Mẫn và tôi - Chương 03

 

Nước rút.

Những con sông không tên màu nâu, đỏ bầm, vàng
đất sét lần lượt thu hình, chảy chậm dần, tan trong biển nước gạo đang
cạn, đứt thành nhiều vũng bùn sền sệt, để lại từng bãi đá duỗi về phía
Đông. Làng Cá từ đáy nước nhô lên từng tí một, thưa đi như hàm răng rụng
dở, chết lặng. Ngôi đình còn đứng, mang trên hai mái toác lỗ chỗ vì
pháo một ngấn bọt vàng xỉn, và nhuộm bùn từ đấy trở xuống. Cây đa to đổi
màu lạ, trên xanh dưới nâu. Trên lớp cành rậm của nó đeo vô số bàn ghế,
bè, chõng, nia, rế, cả xác người xác thú nằm chìm trong tán lá, bị nước
tấp lại che kín. Mãi về sau khá lâu vẫn thỉnh thoảng có một thứ nào đó
đột ngột rơi xuống, trở về với đất. Hiện ra cuối cùng là những khoảnh
đồng cao ruộng thấp, bờ biến hết, bồi một lớp sỏi cát từ núi lở xuống
đáy hàng thước mộc(1). Bên dưới lần vỏ ấy có một mùa lúa gieo bị vùi
không sót một hạt, có những trái mìn địch gài sẽ nổ dưới lưỡi cuốc, có
nhiều xác đàn bà trẻ em tìm mãi không thấy, một lúc nào đó sẽ hiện ra,
lặng lẽ nhắc lại cho loài người hiểu thế nào là tội ác diệt chủng.

 

(1) Thước cũ, độ 4 dm

 

Dân
làng Cá lần lượt trở về làng. Không thể bỏ quê bỏ đất. Họ cào bùn bằng
hai tay, tìm gấp lưỡi cuốc hay con gao, moi lại cái hầm chống pháo trước
hết rồi mới kiếm các thứ khác.

Bộ đội và bà con vùng giải phóng
vẫn bớt ăn mặc đem xuống giúp mọi thứ. Theo mực nước vợi dần, các nhóm
xuồng chèo, xuồng chống, rồi xuồng đẩy lướt bùn, tiếp tới người cõng
hàng lội qua vũng qua cồn, cuối cùng tới những đoàn dân công gánh trĩu
vai, cứ không ngớt tuôn tuôn về vùng bị nạn. Quân địch cũng mon men kéo
đến, bị du kích đẩy lùi. Sự sống mọc mầm trở lại từng bước chập chững
trên bãi bùn trải từ tỉnh này qua tỉnh khác, bị phi pháo giặc cắn xé
từng hồi, trong khi cơn bão số 16 đang quay thông thốc ngoài khơi, đi
dần vào bờ biển miền Trung chưa ráo lụt. Nó không dữ dội bằng cơn bão
trong lòng người dân làng Cá, người dân bị nhốt trong những ấp chiến
lược như làng Cá. Thù giặc hết chỗ nói. Thù đến tắc họng, cháy mắt, chỉ
hả được khi nhào vào chúng nó mà chém, cào, đâm, nện, cắn, bóp cổ. Cả
những ai trước đây run vì sợ giặc, nay chỉ run vì phải cố nén căm giận,
đợi ngày N.

Tam Sa sắp nổi dậy.

Tôi về C.215 bàn đánh phối hợp.

Chẳng
hiểu vì sao tôi còn đứng nổi. Lắm lúc tôi xây xẩm sắp ngã, dạ dày lộn
trái lên họng, các đốt xương mỏi rã như mọt đục thủng chi chít. Tôi cố
gượng, gượng được, lại nhấc súng lên “bia” một phát vào cái mũ bê-rê đỏ
bầm màu máu đông trên gò Mù U, hay bổ tiếp những nhát cuốc moi hầm cho
bà con. Dầm nước suốt từ đầu mùa lụt, đại đội có nửa số quân đang lên
cơn sốt rét, vừa run vừa cười: “Kệ cha nó, sốt rét coi như khỏe, thương
hàn trở lên mới là bệnh”. Nghỉ lúc này là nằm trên đống gai. Nghe lệnh
ra trận, anh em tung chăn chồm dậy hết, nói mình đã qua cơn, đánh một
lát tháo mồ hôi sẽ lành. Và họ lành thật.

