỉ cười theo xí xóa. Cái bình tĩnh khi
nằm đợi nổ súng bay đâu mất, tôi nhấp nhổm hoài, và cãi gượng với mình
rằng tôi bị buộc phải đứng ngoài xem đánh nên mới lo giùm anh em. Tôi
không dám truy tới cùng thử coi lo cho ai nhiều nhất.
Một con bìm
bịp nhảy trong bụi, thoáng màu cánh nâu chìm vào lá. Một tràng hụp hụp
dội ra. Dứt tiếng chim, tôi đoán: “Sắp nổ đây nè, sắp …”. Không nổ. Con
rắn mối bò trên đá, đương ngó tôi, óng ánh như một vật chặn giấy bằng
sành phủ men xám. Nó há miệng hớp nắng, thè cái lưỡi đỏ liếm mép ngon
lành như vừa uống bia vàng, lại chui vào kẽ. Tôi tìm việc làm cho mắt và
tai. Cu đất gù ngoài xa. Đám mây hình con gấu khi nãy đã co lại hình
mèo ngồi…Đầu tôi cứ tự ý quay về phía làng. Mẫn vào trong ấy đã ba hôm,
và chiều nay sẽ đánh trận táo bạo: diệt vọng gác giữa ban ngày, lấy cho
được súng, ép địch co lại. Đó là trận mở màn “chiến dịch” mới của Tam
Sa.
Anh Luân thích gọi nó là chiến dịch giành lúa. Tôi đặt tên
khác: cuộc chạy đua với Mỹ. Mẫn đùa, tuyên bố với du kích rằng ta sắp
đồng khởi từng xóm. Chẳng ai sai cả, vì đợt tấn công này có đủ các nét
ấy gộp lại.
Đồng lúa chạy dài mé trên đường cái đen đang chín rộ,
chín gấp, từng mảng nối tiếp nhau ngả vàng tươi, trông mà bắt cồn cào cả
người. Mùa gặt đầu tiên sau lụt lớn đến sát sau lưng, bà con Tam Sa
thấy giặc sửa soạn cướp lúa mà phát cuồng. Cha con xã Chinh chưa dám
tính chuyện lấy lại ruộng hay đòi tô cũ, chỉ hằm hằm ăn xổi vài chục
ngàn ang thóc cái đã. Đồng Nhơn Phước chín sớm hơn, bị một đại đội giặc
đổ ra vừa gặt vừa xéo, M.113 chở lúa bỏ chạy tuốt về An Tân, bà con đấu
và du kích đánh suốt ngày mới giữ hơn được một nửa. Chín Cang chạy vào
báo tin với cặp mắt sưng đỏ. Chậm chân là mất lúa. Sau đó, dù được giải
phóng, bà con cũng phải bỏ xứ đi kiếm sống, du kích bám làng chỉ có nước
ăn củ chuối.
Riêng tôi cứ nhắc hoài vụ quân Mỹ sắp vào Chu Lai.
Sân bay dưới ấy đủ cho máy bay cánh quạt lên xuống, các cứ điểm xung
quanh xây gần xong, số Mỹ cai quản lính ngụy lên tới tám chục. Tôi xuống
đấy hai đêm với Năm Ri, đoán chậm nhất chỉ vài tuần nữa Mỹ sẽ đổ bộ,
tiếc rằng chủ lực ta bận đánh nơi khác, không kịp nện một đòn phủ đầu.
Bây giờ Tam Sa nổi dậy khó một, tháng sau sẽ khó gấp đôi gấp ba. Tôi kể
lại cuộc chạy đua giữa C.215 với tiểu đoàn biệt động ở Đèo Nhông, ta
nhanh hơn vài phút mà dành được cái thế từ trên đạp xuống mặt địch.
