Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Chương 23
“Có
cho tiền tôi cũng không đến Singapore,” người đàn ông ngồi cuối quầy
bar ở toa phòng khách nói. Anh ta là thanh tra cảnh sát Malaysia, một
tín đồ Thiên Chúa giáo người Tamil tên Cedric. Anh ta say rượu một cách
thoải mái, người ta thường say như thế khi phải đi tàu và còn một hành
trình dài phía trước. Chuyến tàu này đi cả đêm đến Singapore và mọi
người trong toa ăn (người Hoa chơi mạt chược, người Ấn chơi tú lơ
khơ còn một toán công nhân lâm nghiệp và quản lý đồn điền người Anh ngồi
nói chuyện) có một vẻ thư thái như những thành viên một câu lạc bộ
Malaysia đang ngồi trong quán bar. Cedric nói rằng Singapore đã mất đi
nét quyến rũ của nó. Ở nước này giá cả đắt đỏ, còn mọi người thì thờ ơ
với khách. “Đó là một cuộc sống gấp. Tôi thấy tiếc cho các anh.”
Tôi hỏi: “Thế anh định đi đâu?”
Anh ta trả lời: “Kluang. Tôi sẽ chuyển tàu.”
Một trong những công nhân lâm nghiệp nói: “Nghe về Kluang này. Hoan hô! Hoan hô!”
Những
người khác, bạn anh ta, lờ anh ta đi. Một người đàn ông gần đó, đôi
chân khuỳnh rộng như đang đứng trên boong lái – tư thế của những người
say rượu trên tàu hỏa – nói: “Hugh bị bỏng ngón tay ở cảng Swettenham.
Ông mãnh đó nói với hắn…”
Tôi
tiến lại gần Cedric và hỏi: “Có gì hay ở Kluang không?” Kluang, một thị
trấn nhỏ ở bang Johore, là một trạm tiền tiêu đặc thù kiểu Malaysia,
với câu lạc bộ, nhà nghỉ, đồn điền cao su và một lượng công nhân lâm
nghiệp đến đó để hóa rồ trong những căn nhà nghỉ một tầng thoáng mát.
Cedric
đáp: “Có phiền phức. Nhưng đấy là lý do tôi thích nơi đó. Hiểu không,
tôi là một thằng du côn mà.” Đã xảy ra rắc rối về lao động với những
công nhân cạo mủ cao su người Tamil và tôi đồ rằng anh chàng Tamil
Cedric này được chọn đến đây vì màu da, thân hình cũng như cái giọng hăm
dọa của anh ta.
“Anh xử lý bọn gây rối thế nào?
Anh ta giơ bàn tay lông lá lên: “Tôi dùng cái này. Hoặc nếu chúng tôi có thể kết án được, thì gã đó sẽ bị phạt rotan.”
Rotan
là một cây – một ngọn roi khoảng một mét hai, dày nửa ngón tay, Cedric
nói rằng hầu hết án phạt tù đều bao gồm hình phạt đánh roi rotan. Con số
thông thường là sáu roi; một người ở Singapore gần đây bị phạt tới hai
mươi roi.
“Thế nó có để lại dấu vết không?”
“Một người Ấn Độ gần Cedric nói: “Không.”
Cedric
nói: “Có chứ.” Anh ta nghĩ một lúc rồi nhấp whisky của mình. “À thì nó
cũng tùy vào màu da của anh. Mấy gã da đen kịt thì sẹo rotan không hiện
ra. Nhưng lấy anh làm ví dụ thì nó sẽ để lại một cái sẹo to đùng trên
người.”
Tôi hỏi: “Vậy là anh quất người ta?”
Anh
ta trả lời: “Tôi thì không. Dù sao ở Singapore còn tệ hơn và người ta
cứ ra cái vẻ được văn minh hóa lắm ấy. Phải đối mặt với việc này, mọi
nước đều thế mà.”
Tôi nói: “Nhưng ở Hoa Kỳ thì không.”
