Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Chương 16 (Phần 2)
“Đó
là ngày hôm qua. Tôi không quay lại Bangalore. Tôi mua một vé đến
Calcutta. Tôi sẽ đi – sẽ bay tới Bangkok. Nếu tôi không gặp Swami có lẽ
bây giờ tôi đã kết hôn, hoặc chí ít cũng đã hứa hôn – cũng thế cả mà. Cô
ấy là một cô gái tốt, nhưng tôi hẳn là có nghiệp chướng và tôi không có
nốt ruồi trên dương vật. Tôi xem rồi.”
“Cho tôi xin cái chai,” anh ta nói. Anh ta làm một ngụm rồi lại nói, “Đừng bao giờ quay lại xem một thầy bói tay.”
Từ
Berhampur và Khurda chúng tôi đến Cuttack, nơi có những đứa trẻ nhảy
xuống sông, ngụp lặn xung quanh những con trâu đang ngâm mình đến tận lỗ
mũi trên dòng Mahadani mênh mông. Đây là góc Đông Bắc Orrissa, thủ đô
của bệnh đậu mùa trên thế giới – Balasore, chính cái tên này gọi đến một
thứ bệnh dịch gây ngứa ngáy. Biển báo tại ga tàu giống như phụ đề
thuyết minh những hình ảnh tôi thấy từ trên tàu: Tuleswar, một phụ nữ
đội trên đầu một bình đất nung đựng nước, mang theo những dịch bệnh đến
một ngôi làng xa; Duntan, một người Bengal đang ngồi phóng uế trong tư
thế như bức tượng Người suy tưởng của Rodin; Kharagpur, một người đàn
ông vặn đuôi con trâu để nó đi nhanh hơn; Panskura, một đám trẻ con mặc
đồng phục chạy dọc đường ray về khu ổ chuột của chúng để ăn trưa; và tới
những khoảng sân ga có tường bao chật ních ở Budge-Budge, hình ảnh
thương tâm đầu tiên đập vào mắt tôi là một ông già dắt một cậu bé đi qua
sân ga lổn nhổn đá vụn, ông già mù có khuôn mặt hiểm độc siết chặt tay
một đứa trẻ sợ hãi đang dẫn đường cho ông ta.
Hành
khách trên tàu thư vận Howrah có vẻ mặt nghiêm nghị đầy mệt mỏi. Họ
không để ý chút nào tới đám bán rong xuất hiện ngày càng nhiều khi tới
gần Calcutta, đám này lên tàu tại những ga ngoại ô, làm xiếc trên những
toa tàu mở cửa. Một người đàn ông lên tàu với một ấm trà và giữ thăng
bằng cho mớ chén gốm xếp trên cánh tay anh ta. Anh ta nói những lời đinh
tai, mời mọc hành khách uống trà, đung đưa cái ấm trước mặt từng người,
rồi lại phải xuống tàu: không bán được chút nào. Tiếp sau anh ta là một
người đàn ông với một hũ kẹo và một cái thìa. Anh này lấy thìa gõ vào
hũ kẹo và bắt đầu rao bằng một giọng đều đều. Cái hũ được chìa đến tận
từng người, anh này vẫn tiếp tục nện cái thìa cứ thế cho đến cửa toa,
khi một người khác tiến vào với một khay bút máy. Anh ta lảm nhảm, trong
lúc đó thì biểu diễn cái nắp bút được vặn ra thế nào, cái ngòi được
nhúng ra sao, cách ruột bút hoạt động thế nào; anh ta xoay cái bút và
giữ nó cho mọi người xem; anh ta làm mọi thứ trừ việc dùng nó để viết và
khi kết thúc anh ta lại bỏ đi, không bán được cái gì. Lại thêm những
thứ nữa được rao trên tàu: bánh bao, lạc rang, lược nhựa, dây dù, những
cuốn sách bẩn; chẳng ai bán được món nào.