Chi
bộ họp trắng đêm, quyết định cái điều Mẫn nói: cài răng lược mạnh nữa,
dù phải giành chính quyền từng liên gia cũng cứ nổi dậy, lập “xóm chiến
đấu” mà đánh! Mẫn được cử làm “chỉ huy trưởng” chiến dịch, vào ở hầm
trong ấp. Năm Tuất về vùng cát nắm Nhị Lộc, Tư Luân đóng sở chỉ huy
ngoài gò. Anh Liệp về họp với bộ mặt ủ rũ của người đợi bị kỷ luật, cậu
Quì xoắn hai tay phân bua mãi phát ngấy. Còn hai đồng chí nữa trong nhóm
Anh Liệp lặng lẽ vắng mặt, chi bộ hiểu ngay rằng họ bỏ cuộc, làm Đảng
viên trong thời đánh Mỹ này quá khó đối với họ. Cũng được thôi, họ có
thể nhận việc khác vừa sức hơn. Anh Luân bàn riêng với Mẫn và tôi, rồi
giao Tám Liệp lo chung đợt thu và giấu lúa nuôi quân sắp tới. Tôi thoáng
thấy trong mắt anh Liệp một ánh mừng thầm kín, không muốn vội đoán xem
anh mừng vì ai.
Tôi bốc, giơ tay nhận làm “Tham mưu trưởng chiến
dịch”. Nói xong mới biết mình hớ. Chi bộ cười, Mẫn cúi xuống đọc cái gì
trong sổ tay, anh Luân lại vỗ đùi: “Đồng ý cái rốp!”. Tôi quên mất nạn ở
chung hầm! Nhưng rồi anh Luân cũng can, vì huyện cấm xã dùng tôi kiểu
ấy. Thật tình, nếu không có cái Chu Lai từng lúc gọi giật tôi về nhiệm
vụ làm quen với Mỹ, tôi đã biến hẳn thành một cán bộ của Tam Sa. Cái cảm
giác hòa tan mình trong một tập thể thật là thú vị, như tôi ngâm cả
mình dưới suối giữa trưa hè cho nước ngấm vào từng nếp da mát rượi.
Tiễn Mẫn vào làng dưới sáng trăng, Anh Luân đấm lưng tôi, nói tưng tửng:
- Từ giờ trở đi, ông cố vấn quân sự của tao có nhảy mũi, máy mắt, té lên té xuống, là tại mày nhắc miết đó nghe!
- Chú
-
Sáng trăng tôi được chồng ai; tôi cột gốc xòai, ai chuộc tôi cho…May
mai mày ra chuộc, nhớ vai mang vò rượu tay bồng con heo, ừ chứ?
Mẫn
bịt tai, chạy mất. Tôi ngượng nín thinh, lại muốn nghe Anh Luân nói
nhiều về cô cháu gái cưng cho khuây cái ý nghĩ day dứt; Mẫn đi vào chỗ
nguy hiểm mà vắng tôi bên mình. Nhưng Anh Luân bắt sang chuyện hai đảng
viên vừa rút lui êm. Tôi nghe nửa giờ chẳng hiểu anh nói gì.
Tối hôm sau, cùng đi Nhơn Thọ và về tới giếng Tiên lúc hai giờ sáng, Anh hỏi độp trong khi buộc võng:
- Nè ông lính Binh Định, cắm rễ làng Cá thì tính làm rể luôn chớ?
- Mô Phật!
-
Đừng làm bộ! Lâu nay mình để ý kiếm chồng cho Hai Mẫn, ngó đi ngó lại
chẳng thấy ai xứng nó. Sắp du kích kêu chị Hai riết rồi coi nó như chị
thiệt, đố dám lấy. Con trai đi bộ đội sạch trơn, sót đứa nào lớ ngớ ở
làng cũng bị địch nắm đầu đi quân dịch. Thời buổi này, gái ngoan tìm
chồng ở chốn ba quân chớ ở đâu. Lão hỏi con Mẫn, chắc nó ừ. Con gái ở
đây trầm trồ khen lão bảnh trai lắm đó.
Nếu một ai khác ghép đôi
cho tôi bằng cái giọng cha nội ấy, chắc tôi đã cáu. Anh Luân nói, tôi
chỉ cười dài, thu thú nữa, còn anh thì lại phát bực:
- Gì mà cười?
Chuyện chung thân đại sự mà cứ hả hả hả…..Đừng tưởng con Mẫn dễ đâu
nghen. Sáu bảy anh đâm đơn bị bác hết rồi. Mình tính giùm cho lão vậy.