Một
công nhân lâm nghiệp, người đã nghe trộm cuộc hội thoại nói xen vào:
“Cũng không có chuyện đó ở Anh. Họ bỏ hình phạt roi nhiều năm rồi.”
Cedric nói: “Có lẽ họ vẫn nên giữ nó.” Đó là một thách thức khá khó khăn.
Anh
công nhân lâm nghiệp trông có vẻ hơi chưng hửng, như thể anh ta cũng
tin vào hình phạt thể xác nhưng không muốn thừa nhận mình đồng ý với
quan điểm của một người mà anh ta khinh thị. Anh ta nói: “Điều đó là
trái luật ở Anh. ”
Tôi
hỏi nếu như đã có một giải pháp tuyệt vời như vậy, tại sao anh ta lại
được cử đến Kluang, nơi rõ ràng người ta vẫn phạt roi suốt bao nhiêu
năm?
Anh ta trả lời: “Anh chẳng biết gì cả. Nó sẽ dạy chúng bài học hay. Rầm! Rầm! Rồi chúng sẽ biết điều và im miệng.”
Vì trời đã bắt đầu tối, một số người uống rượu rời khỏi toa khách và Cedric (hét lên “Thằng nhỏ!”)
bảo một cậu Tamil phục vụ quầy mở cửa sổ. Anh ta tuân lệnh và trong
bóng tối, ngay phía trên tiếng ầm ầm của bánh xe tàu hỏa có những tiếng
líu ríu, giống như tiếng những bong bóng nổ nhanh chóng được khuếch đại;
và giọng rền rĩ, thứ giọng líu lo rung rung gần như tiếng răng rắc
trong điện thoại đường dài và dế trốn trong đầm lầy mênh mông, đầm lầy
đang bóp nghẹt tiếng huyên náo của chúng.
Cedric
uống nốt chầu của mình và nói, “Bao giờ anh đến Kluang thì gọi cho tôi
một cú nhé. Tôi sẽ xem có thể sắp xếp gì cho anh.” Rồi anh ta loạng
choạng bước ra.
Một
trong những công nhân lâm nghiệp gọi người phục vụ: “Peeraswamy, cho
mỗi quý ông ở đây một chai Anchor to và xem có kiếm cho tao được một
chầu whisky không.”
Một trong số họ nói, sau khi nhìn quanh toa khách: “ Có ai đó vắng mặt ở đây. Nói tao xem là ai – không có thưởng nhé.”
Một
người khác nói: “Hench! Hắn thường đứng ngay gần cái cột. Hắn thường
nói ‘Quyến rũ nhỉ.’ Chúa ơi, giá mà thằng đó có thể uống được!”
“Không có Hench thì chẳng như xưa nữa.”
“Mày có nghe được gì từ hắn không?”
“Rafe vẫn liên lạc với hắn mà.”
Rafe nói, “Không. Tao chỉ nghe một số chuyện thôi. Chúng mày biết những chuyện đó mà.”
Một người nói, khi đang rót bia vào cốc, “Có ai đó nói rằng nó bị mù. Chúc vui vẻ, Boyce.” Anh ta nói và uống.
Boyce trả lời, “Chúc mọi điều tốt đẹp.”
Rafe nói: “Tao chẳng bao giờ tin chuyện đó ”
Người thứ ba nói: “Rồi bọn tao nghe rằng hắn đã chết.”
“Có phải mày bảo hắn đi Úc phải không, Frank?”
Boyce đáp: “Thế thì còn tệ hơn là chết.”
Frank nói: “Chúc vui vẻ, Boyce. Không, tao chưa bao giờ nghe như thế. Thực ra tao nghĩ hắn đang ở đâu đó ở Liên bang.”
Rafe
nói, “Việc đó làm tao nhớ ra có một gã ở trong đồn điền cứ nghĩ rằng
hắn sắp bị mù. Cái tay người Ireland này chắc chắn mắc bệnh tưởng, hắn
luôn kéo má xuống để chỉ cho người ta xem nhãn cầu khủng khiếp của hắn.