Tại
một số ga, người Ấn Độ trèo qua cửa sổ vào chỗ ngồi, nhưng khi chỗ ngồi
đã hết thì họ lại dồn nhau ở cửa, chỉ có bám vào toa tàu một cách mong
manh. Họ treo lủng lẳng trên trần với những sợi dây, dồn nhau vào thành
toa như những đống củi, chen chúc nhau trên ghế, ép sát đầu gối vào
nhau; và bên ngoài tàu thư vận Howrah, họ nhanh nhẹn bám vào thành toa
tàu cứ như thể bị nam châm hút vào.
Gần
ga Howrah, những đám người Bihar từ những bậc bến nước nhảy xuống dòng
sông Hooghly nhầy nhụa mà họ cho là linh thiêng. Lễ hội của họ, Chhat,
làm Calcutta sôi động hẳn lên và đây là dịp để những người Bihar thể
hiện sức mạnh của họ với những người Bengal. Trong khi đó người Bengal
với lễ hội Kali riêng của họ đã làm chật kín nhiều con phố lẫn căn phòng
khủng khiếp, tức là điện thờ Kali: một bức tượng nữ thần to gấp đôi
người thường với đôi mắt trợn trừng, chuỗi đầu lâu ngưới quấn quanh cổ,
lưỡi thè ra đỏ tươi như một que kem dâu và chân giẫm lên cái xác tả tơi
thê thảm của chồng nữ thần. Đằng sau tượng Kali, các bức phù điêu thạch
cao thể hiện bốn người đàn ông bị đọa đày, người đầu tiên bị đóng xuyên
qua một ngọn giáo đầy máu me, người thứ hai bị một bộ xương siết cổ,
người thứ ba bị một mụ phù thủy đánh nằm bẹp ra trong khi mụ này cũng
đang chặt đầu người thứ tư. Đây là một thách thức đối với người Bihar,
những đoàn diễu hành của họ có những kiệu thờ di động cao phủ vải vàng,
những xe đẩy chở phụ nữ ngồi giữa một đống chuối cúng, trông rất ngoan
đạo và vài nhóm nhỏ những người ăn mặc cải trang như người khác giới
nhảy múa theo tiếng kèn trống.
“Những
người Bihar đây rồi, họ đến để ném chuối xuống dòng Hooghly,” ông
Chatterjee, người ngồi trên toa riêng nói. Là một người Bengal, ông
Chatterjee không chắc lắm về mục đích của lễ hội Chhat, nhưng nghĩ có
thể nó liên quan đến mùa màng. Tôi nói tôi không nghĩ rằng mùa vụ ở
Calcutta là lớn lắm. Ông đồng ý, nhưng nói rằng những người Bihar tận
hưởng cơ hội một năm mới có một lần để gầm ghè với việc làm ăn của người
Bengal. Ở đầu tất cả các đoàn tàu diễu hành là một cậu bé đen nhẻm cười
toe toét, ăn vận như con gái, cổ tay múa những động tác giật cục và
“cái giống” của cậu ta trong cái váy sari đó cứ chỉa lên trời, vung qua
vẩy lại. Hết lần này đến lần khác, các bé gái (có thể cũng là con trai) đằng sau cậu bé đi đầu phủ phục quỳ mọp xuống tận mặt phố ngập ngụa rác rưởi.