Lão bỏ nhỏ một tiếng, tụi mình xúm lấy cuốc vun vô, nó gật một cái là
lãi cưới luôn. Lão đi tứ xứ mặc kệ lão, để vợ đó tụi mình giữ giùm, hồi
rảnh rang lão về bồng con… Cười nữa à? Nửa đời người không lo vợ con, ở
đó nhăn răng cười!
Anh tức thật sự, phẩy cái quạt mo phành phạch một hồi, ngủ luôn.
Chẳng
biết các cô “tưởng sự lấy chồng, tỉnh như con sáo” thật không, chứ cơn
buồn ngủ cứng mắt của tôi tan đâu mất. Tôi hiểu, anh Luân tự thấy phải
lo cho đứa cháu mất mẹ vắng cha, cũng muốn Mẫn gọn bề chồng con để yên
bụng làm công tác, khỏi lo già hết duyên, hay là ngại lên cấp cô khó lấy
chồng trẻ…Chú Luân ơi, chú tốt bụng lắm, nhưng mà cha mẹ lấy vợ cho chú
cách một phần tư thế kỷ rồi, cô cháu gái của chú ngày nay nghĩ về tình
yêu và hạnh phúc khác xa chú thím rồi. Thằng Thiêm có thể bảnh trai,
được cô ấy anh anh em em ngọt lừ đấy, nhưng nó suồng sã một chút là ăn
báng súng các bin M.2 vào sườn cho coi. Lấy cuốc cuốc vào theo lối chú,
biết đâu chẳng là lấy cào cào ra!
Tôi xoay lưng về phía ông mối
bất mãn, ngáy một lát, con mắt cứ tráo trưng. Đang đánh Mỹ mệt phờ râu,
ông lại đi gợi chuyện ba lăng nhăng…. Nhưng lại hấp dẫn mới chết chứ….
Người
ta bảo “Dân thợ chậm vợ hiếm con”, có lẽ đúng. Cả họ Đặng phía ba tôi,
hầu hết làm thợ, đàn ông đều theo cái lệ tam thập nhị lập, muộn nữa càng
hay. Chỉ một người phá giới sớm là anh con đầu ông bác tôi. Mới hăm
mốt, làm ét xe hơi, Anh mê một cô hàng xén rất xinh ở An Khê, quyết lấy
cho được. Ba tôi khuyên:”Đời thằng thợ, để gia tài cho con có hai thứ
thôi: tay nghề là một, thất nghiệp là hai. Ba mày với tao chí thú tới
vậy, bây giờ đầu hai thứ tóc vẫn là sống nhờ đất nước ông bà, chết cậy
mã tà đi đưa. Mày chưa vững nghề đã vợ đuổi con đeo, liệu sắm bị gậy sẵn
đi!”. Anh tôi không nghe, nhà gái thách mấy cũng cố vay mà cưới, ở gửi
rể luôn, nghe đâu quần quật bốn năm mới sạch nợ. Bẵng đi rất lâu, hết
đánh Tây, mà tôi gặp lại anh về Quy Nhơn tìm việc, ngó mãi mới nhận ra:
Anh già sọm đi, vai còng, tóc bạc một mảng sau gáy. Tôi nghe anh kể mà
kinh. Anh là cái đầu máy hụt hơi kéo một xâu toa dài thêm mãi: tám đứa
con nối vào anh, chị vợ rất đoảng níu vào bầy con, ông già lười biếng
với bà già vỡ nợ móc xích vào vợ, đeo thêm vào đấy còn cả chùm những cậu
em vợ lêu lỏng về nã tiền nhà, những họ hàng gần xa cứ nhất định tin
rằng làm ô tô là hái ra bạc. Đã vậy, bấy nhiêu người cứ thi nhau nhắc ra
rả rằng anh lấy được chị là phước bảy mươi đời, mấy đứa con lớn cũng
bắt chước nói theo, đau lắm….
Hồi nhỏ đã khiếp, lớn lên tôi gặp vô
số cặp vợ chồng Ngâu rất tội, mười một năm chưa một lần được qua sông.
Tôi lại lao hết mình theo dòng thác đánh Mỹ. Có lẽ tim tôi không chứa
nổi hai say mê lớn, nên tôi quên nhanh những rung động chợt đến trước
một đôi mắt bồ câu nhìn tôi khuyến khích, để nghĩ tới cây tom-xơn của
tiểu đội Ba trúng đạn toác vành cò. Người cứ nhẹ thênh, rất khoái. Cho
đến nay…ma quỷ nào xui mà tôi nhớ Mẫn hoài vậy?