Cô Hai Mẫn cùng lên Tam Trân với tôi.

Mẫn
đi sau lưng tôi như cái bóng. Không nói một tiếng. Khi dừng trên gò
tránh chiếc tàu rà, Mẫn ngồi bó gối nhìn mãi vào khoảng trống, đôi mắt
đàn ông cứ lặng đờ dưới khăn trắng. Cha Mẫn bị tù Côn Đảo đã tám năm
không một tin nhắn về. Đến nay, nỗi đau mất mẹ và cái khổ chung của làng
xóm ập đến, có lẽ quá sức chịu đựng của cô gái mới chẵn hai mươi. Trong
công tác Mẫn cứ tỉnh và sắc, nhưng tôi gờm cái dáng cứng lạnh kéo dài
ấy. Chị Tám Giàu dỗ mãi, Mẫn nói ráo hoảnh: “Khóc làm gì? Tụi nó sợ đạn,
có sợ nước mắt đâu!”

Hết quãng đồi hoang, tôi xắn quần lội suối.
Hôm bơi qua chỗ này, Năm Ri gọi nó là sông Rù Rì, ranh giới giữa Tam Sa
và Tam Trân. Lúc ấy nó rộng hơn trăm thước, gầm gào tuôn dòng thác màu
gạch non qua cánh đồng lớn phủ nước mưa trắng đục. Bây giờ nó trở lại là
con suối hiền, rất trong, chẳng họ hàng gì với lớp bùn khô đóng dày
trên cây lá viền rậm hai bên bờ.

Không có tiếng chân lội theo. Tôi
ngoái lại. Mẫn đứng dựa thân cây, ép bàn tay trên ngực, thở nặng nhọc.
Mấy hôm nay Mẫn hay tức ngực như thế. Tôi vội đến đỡ súng và bao lưng
cho Mẫn, bảo ngồi nghỉ. Mẫn hít một hơi dài, nói khẽ:

- Chỗ này… pháo giập luôn.

Mẫn
đi ven suối ngược lên một quãng, đến bên con mương lấy nước bị lấp một
nửa. Cái đập đầu mương trôi mất, chỉ còn mấy khối đá chồng nhau nằm giữa
dòng. Chúng tôi bẻ lá lót ngồi bên mương cho dễ nhảy xuống tránh pháo.
Tôi vét cái túi ni-lông, bứt lá cánh bướm quấn một điếu thuốc rê, lim
dim thả khói. Mẫn ngồi dựa gốc cây, nhắm mắt.

Khi gặp các cô Tam
Kỳ, anh Ba Tơ ưa đóng vai ông chú, trêu rất ác: “Lính tao thà cắt tóc đi
tu còn hơn lấy con gái Tam Kỳ. Tiền đâu mua thuốc cho tụi bây hút? Mười
đứa, đếm đi đếm lại thấy đeo bọc thuốc bên hông đủ một tá. Tam Kỳ nằm
giữa Hà Nội với Sài Gòn, là chỗ rốn đường sắt, đẻ ra con gái đứa nào
cũng giống y cái đầu máy xe lửa: đen thui, đi ục ịch ục ịch, miệng phun
khói phèo phèo, ai động đến thì ré nhức tai như còi!”. Bị các cô xúm lại
đấm bịch bịch, anh còn kêu: “Xe lửa qua cầu đó, nghe chưa?”

Tôi cười một mình. Cô gái Tam Kỳ trước mặt tôi không có chút gì là “xe lửa”.

