Phần I - Hồi 6: Bọ cạp đảo đầu bò tường
Gần
mộ huyệt khu nghĩa địa ở ngoại thành chôn giấu rất nhiều ‘lò lửa”, những lò lửa
đó đều do xác chết mục rữa phân hủy, trộn lẫn với bùn hydrocacbua dưới lòng
đất, từ đó hình thành một loại khí đốt đặc biệt. Hỗn hợp chất này bị vùi lấp
nhiều năm trong động huyệt, một khi bất ngờ được giải phóng và tiếp xúc với
không khí bên ngoài, nó sẽ sinh ra hiện tượng đốt cháy cực mạnh.
Lần
này coi như Triệu Lão Biệt gặp vận rủi, viên Lôi Công Mặc mà lão ta muốn có lại
nằm ngay giữa lò lửa tràn ngập khí hydrocacbua. Lão nhờ mọi người buộc sợi dây
thừng vào viên đá để kéo lên, vô tình đã khiến vách đất hai bên mép bị sụt lở,
hàng chuỗi cầu lửa từ trong kẽ phun lên nghe “phừng phừng”. Quả cầu lửa thiêu
đốt toàn thân khiến Triệu Lão Biệt giãy giụa quằn quại đầy đau đớn, thảm thiết
gào thét; sợi dây thừng buộc quanh người lão ta cũng bị đứt thành từng đọan, cả
người và viên đá cùng rơi tõm xuống kẽ dất sâu hun hút.
Hội
Tư Mã Khôi chứng kiến sự việc diễn ra ngoài dự liệu, liền vội vàng trườn người
xuống ngó xem tình hình bên dưới, chỉ thấy đất đá cát sỏi từ hai bên vách đất
rào rào lăn xuống, chiếc đèn kéo quân cũng rơi theo tắt ngấm, dưới đáy hố tối
như hũ nút, không nhìn thấy bất cứ thứ gì bên trong.
May
mà ở gần chỗ viên Lôi Công Mặc là sào huyệt sinh sôi nảy nở của vô vàn kén
nhộng đom đóm. Hàng ngàn vạn con đom đóm bị đánh động, bay túa ra từ gốc cỏ,
điên loạn lao lung tung khắp nơi, ánh sáng đom đóm chập chờn di chuyển khắp khe
nứt trong lòng đất. Nhờ vào màn sương ánh sáng nhàn nhạt âm u, hội Tư Mã Khôi
có thể nhìn thấy lờ mờ cảnh tượng phía dưới. Sau khi Triệu Lão Biệt bị rơi
xuống khe, lão ta nằm ở chỗ cách mặt đất khoảng ba mươi mấy mét, nơi một đụn
nham thạch thò ra chặn lại, đầu lão ta cắm xuống, chẳng rõ sống chết thế nào.
Tư
Mã Khôi ở bên trên ra sức thét gọi Triệu Lão Biệt mấy câu. Không nghe thấy
tiếng trả lời, trong lòng cậu bắt đầu cảm thấy lo lắng, nên định mạo hiểm lao
xuống cứu người.
Hải
ngọng thấy vậy vội vàng cuống quýt can ngăn: “Thằng điên này! Khe đất kia là
cái bình đất rỗng ruột đấy, bất cứ lúc nào cũng có thể bị sụt, cậu mà xuống
chắc chắn sẽ bị chôn sống dưới đó. Lưng giắt mỗi cái cào gãy mà đòi liều mạng vào
rừng săn cọp. Tớ nói cho cậu tỉnh, giờ không phải lúc giở thói anh hùng ra
đâu.”