Thật là kinh tởm, nhưng mọi người trêu đùa hắn. Dù sao, hắn cũng đi gặp
một chuyên gia ở Singapore. Hắn quay về đầy giận dữ. Bọn tao hỏi ‘Sao
thế, Paddy?’ Và hắn đáp: ‘Thằng cha lang băm ấy chẳng biết tí gì về bệnh
tăng nhãn áp!’”
Boyce xen vào: “Nghe như thằng Frogget ấy nhỉ.
Frank nói: “Cảm ơn nhiều.”
Boyce nói, “Mày kể cho Rafe nghe về bệnh tiểu đường của mày đi.”
Frank
phàn nàn, “Tao chưa bao giờ nói tao bị,” rồi anh ta nói với Rafe, “Tao
chỉ nói là có thể thế. Một trong những triệu chứng của tiểu đường - tao
đọc điều này ở đâu đó – là nếu như mày tè rớt ra giày và những chấm nước
biến thành màu trắng thì mày gặp rắc rối rồi.”
“Tao nghĩ tao gặp rắc rối rồi,” Boyce nói và gác chân lên trên quầy.
Frank nói, “Vui thế nhỉ.”
Rafe
hỏi: “Bọn mình đang ở đâu nhỉ?” Anh ta ngả người về phía cửa sổ. “Tao
chẳng nhìn thấy gì cả. Peerswamy, ga tới là gì? À, trong lúc mày đứng
đấy thì mang hai chai bia với một chầu whisky nữa cho ông già tao ở
đây.”
Boyce bảo: “Tao uống nốt chầu này thôi đấy. Tao trả tiền giường nằm rồi và tao sẽ đi ngủ bây giờ đây.”
“Sắp tới là Seremban,” Peeraswamy đáp, mở hai chai bia và dốc whisky vào một cái cốc.
Rafe
nói: “Chúa ơi, tao nhớ Hench. Hắn đã đợi cơ hội để có thể đi. Tao chẳng
bao giờ biết điều đó. Tao hy vọng là hắn không chết.”
“Thôi, tao té đây,” Frank nói và nhấc chai bia lên, anh ta nói thêm, “Tao sẽ cầm theo chai này. Giá mà tao có một cô.”
Khi anh ta đã đi, Boyce nói: “Tao lo về Frogget.”
“Cái vụ nhảy dựng lên vì tiểu đường ấy à?”
“Chỉ
một phần thôi. Hắn bắt đầu cư xử như Hench ngay trước khi hắn biến mất.
Mày có thể nói đấy là kiểu giấu giếm. Thỉnh thoảng lại nhắc đến Úc –
mày thấy hắn nói gì đấy. Hắn đáng nghi quá.”
Còi
tàu rúc khi tới Seremban, làm lũ côn trùng nín lặng. Rafe quay sang
tôi, “Tôi thấy anh nói chuyện với gã Ấn Độ đó. Đừng để hắn khiến anh lo
lắng. Thực ra, nếu tôi là anh tôi sẽ chia mọi thứ hắn nói ra làm mười
phần. Chúc ngủ ngon.”
Rồi
chỉ còn tôi tại quầy bar của chuyến tàu đêm tốc hành Ngôi sao Phương
Bắc. Ở cuối toa đám chơi mạt chược vẫn còn tiếp tục, những tấm rèm phất
phơ khi chúng tôi rời Seremban. Một vài con côn trùng đã bay vào qua cửa
sổ, kết bầy xung quanh các bóng đèn và đuổi nhau trong những vòng xoắn
ốc chóng mặt.
Peeraswamy hỏi: “Singapore à?”
Tôi nói đúng rồi, đó là nơi tôi đang đi tới.