Mẫn
có khuôn mặt trái xoan trắng xanh, thân hình dẻo và thon, hơi mảnh
khảnh. Ai chỉ quen nhìn các cô nông dân mình tròn má phính, ắt dễ lầm
Mẫn là “nông dân cày đường nhựa”, tuy từ nhỏ tới nay Mẫn mới ra thị xã
có vài lần, chưa tới Đà Nẵng bao giờ. Nói theo kiểu má tôi bàn với các
bà chọn dâu, cô này “ốm như cây sậy, gió thổi bay, nước da như đờn bà đẻ
dậy, thứ đó rước về mà thờ chớ làm ăn gì!”. Trước khi tôi về Tam Sa,
chị Bỉnh đã cho biết Mẫn là chi ủy viên chính thức phụ trách quân sự,
kiêm bí thư xã đoàn thanh niên. “Coi bộ yểu điệu như tiểu thơ mà đánh
giặc lì lợm nhứt đó”. Dọc đường Năm Ri gọi Mẫn là chị Hai và khen Mẫn
“ăn no vác nặng”. Về cây các-bin liên thanh của hiếm, chị Tám Giàu kể
rằng Mẫn đã mượn áo dài quần trắng đi dò mãi trên đường Một, ném lựu đạn
hạ được hai tên công an quận, tước một súng ngắn một các-bin. Thì ra
cái mẽ ngoài lắm lúc thật trái ngược.

Tôi ngồi im, đợi Mẫn đỡ mệt.
Mấy ngày nay tôi chỉ chợp mắt mỗi đêm được ba bốn tiếng, còn Mẫn hình
như không hề ngủ, trăm việc đều đến tay, chôn mẹ xong lại tất tưởi chạy
chân không bén đất. Về họp với C.215, tôi sẽ thu xếp cho Mẫn nghỉ một
chút, khuây khỏa một chút.

Những quầng sáng lạ chợt hiện trên mặt
cô gái, chạy rập rờn. Hàng mi và một mảng tóc của Mẫn nổi màu vàng kim
nhũ từng lúc, tuy Mẫn ngồi dưới bóng cây rậm. Tôi đưa mắt tìm quanh,
nhận ra con suối đang đón ánh nắng vừa vén mây, mặt nước đầy những tia
rắc ngang như kim, ở giữa chan một mảng thủy ngân lóa mắt. Tôi ngắm Mẫn
ngồi im giữa những sóng nắng tỏa từ suối rung rinh rờn trên lá trên
người, mỉm cười một mình: đẹp đấy, nếu Mẫn là người yêu của tôi thì đây
là cảnh rất nên thơ. Tiếc rằng tôi không yêu Mẫn, chỉ thương và trọng
thôi.

Tôi đi xuống suối rửa mặt, chợt thấy những chấm trắng nhấp
nhô gần bờ,chỗ nước chảy mé bên dưới. À, bông bạc. Gặp lại bạn cũ rồi.

Cây
bông bạc nằm chìm dưới nước, rễ xòa bám đá, duỗi những lá mỏng và dài
quẫy mãi theo dòng như một chùm dải lụa xanh. Chỉ có bông hoa nhô khỏi
mặt nước. Trên đầu cái cuống xanh mềm, hai ngón tay tháp bút xòe ra
trắng muốt, nhè nhẹ vẫy mãi, nhắc mãi một lời hứa nào đó, rất xưa trong
tiếng suối thầm thì.

Tôi luồn tay nâng mấy bông hoa gần bờ. Con
sông ở quê má tôi cũng nhiều hoa này. Lâu lâu, dọc đường dài từ trận này
đến trận khác, thứ hoa kỷ niệm của tuổi nhỏ lại đón tôi ở một nơi có
nước trong và bóng mát, vẫy tôi, kín đáo và dễ thương như đôi ngón tay
của ai đó đặt gánh gạo bên đường, vừa gặp “anh ấy” trong hàng bộ đội kéo
qua… Có tiếng chân nhẹ của Mẫn xuống theo. Tôi ngắt một bông, quay lại
đưa cho Mẫn. Mẫn chớp mắt, khẽ nói:

- Đừng hái, anh.

- Mẫn không thích à?

- Thích chớ. Mà để vậy coi xinh hơn.


nhỉ. Bông bạc đứt cuống nằm trên lòng bàn tay tôi cứ thẳng đờ như hai
con tằm chết cứng. Nó là thứ hoa không ngắt cắm bình được. Nó chỉ đẹp
khi đang sống, đang uốn quẫy giữa dòng suối biết đi biết nói. Tôi mến nó
đã lâu, sao không nhớ cái nét riêng ấy nhỉ… Tôi thả bông hoa vừa ngắt
xuống suối, nhìn nó trôi nhún nhảy như đùa với nước lần cuối trước khi
héo rã, tan vào nước, chợt thấy ân hận. Cái chết mới tràn qua đất này
xong, sao tôi lại đi cắt ngang sự sống, dù chỉ là cuộc sống của ngọn cỏ?