Hạ
Cần cũng bấn loạn hết cả lên, nhưng cô nàng còn thiếu chủ kiến hơn cả Hải ngọng, chỉ biết rối rít hỏi: “Bây
giờ phải làm sao? Hay là chúng ta quay về tìm người đến giúp…”
Tuy
rằng Tư Mã Khôi cũng biết việc này vô cùng nguy hiểm, nhưng trực giác mách bảo
cậu: Triệu Lão Biệt là một nhân vật kỳ tài hiếm có, bản lĩnh rất đỗi phi phàm,
nếu lão ta phải bỏ mạng một cách lãng nhách và bất minh như vậy trong nghĩa địa
La Sư này thì quả là đáng tiếc, nên cậu không thể thấy chết mà vô tình nhắm
mắt, phẩy tay làm ngơ được. Trước mắt, việc cứu người là quan trọng, Tư Mã Khôi
không nghĩ ngợi thêm nữa, chỉ rờ rờ vào dây lưng cài vũ khí buộc chặt ở ngang
hông, trong đầu nảy ra một kế sách. Cậu lập tức bảo La Đại Hải và Hạ Cần đưa ra
dây lưng của hai người cho mình rồi để họ ở bên trên tiếp ứng, sau đó liền phi
thân bò xuống khe nứt phía dưới.
La
Đại Hải và Hạ Cần vốn định tiếp tục khuyên ngăn nhưng nhìn thấy tư thế bò xuống
hố của Tư Mã Khôi thì cả hai đều tròn mắt cứng miệng kinh ngạc. Nếu là người
bình thường, bất luận là bò lên hay bò xuống, đương nhiên đều phải “ đầu hướng
lên trên, lòng bàn chân hướng xuống dưới”, nhưng Tư Mã Khôi lại làm trái ngược
hoàn toàn, chỉ thấy cậu ta đầu chúc xuống dưới, hai gối co lại, ngón chân bám
chặt vào mép đá, hai cánh tay dang rộng đan chéo nhau nâng đỡ trọng tâm, trông
chẳng khác nào một con thạch sùng bám chặt vào bờ tường chúc đầu thong dong bò
xuống. Hai người bọn họ chưa từng nhìn thấy loại thủ pháp quái dị như thế này
trước đây, cho nên giờ cứ ngây ra, tim dường như trồi lên, đập phập phồng ngay
trên cổ họng.
Thì
ra món bản lĩnh leo vách vượt tường này của Tư Mã Khôi vốn là một tuyệt kỹ lục
lâm, được tổ tiên truyền lại, có tên “Bọ cạp đảo đầu bò tường”, hay còn gọi
“tháo ủng ngược”. Nghe nói, món “bọ cạp bò tường” này vốn là một môn trong nghệ
thuật xiếc dân gian, mà quê hương nổi tiếng nhất của bộ môn xiếc ở trung Quốc thì phải kể đến
huyện Ngô Kiều thuộc tỉnh Hà Bắc. Tại nơi này, từ ông cụ đã chín mươi chín tuổi
đến đứa trẻ mới chập chững biết đi, bất luận già trẻ gái trai, người nào người
nấy đều có vài món bí kíp nhà nghề giắt lưng, phòng khi gặp phải những năm làm
ăn khốn khó, họ liền tụ hợp nhau lại thành từng nhóm đi nơi khác, mãi nghệ mua vui
cho người để kiếm chút tiền mưu sinh. Đây là một truyền thống của người bản địa
mà đời con nối đời cha từ thuở xa xưa, chẳng ai nói được chính xác phong tục
này bắt đầu hình thành từ triều đại nào. Cách đây không lâu, ở gần khu vực Ngô
Kiều, người ta mới khai quật được một ngôi mộ cổ có từ thời Ngụy Tấn, trên vách
tường mộ có khắc một bức bích họa, trong đó mô tả các động tác biểu diễn xiếc
thời cổ đại như “rốn đội bát”, “ bọ cạp bò tường”, lửa sao băng”. Điều này
chứng tỏ những tuyệt kỹ kiểu này đã có từ xa xưa với lích sử rất lâu đời.
Tuy
nhiên trong các tạp kỹ có từ mấy trăm năm trước, môn công phu “bọ cạp đảo đầu
bò tường” đã sớm bị thất truyền, có điều nó vẫn được tiếp tục kế thừa và giữ
gìn trong hàng ngũ quân nhân trong quân đội ngày xưa, mà những kẻ nắm được bí
kíp này phần lớn đều là những đạo tặc lục lâm được triều đình chiêu an. Khi bọn
họ lẻn trộm vào doanh trại hoặc ra vào thành đều dùng chiêu thức đầu chúc ngược
xuống, hai chân ôm lấy góc tường thành, nhanh chóng bò lên trên với tốc độ như
gió cuốn. Những người nhìn thấy cảnh tượng này đều không ai không kinh ngạc,
liền đặt tên cho tư thế đó là “bọ cạp đảo đầu bò tường”.