Đám
đông cuồng tín, sự thiêng liêng mà nhặng xị, những tạp âm nhưng lại
chính thống: mọi thứ ở trong cuộc sống ở Ấn Độ dường như vượt qua mọi
quy chuẩn, thậm chí cả chính trị cũng có hơi hướng puja[1]. Trong khi
các lễ hội tôn giáo này đi theo một cách thống thiết riêng, thì Trung
tâm Đoàn kết Xã hội đã tổ chức một kỳ nghỉ làm – gọi là bundh – và các
lần tập hợp của họ tại các khu đất trống – gọi là maidan – với cờ quạt
và biểu ngữ, diễu hành và diễn văn, trên thực tế không thể phân biệt
được hình ảnh của các cuộc họp đạo lớn trên những vỉa hè của
Chowringhee, hay tại các bến nước đầy bùn đất. Khía cạnh này của
Calcutta là những ấn tượng đầu tiên để lại cho du khách, nhưng ấn tượng
lâu dài hơn là một bầu không khí náo động có tổ chức, mọi người đều bận
rộn thực hiện một chương trình nào đó, nhiều tới mức người ta có thể
thấy hàng nghìn người đồng loại ngồi hoặc đứng trên vỉa hè – gọi là đồng
loạt vì không gian rất chật chội, đều có cái vẻ của những người biểu
tình phi vũ lực đang tiến hành một buổi biểu tình kiên trì vì chân lý –
gọi là satyagraha – suốt một buổi chiều dài. Tôi tưởng tượng ra một nhóm
khác bằng những hình dung lờ mờ, khi tôi đọc trên một tờ báo của
Calcutta rằng “Các nhà lãnh đạo cánh tả quyết định sử dụng biện pháp
biểu tình ngồi tập thể...”
[1] Sử dụng bái theo kiểu Ấn.
Nhìn
từ bên ngoài, nhà ga Howrah trông như một văn phòng, với các ngọn tháp
không hoàn toàn vuông vắn, rất nhiều đồng hồ - mỗi cái theo một múi giờ
khác nhau – và những bức tường gạch kín đáo. Các tòa nhà kiểu Anh xây ở
Ấn Độ cứ như chúng đang phải chống lại một cuộc bao vây – có các chốt
công sự, các ụ súng thần công và tháp canh kể cả ở nhưng công trình
chẳng có vẻ gì là sẽ bị tấn công. Vì vậy nhà ga Howrah giống như một
phiên bản dạng pháo đài của một văn phòng quanh co khổng lồ, tạo ra ấn
tượng rằng chỉ khi mua vé tàu ở đây mới chắc được rằng đây là ga tàu.
Nhưng phía bên trong nhà ga thì lại cao và đầy khói bởi các đống lửa do
những người sử dụng nhà ga đốt; trần nhà đen ngòm, sàn ẩm ướt, bẩn thỉu
và tối tăm – những luồng ánh nắng mặt trời dài từ các cửa sổ cao nhất
chiếu vào cũng mất đi độ sáng khi đi qua bụi bặm.
“Nó
còn tốt chán so với hồi trước,” ông Chatterjee nói khi thấy tôi nghển
cổ. “Anh phải thấy cái nhà ga này trước khi được lau dọn cơ.”
Nhận
xét của ông thật sự không thể bác lại được. Nhưng dưới mỗi cây cột,
những người ngồi xổm túm tụm lại với nhau giữa đống rác mà chính họ đã
xả ra: kính vỡ, những mẩu giấy và gỗ, ống hút và các lon thiếc. Vài đứa
trẻ dựa vào cha mẹ ngủ ngon lành; những đứa khác thì nằm cuộn lại như lũ
tiểu yêu ở những góc bụi bặm. Các gia đình tìm kiếm chỗ nghỉ bên những
cây cột, dưới quầy hàng và các xe hành lý: sự rộng lớn của nhà ga dọa
dẫm họ bằng không gian mênh mông và đẩy họ ra phía các bức tường. Trẻ
con của các gia đình này lảng vảng ở những chỗ rộng, gom những gì lục
lọi được lại để chơi đùa. Chúng là những đứa trẻ tí hon của những ông bố
bà mẹ tí hon. Điều đáng ngạc nhiên là tại Ấn Độ người ta có thể thấy
hai loại người khác nhau trong quá trình tiến hóa, tồn tại song song với
nhau, một loại khá cao lớn, nhanh nhẹn và nhiệt tình, một loại người
khác, mà với họ tiến hóa là sự thu nhỏ, họ nhỏ thó, ốm yếu và khúm núm.
Họ như hai giống người có chung một đất sống là ga xe lửa, dù họ có tiến
lại rất gần nhau (một thằng nhóc ngả lưng gần cửa sổ bán vé nhìn chân những người xếp hàng) thì họ vẫn không tương xứng với nhau.