Một
loạt pháo từ An Tân bắn lên, nổ gần chỗ lội ban nãy. Đợi mươi phút nữa,
chúng tôi đi tiếp về Tam Trân sau khi pháo địch chuyển làn.

*

Cái kế hoạch bao vây bức rút của tôi bị loại ngay vòng đầu.

Đại
đội trưởng Ba Tơ gặp Mẫn, hỏi chuyện làng chuyện nhà, nhăn trán nghĩ
mãi rồi lắc đầu: hồi anh ở Tam Kỳ, Mẫn mới theo đội công tác và chỉ được
giao nấu cơm vá áo. Anh lại đi cánh Bắc nhiều hơn, ít quen Tam Sa. Nghe
kể việc cứu lụt, anh ừ ừ trong mũi, cầm nhíp nhổ mãi một cái cằm đã
trụi râu. Rồi anh “hự” một tiếng, gắt tôi trước mặt Mẫn, rất ngang:

-
Cái tụi ăn gan uống máu đó mà để cho thoát? Bức rút... hừ, bức rút...
Mày hay trách tao nóng mũi, lần này tao nóng hết đầu mình chân tay rồi
đó. Đừng nói anh em mình đòi đánh, dân đòi đánh, ngay mấy chục thằng
quân địch mới chạy về ta cũng năn nỉ làm sao diệt tụi đầu cọp kia nè!
Xưa nay tụi nó hiếp người cướp của chẳng có chừa vợ lính nhà lính đâu!
Lại còn bốn thằng Mỹ, cha con thằng gì mà ác ôn đó nữa, cho rút hết à?

Hai gò má sần sùi của anh đỏ rựng.

Chính
trị viên Cẩn vừa ghi vừa xoa bụng bằng tay trái- vẫn cái dạ dày. Trung
đoàn đang giục đưa tin thêm về tội ác Mỹ - nguỵ. Anh gập sổ, buông gọn:

- Hễ trên không cho thêm quân, xê mình dám lãnh một diệt một không?

Tôi
tưởng Ba Tơ sắp nói ngay: “Dám!”. Nhưng ngay giữa những cơn nóng ồn ào,
anh vẫn tính rất kỹ sức ta sức địch, vẫn “khôn róc mấu” khi xương máu
anh em cần được cân nhắc. Anh dịu giọng:

- Tao nói phải diệt, còn ai diệt, diệt cách sao thì đợi bàn cho thấu lý đã chớ.

Chúng
tôi đi gặp luôn ban chỉ huy tiểu đoàn đóng cách vài cây số. Tôi nhường
Mẫn báo cáo, để dành tiếng nói của mình cho phần cuối: xin đánh. Tiểu
đoàn trưởng hỏi rất kỹ, chống cằm ngồi nghĩ, điếu thuốc rơi xuống quần
cháy một lỗ tròn không hay. Chính trị viên ra vườn xì mũi, trở vào với
cặp mắt đỏ, nói khẽ:

- Đồng chí Mẫn ăn cơm rồi ngủ một giấc, chiều nay họp tiếp. Cậu Thiêm nhớ uống thuốc phòng nghen.

Thì
ra ở đời vẫn còn những việc mất thì giờ như vậy: ăn, ngủ, uống thuốc.
Chúng tôi đang chăm chăm đợi một tiếng “đánh” thôi mà. Mẫn đưa mắt hỏi
tôi:, vẻ tuyệt vọng rõ đến nỗi anh tiểu đoàn trưởng phải lèo thêm:

- Tư Thiêm vẽ giùm cho cái sơ đồ làng Cá với gò Mù U, được chớ?