Ừ, nhớ đấy, thì đã
sao? Có gì là bậy nếu tôi nhớ cô bạn sắp đánh một trận khó? Nhớ hẳn đi
một keo thử coi, đằng nào cũng chưa ngủ được…..
Giả sử tôi nghe
lời Anh Luân, tôi đặt vấn đề…. chà, mấy tiếng này cứ khô khốc. Tôi liều
gọi Mẫn bằng em chẳng hạn. “Em Mẫn”. Cái báng các bin nằm im, chỉ có đôi
mắt rất đen ngước nhìn tôi, luống cuống hỏi thầm: “Có phải …hay em nghe
lầm?”. Hãy cứ vơ vào một chút, mất gì. Trong văn chương, tới đó người
ta chấm lửng, qua chuyện khác, coi như ai thắng ai đã rõ. Ngoài đời chắc
là khác, tôi phải nói thêm nhiều nhiều, chết nỗi nói gì đây? Một chuỗi
câu hát rất xưa đến ngỏ giùm tôi. Những câu hát nhẹ như sương mỏng bay
qua, phủ mờ khuôn mặt Mẫn, đôi mắt nghiêm dịu lại thành mắt người yêu
đắm đuối…Lụt nguồn trôi trái lòn bon: mẹ mất cha còn, em chịu mồ côi.
Thương ghê. Khúc dạo đầu đó, rồi tới gặp anh một bữa nhớ anh ngàn ngày.
Ngàn ngày là gần ba năm đó nghen. Gặp lại hai chục bữa thì phải nhớ sáu
mươi năm…. Màn sương đẫm trăng bạc đọng dần trên môi chúng tôi thành
những giọt vui rưng rưng: Anh với em…..
Một chú gà rừng gáy xa thé
thé. Bỏ mẹ, gà gáy đầu rồi sáng mai lên lớp tha hồ mà ngáp, con ma sốt
rét cứ rình xuống sức mà quật. Vướng. Mang tiếng thấy mồ. Sắp quần lộn
ẩu với địch mà định mê gái à? Không khổng khồng không. Tôi cố vẽ trong
đầu một số không thật tròn, cảm thấy cái võng tự do đong đưa bay lên,
rất dễ chịu. Chân tay tê dần, tới đầu tôi cũng tan trong con số không
ấy.
*
- Ai đốt than cháy tới canh này mà chưa chịu hạ lửa, cà nông bắn chết á.
Ai
như chị Biền dưới chân dốc gọi lên lảnh lói. Tôi quay nhìn đằng sau:
Một cột khói mỏng đang bốc đứng bỗng đứt gốc, phá ngang thành nhiều bung
tròn lộn xộn. Đội du kích đang ngủ một giấc “ứng trước”, chắc có cậu
nhen lửa đun nước uống, vừa dập vội. Mặt trời gần gác núi. Ba phát cối
60 đã bắt bà con quay về hết ấp, không còn đám khói “hợp pháp” nào để
cho chúng tôi nấu chen vào.
Chị Biền vạch bụi leo đến chỗ chúng tôi, bắp chân vạm vỡ bị gai bớm rạch mấy đường, mặt bánh mật đỏ rựng. Chị hổn hển:
- Tôi… các cha ẩu quá…lộ cả xâu cả xốc rồi đó….
Chị Biền đem tin mới. Tin xấu.
Cha
con xã Chinh đã cho Ba Thấn về trại hồi chánh, tưởng êm, trưa nay lôi
hắn trở lại làng Cá. Thằng Chinh con vừa khịt mũi vừa đánh thằng Thấn
hộc cơm rồi hộc máu, bắt khai du kích bí mật: “Nhứt định mày còn giấu
ranh lắm, mày chừa chỗ để về sau cộng sản thắng mày khỏi bị tù”! Ba Thấn
muốn ngừng trên sườn dốc làm phản, nay phải lăn tiếp. Một lính ngụy mà
chị Biền nắm được báo tin tối nạy địch sẽ cho quân đi bắt hơn chục người
trong xóm Đinh sáng mai bắt tiếp ở hai xóm kia.