Tôi
bước ra ngoài, lẫn vào sự hỗn mang giữa ban ngày tại bờ phía Tây của
cầu Howrah. Ở Simla, những chiếc xe kéo tay được giữ lại vẻ cổ kính,
người ta ngồi lên nó rất điệu bộ. Còn ở Calcutta, những chiếc xe này,
được những người phu gầy nhom quần áo tả tơi kéo, là một phương tiện
giao thông thiết yếu, rẻ và dễ len lỏi trong những ngõ hẹp. Chúng là một
biểu tượng nguyên sơ của xã hội Ấn Độ, nhưng tại Ấn Độ tất cả các biểu
tượng đều nguyên sơ: những người vô gia cư ngủ trước cổng vào các biệt
thự, một thị dân trên đường chạy lên tàu hỏa vô tình giẫm phải một người
ngủ trên sân ga, một người phu gò lưng kéo xồng xộc vị khách béo núc
ních trên xe. Những con ngựa nhỏ bị đóng cương để kéo những chiếc xe chở
khách nặng nề qua những con đường đầy sỏi, những người đàn ông đẩy xe
đạp chất đầy những kiện hàng và củi đun. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy
nhiều hình thức vận tải như vậy: xe ngựa, xe máy, ô tô cũ, xe đẩy và xe
trượt cùng các loại xe ngựa kéo kiểu cũ, kỳ dị mà có thể đã từng là xe
tứ mã. Trên một chiếc xe đẩy, những con rùa biển chết, vây chèo đã trắng
dã ra, được xếp dồn lên nhau; trên xe khác thì một con trâu chết và
trên xe thứ ba là cả một gia đình với tài sản của họ - lũ trẻ con, cái
lồng vẹt, xoong và chảo. Giữa những phương tiện vận tải đó, người ta vẫn
lao đi. Rồi xảy ra một sự hoảng loạn, mọi người tản hết ra khi một xe
chở khách xập xệ có dòng chữ TOLLY-GUNGE lắc lư đi xuống cầu. Ông
Chatterjee nói: “Quá nhiều người ấy mà!”
Ông
Chatterjee đi bộ qua cầu cùng với tôi. Ông là một người Bengal, mà đó
là những người cần cảnh giác nhất tôi gặp ở Ấn Độ. Nhưng họ cũng là
những người dễ bị kích động, nói nhiều, máy móc, kiêu ngạo và chẳng hài
hước gì cả, họ diễn thuyết với một kỹ năng đầy hiểm ác về hầu hết mọi
chủ đề chỉ trừ tương lai của Calcutta. Hễ cứ ai đề cập đến vấn đề này là
người Bengal lại cứng lưỡi. Nhưng ông Chatterjee có quan điểm riêng.
Ông từng đọc một bài báo về triển vọng của Calcutta. Calcutta rất xui
xẻo: Chicago từng chịu một trận hỏa hoạn lớn, San Francisco xảy ra một
trận động đất và London có cả dịch bệnh lẫn hỏa hoạn. Nhưng chẳng điều
gì xảy đến với Calcutta để các nhà quy hoạch ở đây có cơ hội tái thiết
thành phố. Ông nói rằng anh phải thừa nhận điều này, thành phố này có
sinh lực bền bỉ của nó. Vấn đề những người sống trên vỉa hè (ông nêu ra con số một phần tư liệu)
theo cách nào đó đã bị “bi kịch hóa quá mức”, và khi xem xét tới tình
huống là chỉ những người sống trên vỉa hè mới tham gia vào công việc
nhặt rác, thì người ta phải thấy rác rưởi ở Calcutta “hầu hết đã được
tái chế một cách triệt để.” Dường như đó là một cách dùng từ sai và nó
gần như sa vào sáo rỗng: sinh lực bền bỉ kiểu gì ở một nơi mà người ta
chết trên cống rãnh (“Nhưng ai rồi mà chẳng chết,” theo lời ông C.),
rồi thì một phần tư triệu người bị bi kịch hóa quá mức, rồi thì những
người nhặt rác làm công tác tái chế. Chúng tôi đi qua một người đàn ông
đang ngả người chìa tay ra. Hắn ta là một con quái vật. Nửa khuôn mặt đã
mất, cứ như thể nó bị cắt xéo một cách vụng về - hắn không có mũi,
không có môi, không có cằm; và hàm răng lúc nào cũng nhô ra của hắn giữ
trong miệng một cái lưỡi thâm tím. Ông Chatterjee nhìn thấy tôi bị sốc.
