Nỗi buồn chiến tranh - Chương 19

 

NHỮNG NGÀY THÁNG PHÍA TRƯỚC CỦA ĐỜI Kiên đang rút dần lại. Việc
tiếp tục tồn tại như hiện nay ở bề nổi cuộc sống càng ngày càng nhạt mất
ý nghĩa, đã trở nên hầu như không còn cần thiết nữa. Anh đã mất Phương,
lần này là vĩnh viễn, và thực lòng không hiểu được là làm sao có thể
sống thiếu nàng. Dường như chỉ còn những trang bản thảo của cuốn tiểu
thuyết đầu tay là những chi tiết cuối cùng neo giữ Kiên vào đời sống,
tuy nhiên, bản thảo dẫu vẫn đầy dang dở cũng đến lúc đã phải hạ hồi. Bởi
vì, anh nghĩ, có lẽ tới một hôm nào, chẳng bao lâu nữa, khi ngọn đèn bị
bỏ quên không tắt bên phòng Phương mà lụi đi thì tất cả cũng sẽ mờ theo
thôi, cả những trang viết, cả cuộc sống. Nhưng mà lẽ dĩ nhiên khi cuộc
sống còn đấy thì vẫn cứ phải sống thôi. Ngày lại ngày. Những đêm trắng.
Rượu uống triền miên và những trang bản thảo dồn lại như núi. Buổi sáng,
anh rời bàn viết sau khi đã uống cạn nửa chén rượu cuối cùng để rũ sạch
cơn chếnh choáng từ đêm và bước xuống đường, đi tới cái quán cà phê ở
góc hồ Thuyền Quang. Sóng hồ lăn tăn. Màn nắng mai lấp lánh. Anh uống cà
phê, châm thuốc hút và gọi mua một tờ nhật báo. Với anh tờ nào cũng hệt
như tờ nào. Lướt nhìn. Các dòng tít. Những bức ảnh lem nhem. Dọc phố
người xe nhộn nhịp, tất tưởi. Bụi mù lên, nắng bắt đầu cháy. Trong quán
đông dần. Người ta hút thuốc, đọc báo, khuấy thìa lanh canh, trò chuyện,
đàm luận. Cuộc sống đầy ắp chuyện vậy nhưng cũng lại đặc biệt nghèo
nàn. Ngẫm lại những dòng vừa viết hồi đêm, Kiên nhún vai, tự thấy kỳ
quặc. Thế kỷ 20 đã kết thúc rồi, lòng người đã khước từ, đã vĩnh biệt nó
đúng chưa, vậy mà mình thì như thể vẫn muốn trì níu, muốn vớt vát một
cái gì. Sống và chỉ có sống, chỉ thế thôi - con người là vậy, thế mà
mình... Kiên thở dài, gạt tờ báo sang bên. Một tay nào nom quen quen ra
hiệu chào, Kiên gật đầu chào đáp.

- Viết lách tiến triển thế nào rồi? - Tay đó hỏi.

- Chán lắm! - Kiên đáp, vội bỏ đi.

"
Tay nhà văn của phường tôi kia kìa" - một người đàn ông ở góc nói với
một người đàn ông khác. Kiên đi qua chỗ người đàn ông ngồi bán những con
rắn độc trên vỉa hè. Đàn rắn dài thưỡn, ưỡn ườn chẳng buồn ngọ nguậy,
vẻ chán đời, nằm bẹp. Bên kia đường lũ trẻ xúm quanh một ông già mù dừng
bán những quả bóng bay nhiều màu. Mấy người ăn xin nằm dài trên ghế đá
ven hồ. Lá vàng tơi tả rơi. Thành phố đông đúc, buồn rầu. Kiên định đến
tòa soạn nhưng rồi lại quay về nhà. Lên cầu thang, vào phòng. Gài cửa
lại. Ngồi xuống bên bàn, dở bản thảo ra nhưng phải gấp ngay lại. Châm
một điếu thuốc và nhìn ô cửa sổ. Làm gì bây giờ, đi đâu bây giờ? Muốn
chợp mắt một lát nhưng như thế lại là sẽ nghĩ tới Phương, sẽ lại nhức
nhối đau trong lòng. Anh không muốn thế. Giá có ai giúp mình làm vợi
những nỗi niềm. Lâu rồi bạn bè đồng ngũ tản mát, thư từ thưa nhạt. Lâu
rồi, anh chẳng còn trò chuyện tâm tình được với ai khác ngoài người đàn
bà bị câm sống ẩn trên tầng ép mái; mà cũng họa hoằn, cũng chỉ những đêm
say khướt, đầu óc hoàn toàn mụ mị anh mới tìm được đường để lên với
chị...