Tư Luân bạnh quai hàm:
- Hai Mẫn ở đâu?
Chị Biền liếc tôi một cái rất nhanh. Tôi hiểu, nhỏm dậy định lảng, Anh Luân níu tay lại:
- Lão là tham mưu mà… Nói hết đi chị!
-
Con Mẫn ở hầm nhà tôi. Cho Út Liềm báo động dây chuyền, biểu ban cán sự
với số bị khai né tạm xuống xóm Đuồi thôi, đêm nay du kích về trụ luôn
mà. Nó bỏ cú hốt vọng gác.
- Hừ, đáng lẽ….
- Lo diệt cái ác đã. Tính quét cả thằng Chinh, thằng Thấn, đánh ngay chỗ cổng đình, giấc chạng vạng.
Tôi
giật mình. Anh Luân chồm vai tới, mắt trừng trừng. Đình làng Cá nằm
giữa xóm, hai đại đội giặc đóng lúc nhúc như vắt đầu mùa mưa, làm sao
lọt mà đánh, đánh xong rút đường nào? Mẫn điên tiết tính đổi mạng à?
Chị
Biền kể rành rẽ như một anh lính lâu năm sau buổi lên bàn cát. Thằng
Chinh con ưa bắt người vào đúng bữa cơm tối, khi ngoài đường đã vắng, ai
ở nhà nấy đông đủ. Mẫn với hai cô nữa bó tiểu liên và lựu đạn trong
gánh rơm nếp – nhiều nhà đã gặt lúa nếp- nhân lúc nhá nhem sẽ lọt vào
căn nhà nát trước cổng đình. Út Liềm ở nhà khác gần đấy, đợi. Một chị
nữa núp trong bụi rình. Khi nghe tiếng chửi mất gà báo lính ra, Út Liềm
châm ngay cây đèn gió to như ngọn đuốc, chạy tới cổng đình, kêu có Việt
cộng vô xóm. Chắc chắn tụi lính sẽ chặn hỏi Liềm, gọi cảnh sát tới nhận
mặt. Liềm cố gắng dằng co sao đó để hai thằng Chinh và Thấn phải tới gần
đèn, trước họng súng của tổ du kích….
Tôi nhăn trán, cố hình dung
trận đánh rắc rối ấy. Một loạt câu hỏi nảy ra tới tới. Tôi vặn mãi chị
Biền, không tin chị trả lời được, nhưng chị nắm rất chắc:
- Dân vệ
nằm bên Nhơn Thọ, muốn bắt ai thằng Chinh phải tự đi, xóm đông lính nên
nó không sợ…Đánh mìn ban đêm, làm sao giựt cho trúng con thịt
lớn?…Đường tiến đường lui êm rồi, tôi lo hết, cây rào nhổ sẵn cắm hờ,
rút qua xóm Giữa chớ dại gì chạy ra gò…Súng nổ, cả xóm đánh mõ la làng,
nó đốt nhà thì ùa tới dập lửa….Lấy mủ mít dán hai con đom đóm trên đầu
ruồi, lỗ ngắm, bắn gần xịt thôi mà….Tụi này quân dịch hết, thứ cá sơn cá
chốt đó đâu dám rượt ban đêm….
Rốt cuộc, tôi phải nhận ra rằng
Mẫn đã liệu hết các trắc trở có thể xảy ra. Tôi chỉ góp thêm một mũi
dương công: nên đặt vài người nữa ở hướng chạy ra gò, khi tổ Mẫn rút thì
họ nổ sung kéo địch về phía khác.
- Hay! Mà các ông đừng vô sớm, khua chó sủa rần, đám lính vụn nó hoảng, không dám ra là hỏng ăn đó nghen.
Đôi
vai lực lưỡng, khúc gáy đỏ lủng lẳng búi tóc của chị Biền đã khuất sau
bụi. Tôi vin một cành sim, rứt dần từng trái non trắng mốc, lật ngược
xuôi mãi cái kế hoạch của Mẫn trong đầu. Lâu nay tôi truyền nghề cho Mẫn
bằng giọng ông thầy lên lớp. Đến khi Mẫn tự xếp đặt một trận, tôi lại
không hiểu nổi. Tôi chưa hề nghĩ đến kiểu hợp đồng rất khít giữa du kích
nổi, di kích chìm với những chị Biền, em Liềm, lính ngụy đưa tin, với
bà con cả xóm. Chị Biền còn phải nhắc chúng tôi đừng vào quẩn chân những
người sắp đánh. Xấu hổ thật.