Xế chiều, Đảng ủy tiểu đoàn họp mở rộng, và tiểu đoàn trưởng mới nói hết ý mình:

-
Chẳng những vây diệt đại biệt động của thằng Quỳnh, còn phải khóa họng
pháo An Tân, đánh sứt mẻ các cứ điểm đã gây nhiều tội ác trong khu vực
Nam Tam Kỳ. Huyện hứa cho bộ đội phối hợp. Đặc công của tỉnh đang sửa
soạn làm ăn. Huyện ủy vừa cho biết kế hoạch đồng khởi của vùng dưới, tám
đến mười xã, anh Bảy còn muốn làm mạnh hơn...

Mẫn quay nhìn tôi,
mỉm cười, mắt vui lóng lánh. Tôi nở mày nở mặt. Chúng tôi nằn nèo xin
một cắc, đang sợ bị từ chối, bỗng được tới một đồng, nhiều đồng, hóa ra
giàu sụ.

- Riêng cái gò Mù U, đề nghị giao cho xê Ba Tơ chủ công.
Cho thêm một xê nữa mở hai mũi phụ vá đường, chặn hết các ngả. Phải băm
nát, hốt gọn, diệt cho sạch, xóa phiên hiệu cái đơn vị ác ôn đó, nhất là
số Mỹ và cha con thằng Chinh càng không được để sẩy. Các đồng chí thấy
sao?

Ngón đòn trả thù lớn hơn mơ ước của chúng tôi nhiều quá. Nó
còn lớn lên nữa sau khi Đảng ủy tiểu đoàn đi họp với tỉnh ủy, huyện ủy,
có anh phó chính ủy trung đoàn vừa đi vừa chạy từ Quảng Ngãi ra kịp dự.
Mẫn cùng đắp bàn cát với tôi ở nhà chị Bỉnh, cười luôn miệng, đôi lúc
lại thừ người ra hỏi khẽ: “Cắn cưa rồi chớ, anh Thiêm?”. Mẫn cứ sợ mừng
hụt. Đối với Mẫn, trận này không chỉ là trừng phạt giặc và giải phóng xã
mình, nó còn lấy lại cho Mẫn tiếng cười và tâm hồn thanh thản. Thiếu
nó, máu trong người Mẫn cứ mãi là dầu sôi. Hạnh phúc đến trước một ít
rồi, tỏa ngời ngời trên khuôn mặt gầy đang hồng lại như ngấm trầu thuốc.

Nhưng
kế hoạch không cắn cưa bấy nhiêu. Liên tiếp có tin mới: trung đoàn điện
cho hai xê trợ chiến mới xây dựng được đi thực tập luôn trong dịp này,
nện cối 81 và ĐK vào các đồn gần Tam Sa; tỉnh đội Quảng Nam báo tin sẽ
đánh vào thị xã Tam Kỳ; một cậu đại đội trưởng đặc công của khu mà tôi
quen chợt đến, kéo Mẫn ra góc vườn hỏi về con đường xuống cửa biển An
Hòa.... Vẫn chưa hết. Cái máy thu thanh đặt bên chỗ chúng tôi làm việc
từng giờ nhắc rằng trả thù cho làng Cá còn có đồng bào Sài Gòn, Đà Nẵng
đang đánh lại cảnh sát dã chiến trên đường phố để đòi cứu vùng bị nạn,
còn miền Bắc đang dồn gạo, vải, thuốc men gửi vào, còn những người ngay
thật trên cả trái đất đang quyên góp và xuống đường. Giặc vừa úp những
cái nơm thép xuống làng, thì đây, một tấm lưới trời đang dang rộng ra
mãi, dày thêm mãi, sắp chụp xuống rồi.

Bàn cát đã xong. Gọi là bàn
đất sét đúng hơn. Tôi cắm lá cờ giấy trên gò Mù U - cờ vẽ một cái đầu
cọp nhe răng, miệng tô đỏ lòm bằng thuốc đỏ - vừa nghe chị Bỉnh hỏi mấy
giờ. Tôi liếc xuống cổ tay, phải nghĩ một chút mới biết là bốn giờ sáng
chứ không phải bốn giờ chiều. Một tiếng rưỡi nữa cán bộ các xê đánh gò
Mù U sẽ lên bàn cát. Chưa bào giờ tôi thấy Mẫn tươi khỏe như lúc này,
sau một đêm thức trắng.