Trí óc nhảy nhót. Có lẽ lại là một chuyện xưa cũ mèm sắp
trỗi dậy, nặng trịch. Thật là khổ sở và vô ích. Đôi khi đang viết ở dòng
này chuyện này sang dòng sau ngòi bút nhập hồn vào chuyện khác mà anh
không hay. Khi nhận ra thì hoặc là phải gạch bỏ hàng trang hoặc đành
chịu để thế, phó mặc. Đột nhiên Kiên nhớ, chẳng hiểu tại sao lại nhớ đến
chuyện ấy, chuyện bị thương ở Đắc Tô hồi chiến dịch 72. Vết thương
trước tiên là nực cười và sau nữa là hình như đã để lại hậu quả thật
nặng nề. Bây giờ buồn cười là anh chẳng biết rõ tình cảnh của mình thế
nào cả. Trong quân y viện, có một gã công binh bị thương y hệt Kiên. Anh
rất ngạc nhiên vì thấy hắn có vẻ đau đớn lắm, khóc lóc nguyền rủa, than
thân trách phận. ''Nhưng tôi chẳng thấy đau gì lắm so với những lần bị
thương khác" Kiên bảo với hắn - "Mà sao anh lại đau dữ như thế. Tay đó
mắng anh là đồ ngốc. Hắn bảo bị thế này thà mù còn hơn. Bây giờ Kiên
muốn biết số phận của tay công binh đó quá. Có thể lập thành phường hội
những kẻ như hắn và như Kiên. Những kẻ... và ấy là một ý rất nhộn, rất
hài, có phải không.

Đến khi chiếm Sài Gòn rồi, người ta cử Kiên
chỉ huy đội kiểm soát quân nhân của trung đoàn để đi tua bắt lính tráng
ban đêm mò khỏi trại lòng thòng với các "em" ở Tân Sơn Nhất, Tân Sơn
Nhì, khi ấy Kiên mới thấy hận, mới hiểu. Thì ra người ta nghĩ rằng anh
không có khả năng phạm tội. Tóm lại, quả là chết cười. Anh nằm ngả ra
giường, hai tay khoanh dưới gáy, trân trân nhìn trần. lẽ ra không nên
trở về Hà Nội. Lẽ ra không nên gặp lại Phương. Nếu như thế thì anh đã
không phải lôi thôi sống thế này đã êm đời rồi. Có lẽ cũng chẳng viết
văn. Chẳng gì hết. Trong suốt những năm qua, kể từ sau chiến tranh và kể
từ ngày gặp lại Phương, anh đã nuôi nhiều hy vọng. Anh hy vọng là sẽ
dứt bỏ được dĩ vãng. Nỗi buồn rồi cũng sẽ vơi đi cùng năm tháng, cùng
công việc và những bước chuyển sẽ gặp trong đời sống. Và hàng năm mỗi
khi mùa xuân tới lòng anh lại nao lên niềm hy vọng là cùng với mùa xuân
tuổi trẻ của anh sẽ trở về tất nhiên không phải dưới hình hài trẻ trung
như trước mà sẽ trở về trong hình thái bản chất nhất của nó, với ý nghĩa
là tất cả đều có thể hồi phục và tái sinh tất cả đều có thể làm lại,
ngay cả số phận và ngay cả tình yêu. Bây giờ thì khác rồi. Bây giờ thì
anh đã thôi không nhìn về phía trước làm gì nữa. Chẳng phải là một phát
hiện gì mới mà là một sự thấm nhuần nặng trĩu, giờ đây Kiên hiểu rằng
con đường đời thực sự giành cho anh, con đường hướng anh tới tương lai
tốt đẹp, con đường ấy nó đã lùi lại ở đâu đó phía sau ra trong khoảng
tối mù mịt trên những cánh đồng thời gian mà đất nước đã vượt qua.


nhiên, suy nghĩ ấy chưa chắc đã có nghĩa là kết luận của lòng tuyệt
vọng. Hạnh phúc nằm lại ở phía sau và mỗi một năm lùi xa hơn. nhưng có
sao! - Anh sẽ sớm rời bỏ cuộc sống thường nhật hôm nay, sẽ quay trở lại,
dấn bước thật mau và sẽ vươn tay thật xa với vào bóng tối của những
ngày đã khuất. Và sẽ tới một ngày đẹp trời nào đó, anh sẽ trở về được
dưới vòm trời của những năm tháng xa xưa, bước lên được con đường dẫn về
những vận hội đã để lỡ.