Kỳ
thực, kỹ thuật chúc đầu leo tường trong tuyệt kỹ “bọ cạp đảo đầu bò tường” rất
thích hợp với lý thuyết về thể lực con người, chỉ có điều ít ai có đủ can đảm
thử nghiệm, thậm chí nhũng người có đầu óc bình thường ngay cả nghĩ cũng không
thể nghĩ ra tư thế quái dị đó. Tổ tiên mấy đời trước của Tư Mã Khôi từng làm
quân quan trong quân đội cuối đời Thanh, lại là nhân vật kiệt xuất trong giới
lục lâm, vốn thực sự là người có bản lĩnh “thượng thông thiên đường, hạ triệt
địa phủ” nên mới đủ khả năng khiến bí thuật này đến tận bây giờ vẫn còn truyền
nhân. Từ nhỏ, Tư Mã Khôi đã theo học “văn võ tiên sinh” và luyện được tuyệt kỹ
này, có điều hỏa hầu chưa đủ nên từ trước đến nay, cậu không dám thi triển nó
trước mặt người khác.
Lúc
này Tư Mã Khôi hít một hơi dài rồi bám chặt lấy mép vách nhanh chóng di chuyển
xuống phía dưới, chẳng mấy chốc cậu đã bò xuống bên cạnh Triệu Lão Biệt. Nhờ vào
ánh sáng lờ mờ phát ra từ từng đàn đom đóm bay lượn gần đó, cậu phát hiện miệng
và mũi lão ta đều đang chảy máu, lão nằm vật ra bất tỉnh nhân sự. Tuy rằng
chiếc áo da thú dày dặn khoác trên người coi như đã cứu lão một mạng khỏi bàn
tay tử thần, nhưng những vết bỏng loang rộng khắp cơ thể lại vô cùng nghiêm
trọng, nhưng khi thò tay ra sờ thử, cậu phát hiện trên mũi lão vẫn phập phồng
hơi thở yếu ớt, nếu kịp thời cõng lên mặt đất, không chừng vẫn còn cơ hội cứu
sống.
Tư
Mã Khôi lập tức quay ngược lại, dùng thắt lưng da buộc vào ngang hông Triệu Lão
Biệt , sợi còn lại đem nối với chiếc thắt lưng da mà mình đeo trên người, rồi
buộc lão trên lưng. May mà cơ thể Triệu Lão Biệt mỏng dẹt như thanh củi khô,
hom hem toàn da bọc xương, thêm vào đó sợi thắt lưng loại chuyên dùng cho quân
nhân khá chắc chắn, nên cậu hy vọng sẽ lôi được lão lên. Tư Mã Khôi nheo mắt
quan sát lớp đất dưới đáy khe, nó có vẻ không chắc chắn, chẳng biết sẽ sụt
xuống lúc nào, nên cậu không dám chần chừ nán lại đây thêm nữa. Trong lúc Tư Mã
Khôi đang định bò ngược trở lên theo đường cũ, đột nhiên nghe thấy Triệu Lão
Biệt rên rỉ một tiếng trong cổ họng, thì ra lão ta đã thoát khỏi hôn mê và tỉnh
lại. lão dùng chút sức lực yếu ớt gắng sức giơ tay lên chỉ xuống chỗ sâu hút ở
phía dưới khe nứt.
Tư
Mã Khôi cúi đầu xuống thấp, hướng theo chiều tay lão ta chỉ. Cậu nhìn thấy
trong tầng tầng lớp lớp ổ đom đóm giữa khe nứt, màn ánh sáng xanh mờ mờ bao
trùm lên viên Lôi Công Mặc đen bóng như ngọc. Viên thiên thạch rơi cách đó
chừng nửa mét về phía duwois, khoảng cách không xa lắm, gần như chỉ cần đưa tay
ra là có thể chạm tới.