“Năm
ngoái tôi đã ở Singapore.” Anh ta nói mình xuống đó để dự lễ hội
Thaipusam. Anh ta đã mang một gánh lễ - kavadi. Thaipusam, một lễ hội
của người Tamil, đã bị cấm ở Ấn Độ. Ở Singapore thì lễ hội này được
khuyến khích để phục vụ du khách, những người chụp ảnh đám người Tamil
mê loạn diễu hành đến đường Tank với những cái xiên kim loại chọc qua má
và cánh tay. Những người Tamil gặp nhau ở một ngôi đền đặc biệt vào
buổi sáng, sau khi xiên những que dài qua người và treo khắp cơ thể
những quả chanh bằng móc câu cá thì họ sẽ khiêng những bàn thờ khổng lồ
bằng gỗ trên đầu đi khoảng ba ki lô mét đến một đền thờ khác. Tôi thấy
thú vị là Peeraswamy đã làm việc này; và tôi hỏi anh ta về chuyện đó.
“Tôi
có mười sáu - một, sáu - anh gọi những cái đó là gì, dao à – cắm vào
người. Ở đây, ở đây, ở dây. Một cái xuyên qua lưỡi. Rồi những cái móc ở
đầu gối và ở trên đây, trên vai tôi.
Tôi
làm điều này vì vợ đã có mang, và tôi lo lắng. Tôi cầu nguyện - cầu
nguyện vì việc này và đẻ được con trai luôn, nên tôi cảm tạ Chúa trời
Murugam, anh em của Subramaniam. Tôi càng cầu nguyện nhiều hơn. Chúng
tôi không được ngủ trên giường, không được ngủ trên gối. Chỉ có thể ngủ
trên sàn suốt tận hai tuần. Rồi một tuần trước đó, chúng tôi không ăn
thịt, chỉ uống sữa, ăn chuối và hoa quả. Tôi đến đền thờ. Những ngời
khác ở đó nữa, có thể một hay hai trăm người gì đó. Tôi cầu nguyện rồi
thì đi tắm. Thầy đạo đến và chúng tôi hát – ngài ấy chỉ cho tôi cách
ngài ấy hát thế nào, ngài vỗ tay vào cằm, ngài trợn mắt và giật giật cái
cái đầu - sau khi hát hò, chúng tôi cầu nguyện, Thánh thần nhập vào!
Chúng tôi cuống lên, không đợi được nữa Thầy đạo kéo lưỡi ra và nhập!
Nhập vào với dao, nhập vào với những cái móc - không có máu chảy từ dao,
không đau - càng không thể giết tôi được! Tôi không để ý nữa! Bài hát
tới và thánh thần tới, chúng tôi không biết gì nữa. Chúng tôi muốn đi ra
ngoài, không muốn dừng lại. Người ta cắm vào dao, móc, gì nữa, còn
chúng tôi cứ đi thôi.
“Đám
đông đi theo - nhiều người lắm. Giao thông ngừng lại - tất cả ô tô cho
chúng tôi đi qua – còn vợ và em gái tôi cứ cầu nguyện, cầu nguyện, rồi
thánh thần nhập vào họ và họ ngất đi. Tôi không thấy gì cả. Tôi đi
nhanh, gần như chạy xuống đường Serangoon, đường Orchard, đường Tank và
vòng quanh đền thờ ba lần. Thầy dạo ở đó. Ngài cầu nguyện, trát phấn vào
mặt và rũ bỏ cái đã nhập vào tôi ra khỏi thân thể tôi. Chúng tôi chẳng
biết gì cả - chỉ ngất đi trong đền thờ.”
Peeraswamy
hết cả hơi. Anh cười. Tôi mua cho anh ta một chai Green-Spot rồi đi về
khoang của mình, ngã đập vai xuống hành lang vì tàu đi nhanh quá.
Tôi
dậy sớm để lên ban công ngắm đường vượt từ Johore Bahru cắt qua. Nhưng
tôi gặp hai người đàn ông ở hành lang, họ cản bước tôi lại và đòi xem hộ
chiếu. Một người tự xưng: “Cảnh sát xuất nhập cảnh Singapore đây.”
