Phương Đông lướt ngoài cửa sổ - Chương 15
ấn tượng với tôi khi ở một đất nước đang chết đói mà có đến ba mươi
người chọn tới tham dự cuộc hội thảo ba ngày về văn học Mỹ mà tôi sẽ là
diễn giả chính. Văn học Mỹ thì cũng tốt thôi, nhưng tôi nhận thấy không
thích hợp với một vùng đất đang gánh chịu tai ương này. Tôi đã không
nghĩ đến sự tháo vát của đại sứ quán Mỹ; khi hội thảo sắp diễn ra, tôi
cảm thấy lo lắng của mình là vô nghĩa. Một người đàn ông lanh lợi giám
sát hội thảo cam đoan với tôi sẽ có đủ một trăm phần trăm khách tham dự,
phương cách của anh ta cũng khác lắm so với chuyên viên kế hoạch hóa
gia đình ở Ấn Độ - tặng đài bán dẫn xách tay mới cho những người đàn ông
nào phẫu thuật thắt ống dẫn tinh. Ở đây, trên hòn đảo Ceylon đói kém
này, hội thảo văn học Mỹ ba bữa chính ê hề, một bữa trà sang trọng và
phòng nghỉ miễn phí trong khách sạn New Orient ở Galle, còn whisky có
thể uống tùy thích. Không nghi ngờ gì mọi người sẽ tham dự nhiệt tình.
Sau bữa ăn sáng no nê gồm bốn món, các đại biểu tụ họp trong một căn
phòng trên gác gà gật suốt bài giảng vô thưởng vô phạt của tôi, đến trưa
họ lại ùa xuống tầng để hưởng thụ bữa ăn tuyệt hảo. Cuộc họp buổi chiều
ngắn, có tiệc trà xen ngang và sự kiện chính của ngày là bữa tối, một
buổi tiệc vui vẻ thong dong, tiếp đó là một phim đưa mọi người vào giấc
ngủ. Những bữa ăn của ngày đầu tiên đầy ních những kẻ phàm ăn đến điên
cuồng, nhưng qua đó mọi thứ lại lắng xuống, các đại biểu đi lại nhẹ
nhàng từ phòng ăn tới phòng hội thảo, ăn uống và thảo luận. Giữa buổi,
họ ngấu nghiến bánh quy, thi thoảng lại ra ngoài bởi chứng khó tiêu, họ
bị thức ăn làm cho u mê, bắt đầu trông giống nạn nhân của chứng phù nề,
triệu chứng chính là giấc ngủ kéo dài bị ngắt quãng bởi những cơn ợ hơi
mãnh liệt. Một số đại biểu đưa cho tôi sách mà họ đã viết. Những viết
nước xốt trên bìa sẽ tiếp tục nhắc tôi về cái buổi cuối tuần đó, và tôi
sẽ nhớ mãi tiếng ồ lên đồng thanh ở cuối buổi hội thảo khi nhà tổ chức
người Mỹ hỏi: “Chúng ta sẽ đi vào lúc mười giờ hay sau bữa trưa?”
Một
tối, tôi bỏ lại các đại biểu đang ngồi ợ hơi tại khách sạn để đi tìm
nơi có bi-a chơi. Tôi tìm được câu lạc bộ Gymkhana, nhưng một vài thành
viên đã tự khóa cửa phòng bi-a để lén nghe một chiếc đài sóng ngắn kêu
xèo xèo. Đó là bản tin về cuộc đua mới nhất trên kênh nước ngoài của đài
BBC, và những người đàn ông cá cược đua ngựa chuyên nghiệp đang viết
nguệch ngoạc lên những mẩu giấy ghi số tiền đặt cược khi một giọng nói
sang sảng cất lên: “Hôm nay ở Doncaster, trong cuộc đua một nghìn bốn
trăm linh bảy mét trên đường đua chậm, Bertha’s Pill từ vị trí thứ hai
mươi đã về nhất và tiếp đó là Gallant Falcon, Sefety Macth và Sub Rosa.”
Đua ngựa bị cấm ở Ceylon, bởi vậy người Ceylon cá cược các cuộc đua tại
Espom, Doncaster và Kempton Park. Những tay cá cược đua ngựa bảo tôi có
thể sử dụng bàn ngay khi buổi phát sóng kết thúc.
Câu
lạc bộ Dịch vụ Công cộng ngay phía bên kia đường. Khi bàn trống, các
thành viên nói họ không phản đối cho tôi chơi, nhưng họ nói thêm rằng có
thể sẽ khá phiền vì nhân viên phát bóng phải bắt xe buýt. Tôi hơi khó
hiểu với lời giải thích này, nhưng sau một lúc tôi thấy nhân viên xếp
bóng toát lên dấu hiệu của dự lười nhác không nói lên lời ở Ceylon.