*

Chiều hôm ấy, khi Mẫn và tôi sắp
trở về Tam Sa để sửa soạn đón quân, một cậu du kích đến tìm tôi, đưa một
lá thư có phong bì giấy trắng hẳn hoi. Anh Liệp, đội trưởng đội võ
trang công tác Tam Sa, trân trọng mời tôi đến “dự bữa cơm thân mật với
đội, nhằm cảm tạ sự đoàn kết giữa Quân đội giải phóng và địa phương”.
Tôi đưa thư cho Mẫn, cười:

- Cô này ghê thiệt, ngồi một bên mà nhứt định gởi giấy cho oai. Tụi tôi đi hết chớ?

Mẫn
không giấu được bối rối khi đọc thư. Tôi bắt đầu thấy lạ. Đội Tam Sa
mời liên hoan, Mẫn không biết. Mà lại mời riêng tôi, tại Tam Trân. Người
cầm giấy đúng là du kích Tam Sa thật, nói ăn cơm ở quán thím Liệp. Mẫn
bảo tôi nên đi, cách nửa cây số thôi. Mẫn còn mấy việc linh tinh, không
dự, sẽ đợi tôi đúng tám giờ tối tại nhà chị Bỉnh để cùng về xã. Cuối
cùng là mấy tiếng hấp tấp và cặp mắt nhìn lảng: “Chỗ quán xá có hơi phức
tạp, anh giữ ý một chút...”. Thế nghĩa là gì?

Tôi theo cậu du kích ra đường ô tô lúc lên đèn.

Rải
rác trong vùng giải phóng có những phố chợ nho nhỏ với mươi quán bán
tạp hoá, mắm muối, bia cam, bánh xèo và mì Quảng, cùng với các tiệm may,
cắt tóc, sửa xe đạp chia chỗ nhau dọc một khúc đường. Nơi họp chợ là
một khu vườn mít hay cau gần đấy, có hầm hào tránh tàu bay đại bác càng
hay, phiên chợ chỉ kéo dài vài tiếng. Phố chợ Ngọc Lợi này khá nhộn
nhịp, lắm hàng. Hàng thành phố có xe khách chở lên hằng ngày, hàng vùng
giải phóng được xe thồ và thuyền đưa xuống. Chợ nhỏ buôn lớn, cần mua
máy thu thanh Nhật hay đồng hồ Thụy Sĩ đều có sẵn, phải cái giá khá đắt
sau nhiều lớp ăn lời. Mậu dịch công doanh cũng vừa đặt một cửa hàng ở
đây. Ta chưa chặt cầu phá đường, chỉ soát xe, thu thuế, chỉ đạo giá cả,
bắt gián điệp. Địch chưa ném bom đốt dãy quán vì sợ thị xã bị giam đói.
Bọn lính địch mỗi khi càn lên đây thường hỏi mua giây dù, vải dù hoa,
bi-đông Mỹ, giá rẻ hơn chợ buôn lậu Tam Kỳ.

Quán thím Liệp là một
nhà tranh khá rộng nằm bên đường cái, ghép thêm một nhà nữa theo thế chữ
đinh ở phía sau. Thím Liệp đón tôi niềm nở, nhắc các con “chào chú” -
ba đứa bé rất xinh, lễ phép, mặc vải hoa cùng màu. Thím còn trẻ lắm.
Cũng may câu chào đầu tiên của tôi rất là chung chung nên tôi kịp gọi
tiếp bằng chị, tưởng đắc sách rồi, ai dè lát sau lại biết con gái đầu
của chị đã lấy chồng, chị sắp có cháu ngoại. Chao ôi, cách xưng hô tiếng
Việt sao mà rắc rối!

Cơm đã dọn sẵn ở nhà trong. Ba người ngồi
uống trà đợi khách, đứng dậy bắt tay tôi hồ hởi. Cả ba đều lạ mặt, sao
vậy? Những đồng chí cứu lụt tôi quen đi đâu hết? Tôi không thể nghĩ đây
là một pha xi-nê trinh thám, bởi du kích Tam Trân đeo súng ra vào nườm
nượp ngoài kia, cười ầm, chị Liệp chia cho mỗi người một nắm thuốc rê và
gắt: “Nhỏ nhỏ cái miệng chớ, chú Tám đang có khách!”