Dường
như Triệu Lão Biệt có ý muốn Tư Mã Khôi mang viên Lôi Công Mặc lên cùng, bởi vì
khe đất sâu cả trăm mét, lớp vỏ bên ngoài và tầng nham thạch lại có thể sập
xuống bất cứ lúc nào, nó sẵn sàng chôn vùi mọi thứ dưới đáy khe rồi nêm lại
chặt cứng. Tuy toàn thân Triệu Lão Biệt đang bị thương nặng, nhưng tà niệm tham
sân si trong đầu óc lão ta còn nặng nề hơn nhiều, lão không đành lòng vứt bỏ
miếng ngọc Lôi Công Mặc ngàn năm khó gặp này dưới đáy vực sâu, nên đến giờ vẫn
còn vọng tưởng chiếm lấy nó làm của riêng.
Tư
Mã Khôi cõng Triệu Lão Biệt lên lưng, leo lên được vách đá đã thấy rất vất vả,
hơn nữa nếu trọng lực quá lớn thì lớp đất đá phía bên trong địa tầng sẽ càng lở
nhanh và rơi xuống nhiều hơn. Cậu đã nhìn thấy tình hình không ổn, lòng thầm
cân nhắc sự sống mới là điều quan trọng, nên chẳng còn tâm trạng nào để ý đến
viên Lôi Công Mặc. Nghĩ đoạn, cậu lền hít một hơi thật sâu rồi thi triển tuyệt
kỹ “bọ cạp bò tường” leo ngược lên mặt đất.
Đứng
ở bên trên chứng kiến từng mảng từng mảng đất đá lớn đang không ngừng sụt xuống,
lại thấy Tư Mã Khôi mấy lần suýt bị chôn sống dưới khe đất, La Đại Hải và Hạ
Cần không kìm được những cơn cơ tim co thắt từng hồi. Cuối cùng, khi thấy cậu
ta lên được gần mặt đất, cả hai liền vội vàng chìa tay ra, gắng hết sức kéo bật
cả Tư Mã Khôi và Triệu Lão Biệt lên. Hai
người họ vừa mới thoát thân ra khỏi miệng khe nứt thì nghe thấy một chuỗi tiếng
“ầm ầm” nổi lên, một lượng lớn đá sỏi bùn đất từ bên trên thi nhau rào rào chảy
xuống, lấp kín miệng hố. Viên Lôi Công Mặc và vô vàn con đom đóm đều bị chôn
vùi tận sâu trong lòng đất, xem ra chúng khó có ngày trở lại chốn phàm trần.
Tư
Mã Khôi lên được tới nơi thì mồ hôi đã chảy ướt đầm lưng áo, cậu ngồi phịch
xuống đất thở hổn hển, trong lúc bốc đồng, máu yêng hùng nổi lên ngùn ngụt
khiến cậu hành động mà không chút đắn đo, nhưng giờ nghĩ lại cũng cảm thấy rợn
cả tóc gáy, chỉ cần chậm một bước thôi, có lẽ giờ này cậu đã chôn thây ở dưới
khe đất kia rồi.
La
Đại Hải nhìn thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự mới thở phào nhẹ nhõm, ngoảnh mặt
sang bên cạnh nhìn thấy tình trạng của Triệu Lão Biệt, cậu ta liền phẩy tay thở
dài: “Vừa bỏng lại thương tích đầy mình thế kia, chỉ e bây giờ có đưa lão đến
bệnh viện cũng không kịp. Nhân lúc còn sớm sủa, hãy đào một cái hố chôn quách
lão xuống cho xong, không khéo lôi thôi lại vướng vào án giết người thì bọn
mình chẳng gánh vác nổi đâu.”
Tư
Mã Khôi định thần lại, nói: “Khó khăn lắm mới cứu được lão ta từ dưới đáy mồ
lên, ít ra cũng phải nghĩ cách gì cứu sống lão, trước khi ký giấy khai tử chứ.
Lão ta vẫn còn thoi thóp thở đấy, làm gì có chuyện nói chôn là chôn ngay được”.