Người kia nói: “Tóc anh hơi óa rài!”
Tôi
đáp: “Còn tóc anh thì hơi ngắn,” thấy rằng thái độ xấc xược của anh ta
đáng phải nhận lại thái độ này. Nhưng theo luật Singapore thì những cảnh
sát xuất nhập cảnh có quyền từ chối cho tôi nhập cảnh nếu họ nghĩ rằng
đầu tóc tôi luộm thuộm. Cảnh sát Singapore, vốn chẳng có tác động gì đến
bọn tham nhũng và đám sát nhân thuộc những hội kín người Hoa, có một
thói quen là khiêng những thanh niên tóc dài như khiêng lợn về đồn cảnh
sát ở đường Orchard để cạo đầu.
“Anh có bao nhiêu tiền?”
“Cũng đủ,” tôi nói. Giờ thì tàu đang ở trên đường vượt và tôi háo hức muốn nhìn eo biển Johore.
“Số lượng chính xác.”
“Sáu trăm đô la.”
“Tiền Singapore?”
“Tiền Mỹ.”
“Đưa ra.”
Sau
khi đếm từng đồng đô la thì họ đưa cho tôi thị thực nhập cảnh. Nhưng
tôi đã lỡ đường vượt rồi. Tàu Ngôi Sao Phương Bắc đang lăn bánh qua một
khu đầm lầy rậm rạp phía Bắc hòn đảo để tới đường Jurong. Tôi gắn con
đường với món nợ: năm năm trước, tôi lái xe xuống đường này vào các buổi
sáng để đưa vợ đi làm. Lúc chúng tôi rời nhà trời luôn mát mẻ, nhưng
rất nhanh, mặt trời mọc hun nóng hòn đảo lên tới ba nhăm độ C khi tôi và
con trai (đang say xe trong cái ghế bằng liễu gai của nó) quay
về - cu cậu về với bà vú em, tôi thì về với cuốn tiểu thuyết châu Phi
còn dang dở. Thật lạ lùng, khi đi ngang qua hòn đảo, ký ức lại được xới
lên bởi những mùi chua chua của khu chợ gần vòng xuyến Bukit Timah và
hình ảnh những thực vật nhiệt đới tôi thích – những cây cọ bên đường ray
gọi là pinang rajah, những chùm lá mượt chụm lại ở trên chóp giống
chiếc dù bạt ngày hội, những đám cây phun ra chùm lông xanh từ những chỗ
nẻ, và trên mọi thân cây cổ thụ ở Singapore có những trang sức tươi tốt
gọi là “lá ma” mang lại sức sống cho những cây già cỗi nhất. Tôi cảm
thấy Singapore thật thân thương - làm sao tôi có thể cảm thấy khác về
nơi mà một trong những đứa con tôi chào đời, nơi tôi viết ba cuốn sách
và tự giải thoát mình khỏi công việc đi dạy buồn tẻ? Cuộc đời tôi đã bắt
đầu ở đây. Giờ chúng tôi đang đi qua Queenstown, nơi Anne đã dạy vở
Macbeth ở những lớp học đêm; Bệnh viện Đa khoa đường Outram, tôi đã chữa
bệnh xuất huyết ở đó; và hòn đảo trong cảng - ở đằng kia, qua rặng cây –
nơi mà vào nhiều buổi đi chơi Chủ nhật, chúng tôi đã bị kẹt trong cơn
bão khủng khiếp, nhìn thấy một con rắn độc to và gặp một cái thây người
già (“Đừng để các con nhìn thấy”), nổi xoay tròn trong cơn gió như một món đồ chơi bãi biển.