“Ồ, là anh ta! Anh ta luôn ở đây mà!”
Trước
khi chia tay tôi ở Barabazar, ông Chatterjee nói: “Tôi yêu thành phố
này.” Chúng tôi trao địa chỉ cho nhau rồi chia tay, tôi về một khách
sạn, ông Chatterjee thì về đường Strand, nơi dòng sông Hoogly dềnh bùn
đất lên một cách tệ hại, chẳng mấy chốc mà tro bụi hỏa táng của những
người Bengal sẽ nổi lên trên.
Tôi
ở lại Calcutta bốn ngày, đi giảng bài, ngắm cảnh và rồi tiêu hết thù
lao giảng bài tại Câu lạc bộ Đua ngựa Hoàng gia Calcutta vào thứ Bảy,
ngày mà tôi quyết định sẽ rời đi. Ngày đầu tiên, thành phố trông như một
xác chết mà người Ấn Độ là những đàn ruồi vo ve kiếm ăn trên đó. Sau
đấy tôi thấy những đường nét của nó rõ ràng hơn, những cây cột cao và
những kim tự tháp ở Nghĩa địa phố Park, những ngôi biệt thự mục nát
trang trí đường diềm và cột trụ, ở đài phun nước tại sân trong của những
chỗ ấy: tượng nữ thần và yêu nữ thổi vào những tù và ốc khô khốc, tượng
cũng giống những người đang sống dưới chân chúng trong những bao tải
gai, đều mất chân hoặc tay. Tiếng xe điện leng keng trong đêm; ánh đèn
chập chờn chiếu sáng những con bò hoang đang sục mõm vào đống rác, tranh
nhau với đám người Ấn Độ đang cào xới tìm xem có thứ gì ăn được. Những
khu tập thể cao tầng mang phong cách thời kỳ Moghul.
“...chen
lẫn thành phố, đè lên nó, lèn vôi vữa và gạch vào nó, không để lọt chút
không khí vào nó và đứng trơ trơ chắn nó khỏi ánh sáng.
Bạn
dò dẫm lối đi mất khoảng một tiếng qua những ngõ ngách, những lối tắt,
những sân nhà và hành lang; bạn sẽ không một lần nào xuất hiện trên một
thứ gì có thể được gọi tương đối là con phố. Một cảm giác phát điên vì
bất lực xuất hiện với người lạ khi anh ta bước đi trên những mê cung
khúc khuỷu đó, rồi anh ta bị lạc, đi vào đi ra, đi vòng quanh, lặng lẽ
quay lại lần nữa khi anh ta đi tới một bức tường cuối ngõ cụt hoặc bị
chặn bởi một bức rào sắt, và cảm giác thấy rằng những lối thoát ra sẽ
xuất hiện vào thời điểm thích hợp, nhưng mong đợi chúng thì quả là vô
vọng...
Trên
những con phố chính chật hẹp, đây đó vẫn có những cổng cũ bằng gỗ sồi
được chạm trổ, mà ở đó thời xa xưa vẫn có âm thanh của những buổi chè
chén tiệc tùng vọng ra, nhưng trong hiện tại, những tòa nhà đó chỉ còn
được dùng làm nhà kho, tối tăm và xám xịt, bên trong đầy những len, vải
bông và những thứ tương tự - những thứ hàng hóa nặng nề này kiềm tỏa âm
thanh và làm mất tiếng vọng – bầu không khí chết chóc có thể cầm nắm
được... Ở những chỗ con đường không phải phố chính thắt lại và phình
ra... các nhà bán buôn hàng rau quả như đang ở trong thành phố nhỏ hoàn
hảo riêng của họ; và phía sâu dưới móng của những ngôi nhà này, đất bị
xói mòn, bị đào lên làm chuồng ngựa, trong chuồng những con ngựa kéo xe
bị lũ chuột quấy rầy, mà vào một ngày Chủ nhật yên tĩnh có thể nghe thấy
tiếng ngựa đang lúc lắc dây cương, giống như truyện về lũ ngựa ma ám
khí những hồn ma không yên nghỉ đung đưa dây xích của chúng...