Anh Luân hỏi lần nữa
- Ngó bộ chắc ăn chớ, ông cố vấn?
- Hết chỗ bắt bẻ rồi.
Tôi
nói cho tôi đỡ lo thôi. Tôi không tin còn đủ vô tư để xét việc làm của
Mẫn. Đôi mắt sâu của anh Luân lấp láy. Anh lấy giọng như người cha sợ
con nghe lời khen:
- Lão thấy chưa? Đâu xa chẳng biết, mấy xã
quanh đây khó kiếm được một đứa như nó. Bình thi đua dạo đầu năm, con
nhỏ tráo qua tráo lại sao đó, đẩy thằng Ri lên huyện, lãnh được có một
giấy khen diệt tám ngụy, cay không. Mình truy gắt, nó mới thú thiệt: cấp
trên hay ưu tiên cho con gái, nó sợ đưa miết lên tỉnh, khu, Trung ương,
phải đi họp thi đua cả năm mới về, bỏ việc chẳng ai làm. Nghe tức ói
chưa! Chị Tám Giàu về hỏi, phải chi nó khai đầy đủ cho giới phụ nữ họ
mừng, đây nó kêu quên hết. Sắp du kích tính giùm nó được có ba ác ôn,
mười bảy ngụy, hai Mỹ, còn đánh chung cả đội thì chia phần nó đâu được
chục ngụy nữa, là hà tiện tới chữ rồi. Vậy mà nó còn cãi bướng: “Cháu
lượm hai thằng công an trên đường cái đen, lấy súng, cũng có chị em rình
mỏi mắt, có anh em yểm hộ, cháu giành hết thì họ đi chơi không à? Cháu
cộng thành tích ăn chung đổ lộn, trên mới thưởng cho xã cái huân chương
đó chớ!”. Nó cãi ngang xương, mình lý cả buổi không xuôi, chút nữa nổi
khùng. Vậy mình mới nhắm cho lão, tay non cầm cương nó đâu nổi….
Tôi lảng vội:
- Chị Biền giỏi thật, nói như anh tác huấn lành nghề.
-
Chưa biết à? Trung đội trưởng du kích hồi chín năm, dẫn quân đi dự
chiến phía Bà Ren, Trà Kiệu miết đó. Tù hai năm, bây giờ một nách năm
con, nuôi cả anh chồng bị xã Chinh đá giập phổi, cực ớn. Trên đồng ý cho
kết nạp đơn tuyến rồi, chưa kịp làm lễ. Địch xúc dân qua bên Mỹ, chị ta
cũng theo tới đất Mỹ làm cách mạng, nói cứng vậy đó. Lão thấy chị ta cà
rà mượn súng, nhớ đuổi đi thiệt xa nghen, còn ngứa nghề du kích lắm, lộ
mặt thấy bà!
Anh đặt túi dết kê đầu, nằm trên cỏ, phủ khăn che
mặt. Anh tập được cái nết ngủ rất hay: ngủ say mà không ngáy, nghe tiếng
động khác thường là mở mắt tỉnh liền, định ngủ một tiếng thì đúng một
tiếng anh dậy, hơn kém chỉ vài ba phút. Anh còn làm chủ được tất cả các
đòi hỏi của thân thể: Ăn, uống, ho, đái, ỉa, chỉ trừ căn bệnh thấp khớp
là không trị nổi. Im một lát, anh bỗng nói trầm ngâm như nói một mình
dưới tấm khăn:
- Lão hỏi đố sắp du kích thử coi: Ai dám đổi mạng,
giết cha con xã Chinh rồi chết luôn? Ít nhất một nửa tay xung phong,
mình đoán vậy, mà số đông là dân làng Cá, Cái làng thiệt kỳ lão à, một
làng hơn hai chục họ khác nhau, hồi Tây Sơn giành ruộng với họ Võ dưới
Lộc Chánh hay lắm, lúc rảnh lão hỏi cho biết.
Anh thiếp đi.