La
Đại Hải bất lực chống chế: “Bọn mình chẳng phải bác sĩ, làm sao cứu lão được?
Không tin cậu cứ nhìn xem, cái lão Triệu này bây giờ thở ra thì mạnh, hít vào
thì yếu, nửa khuôn mặt đã bị thiêu rụi, toàn thân lùng nhùng một mớ nhầy nhụa,
chẳng mấy chốc nữa lão sẽ cất bước xuống hố nghe dế kêu cho mà xem”.
Tư
Mã Khôi đột nhiên nhớ ra một việc: “Mẹ Hạ Cần là bác sĩ trong bệnh viện quân
khu, chắc chắn con cái cũng được tôi luyện từ môi trường của gia đình, nên ít
nhiều cũng phải hiểu đôi chút về y thuật chứ?” Thế là cậu vội vã bắt Hạ Cần
nghĩ cách cấp cứu cho Triệu Lão Biệt , sau đó sẽ tìm cách đưa đi bệnh viện.
Hạ
Cần còn chưa đầy mười sáu tuổi thì làm gì có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Tuy cô nàng cũng biết đôi chút về những kiến thức y học thường thức, nhưng bây
giờ nhìn thấy Triệu Lão Biệt bê bết toàn máu, gương mặt lại bị cháy mất một
nửa, hai hàm răng chìa hết cả ra ngoài, nên trông bộ dạng vô cùng đáng sợ. Đầu
óc cô chỉ quay mòng mòng mỗi hai chữ “hoảng sợ”, thì làm gì còn nghĩ ra nổi
cách cứu chữa nào. Hơn nữa, quả đúng mẹ cô làm bác sĩ, nhưng bà lại là bác sĩ
khoa sản.
Tư
Mã Khôi thực lòng không đành nhìn Triệu Lão Biệt cứ như vậy từ giã cõi đời, nên
dù chỉ còn một tia hy vọng, cậu cũng quyết không bỏ qua. Cậu ngoan cố yêu cầu
Hạ Cần: “Bác sĩ khoa sản thì cũng vẫn là bác sĩ, cậu cóc cần phải nghĩ ngợi
nhiều thế, chỉ cần cứu ngựa chờ chết thành ngựa sống là ổn rồi; hơn nữa lão
Triệu đang nằm còng queo chờ chết đằng kia, chắc cũng chẳng thèm quan tâm bệnh
viện nhà cậu treo biển hiệu gì đâu”.
Hạ
Cần không ngỡ khước từ lời thỉnh cầu tha thiết của Tư Mã Khôi và La Đại Hải,
nên đành bạo gan đến kiểm tra tình trạng vết thương của Triệu Lão Biệt. Ngoại
trừ những vết bỏng vô cùng nghiêm trọng trên gương mặt lão ra thì xương sườn
cũng bị gẫy mất mấy đoạn, đâm rách cả nội tạng, gây nên tình trạng xuất huyết
trong, miệng lão sủi lên toàn bọt máu, hô hấp ngắt quãng từng hơi, thần trí lúc
tỉnh lúc mơ. Khu vực nghĩa địa La Sư này lại nằm ở vùng ngoại ô hoang vắng, nên
bọn họ căn bản khó có thê đưa lão đến bệnh viên được, mà cho dù có đưa tới nơi
chăng nữa, cũng chắc chắn không thể cứu sống nổi.
Hạ
Cần tất bật cứu chữa suốt một hồi, nhưng vì cô vừa không có kinh nghiệm lại
không có y cụ, nên cuối cùng cũng đành bó tay bất lực. Cô lo lắng đến nỗi nước
mắt cứ lã chã tuôn rơi.
Đúng
lúc này, cả hội chợt nghe thấy Triệu Lão Biệt ho lên mấy tiếng, dường như lão
ta vừa tỉnh lại từ cơn hôn mê sâu. La Đại Hải lại tưởng rằng Hạ Cần có bản lĩnh
cải tử hoàn sinh, liền không ngớt lời khen ngợi cô nàng y thuật cao siêu.