Một anh tóc
lốm đốm bạc, người cao lớn, mặc bộ ka-ki Mỹ may kiểu bộ đội còn mới,
trịnh trọng giới thiệu hai đồng chí Ba Thấn và Sáu Quỳ trong đội Tam Sa,
rồi chỉ vào mình: “Tôi là Tám Liệp, đội trưởng”. Anh rót rượu a-nít và
bia 33, mời tôi nâng cốc với dáng điệu của một sư trưởng đón khách nước
ngoài. Tôi đã ăn no và không biết uống rượu, chỉ cầm đũa cho phải phép,
nhấp bia và ngắm họ, nghe họ.

Anh Liệp luôn luôn đường hoàng đĩnh
đạc, men lên đỏ mặt vẫn không ngớt gọi tôi là “đồng chí đại đội phó”.
Tôi nhớ ngay anh Tư Luân bí thư Tam Sa, đội phó, gầy chỉ còn toàn xương,
lảo đảo ngồi xuống bên tôi, vừa nắn chỗ đầu gối sưng đỏ vừa hỏi: “Còn
điếu nào không, Thiêm?”. Anh Quỳ trạc tuổi tôi, chỉ ăn không nói. Anh
Thấn có vẻ cởi mở nhất, hết lời khen bộ đội “thương đám dân lành”, tôi
nghe rất chối tai tuy biết một số đồng chí ta còn nhiễm lối ăn nói vùng
địch. Có một cái gì lắt léo đằng sau bữa tiệc gà quay cá hấp rất sang
này. Phải chăng các vị cần tôi có mặt để tiện chi mấy trăm bạc quỹ công
vào bữa chén? Nếu vậy lý do đã đủ, tôi sẽ rút lui sớm để các vị ăn nhậu
với nhau, tôi phải lo đánh giặc để giải phóng quê các vị đây. Bà con
dưới kia đang xẻ tư mỗi nắm cơm cứu đói dưới hầm, pháo giặc tưới đất bột
trên miếng sắn ghế...

Tôi cố giữ bình tĩnh một lát nữa rồi xin
kiếu trước. Tôi bị níu lại. Thì ra họ còn muốn căn dặn mấy lời. Anh Liệp
nhắc rằng tư tưởng trong đội đang phức tạp, tôi nghe điều gì trái tai
thì chớ tin ngay, nên hỏi lại đội trưởng. Ba Thấn đỡ lời, nói cô Mẫn
đánh giặc thiệt tới gan nhưng “sanh hoạt có phần bừa bãi”. Anh cười tủm,
nháy nháy để tôi hiểu “sanh hoạt” nghĩa là gì. Chị Liệp đi qua cũng ghé
vào, tố con Hai Mực là đứa ăn cháo đá bát, theo đuôi ông Luân mà coi
trời bằng vung, lau mũi chưa sạch mà đòi hỉnh mũi. Anh Liệp ra vẻ khoan
dung: “Thôi, chấp chi con nít mới lớn”. Mất một lát tôi mới hiểu “Mực”
là tên “móc nối” của Mẫn. Sáu Quỳ bận gặm cái đùi gà, chỉ lắc đầu thở
dài, chẳng biết rầu về ông Luân, cô Mẫn hay cái đùi gà dai.

Nửa giờ sau tôi mới đi thoát, mồ hôi vã ướt lưng.