Nhà
ga Singapore đã được lên kế hoạch phá bỏ vì trụ bằng đá granite của nó
thể hiện hình ảnh bốn người đàn ông lực lưỡng đứng trong các tư thế thể
hiện “ Nông nghiệp”, “Thương mại”, “Công nghiệp” và “Vận tải” được cho
là đã lỗi thời, cũng như tấm biển đá trên đường ghi “ĐƯỜNG SẮT LIÊN BANG
MALAYSIA”, Singapore nghĩ về mình như một hòn đảo hiện đại ở giữa vùng
lạc hậu của châu Á và nhiều người đến thăm đã khẳng định điều này bằng
cách chụp hình các khách sạn, các khu căn hộ mới trông giống những cái
máy hát tự động hay những cái tủ kéo được nhét đầy. Về chính trị,
Singapore cũng còn nguyên thủy như Burundi, với các đạo luật hà khắc,
với những tay chỉ điểm được trả tiền, một chính phủ độc tài và nhà tù
thì đầy ắp tù nhân chính trị. Về xã hội, nó như vùng nông thôn Ấn Độ với
các hộ gia đình phải lụy đến những bà thợ giặt, những bà vú, người làm
vườn, đầu bếp và những anh đầy tớ. Trong nhà máy, công nhân - cũng giống
như bất kỳ ai khác ở Singapore, bị cấm bãi công - bị trả lương thấp.
Truyền thông đại chúng thì chán ngắt chán ngơ vì chế độ kiểm duyệt nặng
nề. Singapore là một hòn đảo nhỏ, khoảng bảy trăm ki lô mét vuông khi
triều xuống, và dù chính phủ gọi đất nước mình một cách hoành tráng là
“nước Cộng hòa”, thì trong ý niệm của người châu Á, thì nó chỉ hơn một
bãi cát chút xíu nhưng là một bãi cát giàu lên nhờ đầu tư nước ngoài (người Singapore là những thợ lắp ráp đồ gia dụng tốt nhất)
và nhờ chiến tranh Việt Nam. Do diện tích nhỏ nên việc quản lý hòn đảo
này dễ dàng: nhập cư được kiểm soát nghiêm ngặt, kế hoạch hóa gia đình
áp dụng khắp nơi, không ai được vào học đại học cho tới khi anh ta trải
qua việc kiểm tra an ninh để chứng tỏ anh ta rõ ràng là một người nhu
mì, người Hoa (từ Mỹ, Hồng Kông và Đài Loan) được khuyến khích
đến định cư trong khi những người khác thì được khuyến khích rời đi.
Cảnh sát ở Singapore được giao những công việc xưa cũ nhất; tòa án thì
đầy rẫy tội phạm mắc những tội khó xảy ra nhất. Liệu có ở nước nào trên
thế giới mà người ta lại thấy những mẩu tin này trên báo.
Mười một nhà thầu, ba chủ hộ và một chủ ki ốt bán xăng ngày hôm qua đã bị phạt tổng cộng 6.035 đô la vì tội để cho muỗi sinh nở.
Tan Teck Sen, 20 tuổi, thất nghiệp, bị phạt vì hét lên ở sảnh của Khách sạn Cockpit ngày hôm qua.
Hôm qua, bốn người bị phạt 750 đô la theo Luật Tiêu diệt côn trùng mang bệnh vì đã để cho côn trùng sinh nở.
Sulaimen Mohammed bị phạt 30 đô la ngày hôm qua vì đã vứt một mẩu giấy xuống cống tại cây số 15 ½, đường Woodlands.
Bảy
hay tám năm không phải là một án phạt hiếm gặp cho một tội danh chính
trị, còn các tội danh hình sự thì thường kèm theo hình phạt roi. Một
người nước ngoài có thể bị trục xuất vì có mái tóc dài và bất cứ ai có
thể bị phạt tới năm trăm đô la vì khạc nhổ hoặc vứt giấy xuống đất. Về
cơ bản, những luật này được thông qua để câu kéo du khách tới Singapore,
và nếu tin tức Singapore sạch sẽ và có kỷ cương được biết tới thì người
Mỹ sẽ muốn đến lập các nhà máy và thuê những công nhân không bãi công
người Singapore. Chính phủ nhấn mạnh việc kiểm soát, nhưng ở một nơi nhỏ
bé như thế này thì không khó để kiểm soát được.