Nhưng
Tư Mã Khôi lại nhìn thấy Triệu Lão Biệt lúc này là hồi quang phản chiếu, tính
mạng chắc chỉ còn tính từng khắc nữa thôi, nên trong lòng không kiềm chế nổi
cảm giác u buồn dâng lên tận cổ. Cậu nhỏ giọng ân cần hỏi: “Lão Triệu ơi! Lão
còn có anh em bạn bè thân thích nào nữa không? Có muốn nhờ bọn tôi nhắn nhủ
điều gì đến họ không?”
Triệu
Lão Biệt đưa cặp mắt đờ dại nhìn Tư Mã Khôi một thoáng rồi lắc đầu, ngắt quãng
nói phều phào: “Triệu Lão Biệt mỗ… kiếp này sóng to gió lớn nào cũng từng trải
qua, chẳng ngờ lại bị lật thuyền ở con rãnh nhỏ nơi nghĩa địa La Sư này, xem ra
tất cả đều tại số mệnh, hừ… số mệnh tám thước, khó cầu một trượng, câu này quả
chẳng sai chút nào. Thế nhưng điều càng khiến mỗ bất ngờ hơn là Tư Mã đầu lĩnh
đây mới một nhúm tuổi mà có thể thi triển được tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo đầu bò
tường”. Cậu được cao nhân nào truyền dạy bản lĩnh này vậy?”
Tư
Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt có vẻ sẽ sắp đoạn khí đến nơi, trong lòng nghĩ
chẳng cần phải giấu giếm lão ta thêm điều gì nữa, liền tóm tắt cho lão nghe tất
cả lai lịch xuất thân của gia đình mình.
Triệu
Lão Biệt có đôi chút kinh ngạc, nhưng lão cũng cảm thấy mệnh mình chẳng kéo dài
được bao lâu, nên gắng gượng dùng chút sức tàn trăng trối lại: “Triệu Lão Biệt
mỗ trên đời này tứ cố vô thân. Niệm tình bằng hữu ít nhiều chúng ta từng có với
nhau, các cậu hãy giúp mỗ đưa nắm xương già này vùi ở nghĩa địa La Sư, sống
chẳng có phúc nhìn thấy Lôi Công Mặc thì sau khi chết mỗ sẽ hóa thành quỷ ở bên
cạnh nó cũng tốt vậy…” Nói đến đây, lão khẽ rùng mình mấy cái, tay chỉ xuống
phía dưới lòng đất, rồi đầu môi mấp máy một câu: “Núi đá vàng sinh ra bò vàng,
đại kiếp đến ta cưỡi mây ngàn…”
Tư
Mã Khôi hướng mắt theo tay lão chỉ, thì ra đó chính là nơi viên Lôi Công Mặc
vừa bị đất đá sụt lở chôn vùi bên dưới. Cậu lại nghe thấy mấy lời sau cùng của
Triệu Lão Biệt có phần rất cổ quái liền vội vàng quay sang hỏi: “Lão vừa nói gì
vậy?”
Nhưng
ánh mắt của Triệu Lão Biệt đột nhiên trở nên thất thần, chẳng đợi cậu nói dứt
câu, lão đã hồn lìa khỏi xác, lão ta nằm chết ngay trước mặt Tư Mã Khôi.
Hội
ba người Tư Mã Khôi tuy rằng chỉ mới quen biết Triệu Lão Biệt được ít lâu,
nhưng lại cùng trải qua cơn hoạn nạn, nay tận mắt nhìn thấy lão chết mà không
được toàn thây, nên trong lòng ai nấy không tránh khỏi cảm giác đau buồn, bùi
ngùi. Mọi người lặng lẽ ngồi bên thi thể lão một hồi khá lâu, mãi cho đến khi
thành đom đóm bay tứ tán khắp cánh đồng hoang rồi từ từ biến mất thì cả hội mới
đứng dậy dùng mấy phiến đá nhọn đào một chiếc hố nông, khiên xác lão chôn xuống
đó.