Bộ
đội tới đâu phải tìm gặp cán bộ địa phương trước hết, tôi đã làm việc
với mấy chục uỷ ban xã và đội công tác, chưa bao giờ thấy khó chịu như
hôm nay. Tôi có nghe loáng thoáng về anh Tám Liệp, còn làm đội trưởng
nhưng vừa rớt chức bí thư trong đại hội chi bộ hồi đầu năm vì quá nhát
gan. Dù chẳng biết mô tê nào, tôi vẫn không muốn tin lời họ. Đây đó tôi
cũng gặp trong hàng ngũ ta một số người lưỡi dài hơn tay, nhờ khéo trốn
việc nên rảnh thân rỗi mồm, hễ tụ lại đủ cặp là bắt đầu nói xấu sau lưng
một người thứ ba, và cái tật ngồi lê đôi mách ấy có khi được đặt tên
chữ là “hội ý hội báo”, là “nhận định tình hình nội bộ”. Cuộc bôi nhọ
vừa rồi còn nặng hơn thế. Cái bộ ba kia - bộ tứ thì đúng hơn, vì chị
Liệp chủ quán hiểu hết người và việc trong đội, chi bộ - vừa cơm gà cá
gỏi vừa đánh vào lưng những đồng chí đang vào sống ra chết. Nhưng họ
ranh quá hóa dại. Họ tưởng tôi cũng tham vặt như họ và ngốc hơn họ.
Những người tồi thường hay lấy mình làm thước đo để đánh giá kẻ khác.
Trong khi nịnh anh A, đả chị B, trung lập bác C, dọa ngầm chú D, họ
không biết rằng họ đang hứng lấy sự khinh ghét của những đồng chí đáng
gọi là đồng chí... Tôi không muốn nhúng vào việc nội bộ của đội Tam Sa,
nhưng trách nhiệm buộc tôi phải nói hết với huyện ủy khi có dịp. Ý định
ấy giúp tôi nhẹ người dần trên đường về.

Chưa đến bảy giờ rưỡi tôi
đã bước vào nhà chị Bỉnh. Mẫn không đi đâu cả, ngồi ru con chị Bỉnh đợi
tôi. Thoáng một ánh gì như lo sợ trong đôi mắt đen ngửng lên, có thể là
xót xa. Tôi chỉ nói sơ rằng chỉ đến cho biết người biết nhà anh Liệp
thôi, giục Mẫn đi xuống Tam Sa.

Địch chừng đã đánh hơi có chủ lực
về, cho tàu rà và C.47 quần mãi trên cánh đồng lớn của Sáu Trân, ném đèn
dù dày như nấm mọc sau mưa. Ruộng sau lụt không còn bờ bụi gì nữa,
chúng tôi phải quàng dù hoa kín người, ngồi thụp khi máy bay vòng lại,
có khi phải đóng vai hòn đá suốt hai mươi phút. Tới một lúc đèn tắt hết,
chỉ còn chùm đốm xanh đỏ của chiếc C.47 vẽ mãi số 8 trên cao, Mẫn phóng
lên rất nhanh. Tôi không ngờ cô gái mới ôm ngực thở dốc hôm kia có thể
đi vèo vèo như vậy, như xem đường bằng bốn mắt cá chân. Nhanh quá mất.
Đi đêm đã nhiều mà tôi theo Mẫn không kịp. Pin không bấm được, trời đen,
một cơn mưa nhỏ lại nhuộm sẫm các lối mòn vừa khô xong, khi mới tối còn
trắng mờ. Cái khăn tang trên tóc Mẫn bị tấm dù trùm kín. Tôi chỉ còn
biết căng mắt nhìn hai bắp chân trắng thấp thoáng đằng trước, một thứ lộ
tiêu trời cho, và sấp ngửa đuổi theo. Được một lát thì cặp lộ tiêu ấy
biến mất, sau khi Mẫn lội qua một vũng bùn đặc. Tôi bước xuống ruộng một
lần, hai lần, buộc lòng phải bảo Mẫn chậm lại. Mẫn nói như xin lỗi:

- Ở đội công tác phải mò đêm quanh năm, tôi quen mắt quen chân...

Chân
tôi không kém ai, nhưng mắt thì chịu thua cô này hẳn rồi. Đến sông Rù
Rì chúng tôi dừng lại nghỉ. Tôi rất mừng khi Mẫn rửa chân thật sạch và
vo quần cao đến vế, rồi bỗng bật cười thành tiếng, thầm giễu mình con
nít. Mẫn cười theo:

- Thích quá anh hè. Tôi cứ sợ chiêm bao, thức dậy không còn chi hết, chao!

Lần đầu tôi nghe Mẫn cười. Một tiếng cười dè dặt như chưa dám vui quá sớm.

 

Báo cáo nội dung xấu