Đây
là một xã hội mà báo chí bị kiểm duyệt, không được phép chỉ trích chính
phủ; nơi mà truyền hình là một món trộn dịu nhẹ giữa những chương trình
đố vui, chương trình hài kịch tình huống kiểu Anh kiểu Mỹ và các chương
trình ái quốc; nơi mà thư tín bị lục lọi và các ngân hàng buộc phải
công bố tài khoản cá nhân của khách hàng. Đó là một xã hội, theo nghĩa
đen, không có chỗ cho sự riêng tư và là nơi chính phủ có quyền kiểm soát
tuyệt đối. Ý tưởng của người Singapore về tiến bộ kỹ thuật như sau:
Bạn
sẽ thích được sống như thế nào trong một nước Singapore tương lai nơi
mà thư và báo được chuyển đến nhà bạn theo đường điện tử qua những bức
fax “được in ra”?
Nghe
cứ như chuyện viễn tưởng, nhưng theo lời Quyền Tổng giám đốc ủy ban
Điện thoại Singapore, ông Frank Loh, điều này “không lâu nữa sẽ trở
thành hiện thực.”
Ông
nói, “Những tiến bộ trong ngành viễn thông đã được áp dụng sâu rộng để
có thể thay đổi phương thức sống của chúng ta. Những khái niệm như
‘thành phố điện tín mà ở đó một đường dây cáp duy nhất được nối tới từng
nhà hoặc từng văn phòng nhằm giải quyết tất cả các nhu cầu liên lạc sẽ
sớm được đưa vào thực tiễn.”
Ông
Loh, trong khi phát biểu về “Liên lạc Điện thoại tại cuộc hội thảo của
các Học viện Kỹ thuật Singapore-Malaysia, đã nêu chi tiết những diễn
biến thú vị sẽ có trong tương lai.
Ông
nói, “Hãy tưởng tượng, tại trung tâm liên lạc của nhà bạn, thư và báo
có thể được chuyển đến bằng đường điện tử thông qua những bản fax ‘được
in ra’”.
(Starait Times, ngày 20/11 /1973).
Điều
làm tôi ngạc nhiên là với tư cách một công nghệ hạn chế tự do, trong
một xã hội, vụ lợi ích kinh doanh của phương Tây, nơi phụ thuộc vào
thiện chí của những bà thợ giặt và sự hèn nhát của đám sinh viên, thì
công nghệ này lại hữu dụng cho mọi chương trình và chiến dịch. Trong một
“thành phố điện tín” bạn không cần những khoảng tường để treo các khẩu
hiệu “SINGAPORE MUỐN GIA ĐÌNH ÍT CON”, “NHIỆT TÌNH HƯỞNG ỨNG THỂ THAO”
và “HÃY BÁO CHO CHÚNG TÔI BẤT CỨ NGHI NGỜ NÀO": chỉ cần nhồi những thông
tin này vào đường điện tín rồi gửi tới mọi nhà.
Nhưng
đó không phải là tất cả Singapore. Nó có một phần khác, mà gần đây đã
thu hẹp lại so với trước, nơi cuộc sống tiếp tục diễn ra vô định mà
không bị cảnh sát hay Bộ Công nghệ ngăn cản. Ở phần này có dày đặc những
quầy bar, có những người kỷ niệm ngày thứ Bảy bằng một buổi trưa với
món cà ri và uống bia suốt buổi chiều, nói rằng “Singapore là một cái lò
sát sinh - tao sẽ đi Úc”, hoặc là “Chỉ có may mắn thì mày mới thoát
khỏi đây được.” Ở phần này, Singapore là nơi hầu như tất cả mọi người
đều nói đến việc bỏ đi, nhưng chẳng ai đi, cứ như thể lúc đi họ sẽ phải
chịu trách nhiệm về tất cả những năm tháng trống rỗng, lãng phí khi chơi
máy đánh bạc ở Câu lạc bộ Bơi lội, ký giấy biên nợ ở Nhà Nhân sự,
nghịch cốc cà phê và chờ đợi một lá thư tới. Ở phần này vẫn có một vài
nhà chứa, những tiệm mát xa, những quán cà phê khách quen được giảm giá,
có quạt máy thay vì điều hòa không khí, và một số quán bar có mái hiên
nơi mà vào buổi tối một nhóm người uống rượu có thể tiêu khiển nửa tiếng
một lần - theo dõi một con tắc kè béo ngấu nghiến miếng xúc xích ruồi.