Tư
Mã Khôi thầm nghĩ trong lòng, viên Lôi Công Mặc đã bị vùi chôn ở nơi sâu nhất
dưới đáy khe, từ nay về sau e rằng người đời chẳng bao giờ còn nhìn thấy kỳ
quan “thành đom đóm” tái hiện giữa nhân gian thêm lần nữa. Cậu lại tự nhủ mình
đợi đến tết Thanh minh, nhất định sẽ quay về đây quét một cho Triệu Lão Biệt
một chuyến.
Ba
người cùng nhau cáo biệt trước nơi Triệu Lão Biệt chôn thân, rồi lững thững
quay trở lại cầu La Sư. Trên đường về, trong lòng người nào cũng nặng trĩu tâm
sự, chẳng ai nói với ai câu nào. Mãi khi đến chân cầu, La Đại Hải mới nhớ ra
một chuyện, quay sang hỏi Tư Mã Khôi : “Câu Triệu Lão Biệt nói trước khi lâm
chung có ý nghĩa gì nhỉ?”
Tư
Mã Khôi lắc đầu trả lời: “Tớ chẳng nghe rõ, đại loại là mấy lời lung tung lúc
hấp hối ấy mà”. Nói vậy nhưng trong lòng cậu vẫn đang suy nghĩ rất mông lung,
chẳng ai có thể hỏi được đáp án từ miệng người đã chết. Giờ đây, thân thế lai
lịch của Triệu Lão Biệt và cả bí mật ẩn giấu trong viên Lôi Công Mặc kia nữa,
tất cả đều trở thành một chuỗi câu đố vĩnh viễn không có lời giải.
Trong
lòng Tư Mã Khôi chất chứa bao suy tư, ngẩng đầu lên, cậu mới phát hiện lúc này
hừng đông đã lộ ra vầng trắng sáng như bụng cá. Hồi tưởng lại toàn bộ sự việc
xảy ra đêm qua, quả giống như một cơn ác mộng, cậu vươn vai một cái để co giãn
gân cốt cho bớt đau người, rồi quay sang nói với Hạ Cần: “cả đêm hôm qua cậu
không về nhà, chắc bố cậu phải lên cơn điên mất, không khéo lúc này đã điều
động cả đoàn quân đi tìm tung tích của cậu rồi cũng nên, mau về nhà đi!”
La
Đại Hải cũng vội vàng dặn với theo: “Chớ kể với bố cậu chuyện của tôi và Tư Mã
Khôi đấy, kẻo ảnh hưởng tới thanh danh trong sạch của hai đứa bọn tôi!”
Hạ
Cần lắc đầu trấn an: “Không sao đâu, tôi đã nói trước với bố sẽ ngủ qua đêm ở
nhà dì rồi”.
Hải
ngọng tủm tỉm cười: “Khôi ơi, cậu xem Hạ Cần đối xử với anh em ta tốt chưa kìa!
Cậu ấy nghe thấy bố mình nói sắp tới đây quét sạch băng đảng xã hội cặn bã rác
rưởi, liền cố tình nói dối cha mẹ đi qua đêm không về nhà, lại từ xa xôi mãi
tít trong thành chạy vội về đây mật báo cho chúng ta nữa đấy!”
Hạ
Cần lại lắc đầu, tỏ ý không phải vậy. Do dự một lát, cô nàng mới thổ lộ: “Thực
ra lần này tớ đến tìm các cậu là có một việc rất quan trọng muốn nói, nhưng sợ
sau khi các cậu biết rồi sẽ lại gây ra tai họa, cho nên bây giờ vẫn chưa quyết
định được rốt cục có nên nói hay không”
Tư
Mã Khôi và La Đại Hải vừa nghe nói liền vội vã đồng thanh hỏi xem rốt cuộc cô
nàng có chuyện gì hay ho muốn kể? Dù sao thì trong con mắt của quần chúng nhân
dân, bọn họ sinh ra vốn đã là một tai họa. Bây giờ từ trong thành đến ngoài
thành, chỗ nào có thể đập phá được thì đã đập phá cả rồi, còn tai họa gì có thể
gây ra thêm nữa? hai con người trẻ tuổi nghĩ vậy mà không hề biết rằng: “Nhân
tình thế thái mênh mang tựa biển lớn, kiếp con người nào thiếu sóng gió phong
ba”.