Tôi bắt đầu chơi với một trong số những người Ceylon khoác lác và sau khi một vài quả bóng bị chọc xuống lỗ thì có tiếng xì xào.
“Tay xếp bóng sẽ bắt xe buýt muộn mất.”
Nhân
viên xếp bóng, một tín đồ đạo Phật trung thành trên Fernando, xếp bóng
với sự tự tin đầy uy quyền của một giám mục nắm trong tay cây gậy phép.
Trò chơi phụ thuộc vào cậu. Cậu giữ tỷ số, xếp bóng khi cần, cậu thu
bóng, bôi lơ vào đầu gậy bi-a, nhắc luật cho người chơi; một lần tôi
nghi ngờ một cú đánh mà cậu ta khuyên rằng đó là cú chuẩn nhất, rồi cậu
nghiến răng khi tôi đánh trượt. Không nhiệm vụ nào của cậu đòi hăng hái
đặc biệt cả nhưng chúng phá hoại sự tập trung của tôi. Đặc tính kỳ quặc
của người chơi bi-a và chơi pool là họ phải được chơi một cách hoàn toàn
yên tĩnh. Sự chăm chăm chú ý của Fernando phá vỡ sự tĩnh lặng này. Tôi
rất mừng khi nghe đối thủ của tôi nói - sau khoảng bốn mươi phút - “Cậu
bé phải đi rồi.”
“Tôi,” tôi nói. “Để cho cậu ta đi.”
Fernando xếp lại đồ và chạy ra khỏi phòng.
“Tôi đã thắng ông một điểm.”
“Không, anh đã thắng đâu,” tôi nói. “Cuộc chơi chưa kết thúc.”
“Cuộc chơi kết thúc rồi.”
Tôi chỉ cho anh ta thấy còn bốn quả bóng ở trên bàn.
“Nhưng không có cậu xếp bóng.” Người Ceylon nói. “Bởi vậy cuộc chơi kết thúc. Tôi thắng.”
Liệu
có gì đáng thắc mắc không khi ở đất nước phì nhiêu thế này - phì nhiêu
tới nỗi hàng rào và cột cuộc điện thoại cũng mọc rễ và nảy mầm ra các
cành cây (thật tiếc khi chúng không ra quả) - và mọi người đều
uể oải vì đói? Họ đã đuổi người Tamil đi, những người đã làm hết việc
trồng trọt. Họ đã quên cách gieo hạt như thế nào trên đất - sự gieo hạt
này có thể đã mang lại mùa màng cho họ. Galle là một thành phố xinh đẹp,
được tô điểm bằng những cây hoa râm bụt đỏ với biển xanh thơm mùi lá
cọ, chứa trong lòng phong cách Hà Lan đẹp đẽ, xung quanh là những vạt
rừng tre. Tấm màn ánh nắng rực rỡ của hoàng hôn trang điểm cho bầu trời
màu vàng kim hung đỏ một giờ rưỡi mỗi tối và cả đêm những con sóng vỗ
vào vách pháo đài. Nhưng khuôn mặt chết đói của những kẻ mộng du, sự
nghèo nàn của thành phố cảng nhà quê này khiến cảnh đẹp trở nên không
thể chịu nổi.
Tàu
từ Galle chạy dọc bờ biển theo hướng Bắc về Colombo, gần bờ biển đến
nỗi bụi nước bắn tung lên bởi những đợt sóng cuồn cuộn từ châu Phi, chạm
tới những chiếc cửa sổ hỏng của các toa tàu bằng gỗ mòn vẹt. Tôi đi toa
hạng ba và khoảng thời gian đầu chuyến đi tôi ngồi trong toa chật ních
những người mà ngay khi tôi trở nên thân thiện, họ hỏi xin tiền tôi. Họ
không xin tiền tôi với sự khẩn thiết, trên thực tế họ không có vẻ như
cần tiền mà đúng hơn là những gì họ vòi vĩnh tôi thành công sẽ được dùng
đến một ngày nào đó trong tương lai. Tình huống này xảy ra khá thường
xuyên. Giữa cuộc nói chuyện, một người đàn ông sẽ từ tốn hỏi liệu tôi có
dụng cụ nào mà tôi có thể cho anh ta không. “Loại dụng cụ nào?” “Lưỡi
dao cạo.” Tôi nói không và cuộc hội thoại sẽ vẫn tiếp tục.