Rồi
có những đỉnh chóp nhọn của nhà thờ, những tòa tháp, những gác chuông,
những chong chóng sáng chói trên nóc nhà và cột buồm trên những con tàu.
Những giàn giáo, những mái nhà, cửa sổ gác thượng, vẻ tiêu điều này đè
lên trên vẻ tiêu điều khác. Khói và tiếng ồn nhiều như của cả thế giới
tập trung về đây.”
Còn
nữa và đều rất hay, nhưng tôi nghĩ trích như thế là đủ thấy miêu tả tốt
nhất về Calcutta chính là miêu tả khu Todger Ở London trong chương IX
cuốn Martin Chuzzlewit[2]. Tôi thấy Calcutta rất giống với quan sát của
Dickens (có thể còn giống mô tả của Dickens hơn cả chính London);
và tôi hiểu rằng mình không thể chia sẻ niềm hân hoan của những người
Bengal đồng ý để Ngân hàng Trung ương Ấn Độ treo lên một cái biển quảng
cáo to khủng khiếp trong thành phố (CALCUTTA LÀ MÃI MÃI), hoặc
theo một cách kỳ quặc hơn, tôi cũng không thể chia sẻ sự quan tâm quá
chu đáo của những người Mỹ tôi gặp ở đó dành cho thành phố rộng lớn
nhưng chưa hoàn thiện này, sự quan tâm mà tôi cảm giác ngày nào đó sẽ
khiến họ không còn là họ. Vì thế, tôi quyết định rời Calcutta, cũng có
nghĩa là rời khỏi Ấn Độ.
[2] Tác phẩm của Charles Dickens.
Trên
đường đi, tôi thấy người đàn ông nhảy lò cò trong đám đông ở
Chowringhee. Anh ta rất kỳ lạ: trong một thành phố của những người dị
tật này thì chỉ có một người trông cực kỳ gớm ghiếc mới nổi bật. Anh ta
chỉ có một chân – chân còn lại đã bị cắt cụt tới tận bắp vế - nhưng anh
ta không dùng nạng. Một tay anh ta ôm một cái bọc nhầy nhụa. Anh ta nhảy
lò cò qua tôi, miệng há hốc, bờ vai lắc lắc. Tôi đi theo anh ta, rồi
anh ta rẽ vào phố Middleton, nhảy lò cò rất nhanh trên một chân, như một
người nhảy trên cây cà kheo pogo[3], đầu nhô lên rồi thụt xuống trong
đám đông. Tôi không thể chạy vì vướng những người khác, những nhân viên
bán hàng da đen đi nhanh như tên bắn, những thầy tu cầm ô, những người
ăn xin không có tay chìa phần tay cụt ra trước tôi, những người đàn bà
bế đứa bé bị cho uống thuốc ngủ, những gia đình đang đi dạo mát, những
người đàn ông mặc quần thụng, tay vung vẩy như muốn choán hết vỉa hè.
Anh chàng nhảy lò cò đã xa khuất. Tôi theo dấu – tôi có thể nhìn rõ đầu
anh ta – rồi lạc mất anh ta. Với một chân mà anh ta đã vượt xa tôi, tôi
không bao giờ nghĩ rằng bằng cách nào anh ta có thể làm được như vậy.
Nhưng sau này, mỗi khi nghĩ về Ấn Độ, tôi lại mường tượng ra anh ta – cứ
nhảy lò cò, lò cò, lò cò – nhanh nhẹn vượt qua đám đông hàng triệu
người đó.
[3] Một loại cà kheo có lò xo.