Chính
cái con tắc kè trên tường ấy đã khuấy động suy ngẫm khiến tôi bỏ đi.
Tôi đang ở Nhà Ăn, căn nhà cao thoáng gió trên một ngọn đồi rợp bóng cây
và tôi nhận ra là mình đã ngắm con tăc kè trên tường đến mười lăm phút
hoặc hơn. Đó là thói quen cũ, bắt nguồn từ sự nhàm chán. Như thể tôi đã ở
Singapore từ rất lâu rồi, khi tôi còn trẻ và chưa biết điều gì, khi tôi
quay lại nơi này lần thứ hai, sau hai năm vắng mặt, tôi đã có một hình
ảnh lờ mờ về con người khác này. Khi xa cách, người ta có thể ôm giữ
niềm hạnh phúc tưởng tượng cũ xưa – thời thơ ấu hay những ngày đến
trường - rồi bạn quay lại với khung cảnh ngày trước, sau nhiều năm tháng
trôi đi, bạn cay đắng nhận ra mình đã bất hạnh thế nào. Tôi đã từng cảm
thấy mình bị kẹt ở Singapore; tôi cảm giác như thể mình bị hủy diệt bởi
tiếng ồn - tiếng búa, giao thông, đài phát thanh, tiếng la hét – và tôi
khám phá ra rằng hầu hết người Singapore đều thô lỗ, hiếu chiến, hèn
nhát, thiếu mến khách, mang đầy những nỗi sợ mơ hồ về sắc tộc và dễ dàng
bị sai khiến bởi bất cứ chính quyền độc đoán nào. Tôi cho rằng đấy là
một nơi ghê tởm: rất nhiều sinh viên của tôi cũng nghĩ như vậy, họ không
thể hiểu được rằng có ai đó lại sẵn sàng ở lại đây. Cuối cùng tôi ra đi
và trong lần quay lại này, khi ngắm con tắc kè, tôi không thể tưởng
tượng nổi tại sao mình có thể ở đây tới ba năm; có thể đó chính là sự
chần chừ giả tạo mà tôi gọi là kiên trì; hoặc có thể là vì tôi thiếu
tiền. Tôi chỉ chắc chắn rằng sẽ không lặp lại sai lầm đó lần nữa, vì thế
nên sau khi gặp một vài người bạn - họ đều nói rằng họ đang chuẩn bị
rời khỏi đây sớm - tôi mua vé máy bay ngay. Ngày trước hôm đó, tôi đến
một câu lạc bộ mà mình từng là thành viên.
Thư
ký của câu lạc bộ này là một người đàn ông hống hách với điệu cười điên
khùng, nhưng lão ta đã ở Singapore từ những năm 1930. Người ta nói lão
ta thực sự là một lão làng ở đây. Tôi hỏi về lão. Người đàn ông đứng bar
hỏi: “Ông là bạn của ông ta à?” Tôi nói rằng tôi biết lão. “Tôi mà là
ông thì tôi sẽ giữ im lặng. Tháng trước lão ấy đã cuốn gói với một trăm
tám mươi nghìn đô la của câu lạc bộ. Giống như tôi – giống như mọi người
tôi biết ở Singapore. Lão chỉ đợi có cơ hội là chuồn.