Sau
gần một giờ đối thoại, tôi lách khỏi toa ra đứng ở cửa nhìn mưa rơi từ
tầng mây thẫm đen trên cao vừa rời bờ biển - cơn mưa ngoài xa như những
cột đá granit tráng lệ. Bàn tay phải mặt trời đang lặn, có lũ trẻ chạy
nhảy dọc bờ cát, chúng đang chuyển dần thành màu tía trong ánh hoàng
hôn. Đó là cảnh tượng phía bờ biển. Phía bên này là rừng, trời bắt đầu
đổ mưa nặng hạt và tại mỗi nhà ga, người phát tín hiệu che mưa bằng
những lá cờ, gấp lá đỏ thành khăn trùm đầu, lá màu xanh thành một chiếc
váy, anh ta vẫy cờ màu xanh lá khi tàu tới rồi lại nhanh chóng lấy nó
che mưa khi tàu vừa đi qua.
Một
người đàn ông Trung Quốc và vợ người Ceylon vừa lên tàu ở Galle với đứa
con da sẫm màu mũm mĩm. Đó là gia đình Wong, tới Colombo để nghỉ ít
ngày. Wong nhận mình là nha sĩ, đã học kinh doanh từ cha, cha anh từ
Thượng Hải tới Ceylon vào năm 1937. Wong không thích mưa, anh nói thường
xuyên tới Colombo bằng xe máy ngoại trừ mùa mưa. Anh ta cũng có cả mũ
và kính bảo hiểm, nếu tôi quay lại Galle một dịp nào đó anh sẽ khoe
chúng cho tôi xem. Anh ta nói với tôi mấy món đó trị giá bao nhiêu tiền.
“Thế anh biết nói tiếng Trung Quốc không?”
“Humbwa
là đi, mingwa là tới. Thế thôi. Tôi nói tiếng Ceylon và tiếng Anh.
Tiếng Trung khó lắm.” Anh ta ấn mấy đột ngón tay vào thái dương.
Simla
đầy những nha sĩ người Trung Quốc, với những bảng hiệu minh họa hình
cắt ngang cái miệng người trông kinh khủng và những khay đựng răng trắng
ở cửa sổ. Tôi hỏi anh ta tại sao những người Trung Quốc mà tôi từng gặp
đều là nha sĩ.
“Người Trung Quốc là những người nha sĩ rất giỏi!” anh ta giải thích. Hơi thở anh ta có mùi dứa. “Tôi giỏi!”
“Anh có thể hàn răng cho tôi không?”
“Không, tôi không hàn răng.”
“Anh có làm sạch răng không?”
“Không.”
“Anh có thể nhổ răng?”
“Ông cần nhổ răng hả? Tôi sẽ cho ông tên của một nha sĩ nhổ răng giỏi.”
“Thế anh là nha sĩ kiểu gì, Wong?”
“Thợ cơ khí răng,” anh ta đáp. “Người Trung Quốc là những người giỏi nhất khoản làm thợ cơ khí răng.”
Thợ
cơ khí răng là như thế này: bạn có một cửa hàng với một cái giá bày mấy
loại vữa vôi của Anh, một chất sền sệt màu hồng; bạn cũng có ngăn kéo
chứa đầy răng đủ các loại kích cỡ. Một người bị rụng hai cái răng cửa
trong một cuộc xung đột giành lương thực hoặc cãi nhau vì một quả dừa
chở đến cửa hàng, bạn nhồi vào miệng anh ta chất màu hồng và đóng khuôn
hàm anh ta lại. Một chiếc khuôn hình thành và khi nó được đẽo gọt lại,
hai chân răng loại của Nhật được gắn vào đó. Không may là những chiếc
răng giả bằng chất dẻo này vô giá trị khi nhai thức ăn và phải tháo ra
vào giờ ăn. Wong tiết lộ việc kinh doanh khá thuận lợi, anh ta đang kiếm
được khoảng một nghìn tới một nghìn bốn trăm rubi một tháng, số tiền
này lớn hơn lương giáo sư tại Đại học Colombo.
Trong
khoang tàu, hành khách đang rầm rầm đóng cửa sổ xuống để nước mưa khỏi
hắt vào. Ánh lửa của hoàng hôn hé trong những đám mây xám xịt và những
cột mưa mang theo tia chớp đang tiến rất gần; những người đánh cá đang
vật lộn với lớp lớp sóng cao để đưa thuyền vào bờ. Con tàu bắt đầu bốc
mùi kinh khủng; Wong xin lỗi về cái mùi đó. Mọi người bị đè ở trong toa
và bị nén lại ở ngoài hành lang. Tôi ngồi ở cửa, có thể quan sát được
những người nhanh trí bám chặt lấy những mốc nối bằng thép giữa hai toa
và cố giữ thăng bằng. Khi cơn mưa to hơn - giờ thì nó đã thực sự đổ
xuống - họ tìm lối vào trong toa, rầm rập đóng cửa lại và ngồi trong
bóng tối khi cơn mưa đập vào những chiếc cửa bằng kim loại như những
trận mưa đá.
Cửa bên tôi vẫn mở và tôi ngồi tựa vào tường, một cơn gió mạnh thổi vào tôi bất chợt.
“Ở đây ít nhất ông có thể thở được.”
Người
đàn ông vừa bắt chuyện thắt một cái khăn tay trên đầu, ra đứng cạnh
tôi. Anh có một cái cặp. Anh thì thầm rằng mình là một thợ kim hoàn, từ
Calcutta đến đây để tận dụng cơ hội kinh doanh. Những người Ấn trước đây
buôn lậu ngọc ra khỏi Ceylon để bán ở Ấn Độ. Bây giờ giá ngọc ở Ceylon
tăng gấp năm lần vài tháng trước, bởi vậy, người Ấn đang buôn lậu ngọc
ngược lại Ceylon để bán với một cái giá trên trời.
“Thật là một tình huống buồn cười,” anh ta nói.
“Đây là một đất nước khá tuyệt vọng.”
“Ông biết có bao nhiêu người ở Ceylon không?”
Tôi đáp rằng có khoảng mười hai triệu người.
“Đúng
rồi,” anh ta nói. “Mười hai triêu hoặc hơn. Và họ không thể nuôi sống
bản thân. Ông biết ở Colombo chúng tôi có bao nhiêu người không, chỉ
riêng ở Colombo thôi ấy? Tám triệu!”
“Các ông có thể nuôi họ không?”
“Dĩ
nhiên là không. Nhưng chúng tôi không lải nhải những thứ rác rưởi như
họ. Ông nghe thấy những thứ rác rưởi chưa? Chiến dịch Trồng thêm nhiều
lương thực, trồng thêm khoai, rác rưởi cách mạng, rác rưởi chính trị,
thế này thế nọ thế kia.”
“Dòng người đợi phát chẩn bánh mì là cảnh tệ nhất mà tôi từng thấy.”
“Ông
nói dòng người đó à? Ở Calcutta chúng tôi có gấp hai lần. Xếp hàng xin
bánh mì, xếp hàng chờ phát gạo, thậm chí là sữa. Ông đã thấy điều này,
chúng tôi còn có hàng loạt dòng người như vậy. Đây chưa là gì.”
Mưa
vẫn tiếp tục, trong ngôi làng có những túp lều có mái dốc, nhưng lò vôi
đang phả khói vào những lùm cây nọ. Đây là một ví dụ nữa về tính hoang
phí của người Ceylon. Họ dùng thuốc nổ phá rặng đá ngầm lấy san hô và
đốt nó để làm ra vôi. Những dải đá ngầm bị hủy làm cho biển xói mòn bờ.
Chính phủ đã bắt đầu một chương trình để dùng xi măng hàn lại dải đá
ngầm, nhưng ngược đời ở chỗ là xi măng lại làm từ vôi, và vì không có xi
măng nhập khẩu, những dải đá ngầm lại bị phá hủy để tạo ra vôi nhằm vá
những dải đá khác. Họ gọi đó là ngành công nghiệp xi măng, một ngành
công nghiệp tự tiêu thụ toàn bộ: không có gì được thu lại.
Thông
thường khi ở trong một đoàn tàu - ví dụ ở Ấn Độ - người ta sẽ ăn và đọc
sách báo hết thời gian. Nhưng thức ăn có ít và việc thiếu giấy in báo
đã giảm rất nhiều lượng báo phát hành. Do đó hành khách trên tàu 16 giờ
25 từ Galle tới Colombo chỉ còn cách ngồi không; lúc đầu trong cuộc hành
trình họ ngồi dưới ánh hoàng hôn rực rỡ và giờ đây họ đang ngồi trong
bóng đen của cơn bão. Tàu lúc lắc, những con sóng đánh vào bờ. Đến gần
Colombo hơn, những vị thầy tu trong toa cuối (biển hiệu phía ngoài ghi DÀNH CHO TĂNG LỮ)
thư thái nhìn mặt trời lặn, toa hạng hai dành cho học sinh về nghỉ hè,
chúng bị bó trong những bộ đồng phục cứng ngắc; ở toa hạng ba, nơi tôi
đang ở, gần như mọi người ngồi trong toa đóng kín tối đen. Vào lúc sáu
giờ, phía ngoài sáng hơn nhiều - cơn bão đã đi qua và mặt trời hiện lên
qua làn mây mờ - nhưng không ai buồn mở cửa chớp. Ở Mount Lavinia, khi
ai đó rút chốt cửa ra quẳng đi, mặt trời đã biến mất.