Những vận hội bị phí phạm ấy, hiện giờ
chưa thể mường tượng lại được. Rất có thể đó là đời sống mà khi hòa bình
nhiều bạn đồng ngũ của anh đã chọn: ở lại Miền Nam. trở lại Tây Nguyên,
đoạn tuyệt hoàn toàn với đời sống cũ mèm miền Bắc, bằng sức mạnh dư
thừa của người lính chiến thắng sống cuộc đời lao động trong sạch và
lồng lộng tự do giữa núi rừng và thảo nguyên tại những ngôi làng mới mọc
bên bờ Pô-cô, Sa Thầy hay Sêrêpốc, Ya-mơ..." - Đã từng là lính chiến B3
nhiều năm, trọn tuổi xuân lao lực và đẫm máu hai bàn tay thì từ đây,
hòa bình rồi, nên sống giữa thiên nhiên và gần gũi người lao động thì
mới mong có được cuộc đời yên vui, dịu dần được đau khổ!' - Ai đã khuyên
như thế nhỉ, Kiên quên rồi. . . Hình như là chính ủy trung đoàn thì
phải. Một lời khuyên mới thâm trầm làm sao. Giữa những cảnh chiến tranh
trong mơ đôi khi Kiên vẫn thấy thoáng lên những cảnh sinh hoạt và lao
động của đời lính B3. Mùa khô phá rẫy đốt nương. Mùa mưa làm cỏ lúa. Mùa
mưa vào rừng nhặt măng hái nấm. Mùa khô giăng lưới bắt cá, đặt bẫy săn
thú. Mùa khô đi gùi. Tấm lưng to bè, bàn tay chai sạn. Và hạt muối hạt
gạo, củ sắn, mồ hôi thời ấy như chứa đựng mầm mống của niềm vui sống mà
ngày nay anh đã để cho rơi vãi, mai một. Có lẽ thế chăng?

Có một
niềm đất mà đời Kiên đã một lần lướt thoáng qua, bây giờ thường thấy
hiện lên trước mắt như biểu tượng về vùng đất hứa dã mất vào quá khứ, đó
là vùng thảo nguyên bao la miền Nam Tây Nguyên: Từ đèo Ngoạn Mục, qua
Đơn Dương, Đức Trọng, xuôi đường 20 láng bóng, thẳng tắp về Di kinh...
Chẳng phải chỉ vì không gian bát ngát xứ sở này gắn liền với thời kỳ
hành quân kỳ diệu. "Thần tốc! Thần tốc nữa" của sư đoàn 10, mà còn bởi
chính ở đấy, trên góc trời cực nam cao nguyên, trước ngày kết thúc chiến
tranh, trong lòng anh lần đầu tiên bừng lên tình yêu cuộc sống hòa
bình, lòng thương mến ngưỡng mộ đối với đời sống lao động yên hàn, bình
dị và êm ấm tuyệt đối tương phản với bạo lực, chém giết và tàn phá. Có
thể đấy là một ấn tượng lớt nhớt và sai lệch, tuy nhiên là cơ sở để mãi
mãi lưu giữ tiềm thức Kiên những âm vang của niềm lạc quan không bao giờ
chết hẳn.

Kiên nhớ lại một buổi chiều, anh cùng tổ trinh sát ngự
trên một chiếp zeep lùn gắn đại liên rẽ khỏi lộ 20, chạy vào một đường
đất đỏ dẫn sâu vào biển ngút ngàn cà phê mênh mông lút tầm mắt. Bọn anh
dừng xe lại trước một ngôi nhà xinh xắn nằm cô lẻ, cách xa đường, xin
nước uống và nghỉ ngơi chốc lát. Nhà nhỏ, kiểu nhà sàn, tường gỗ súc và
gỗ ván, mái cao và nhọn phỏng dáng mái nhà rông. Khang trang, giản dị và
thật đẹp. Ấp trại có máy cày, máy nổ, có hệ thống đường ống tưới cho cà
phê nhưng không gây huyên náo. Quanh nhà trồng hoa. Sau nhà là vườn ăn
quả. Gia đình nhỏ ba người: vợ chồng trẻ người Bắc di cư và một đứa con
trai nhỏ chừng sáu bảy tuổi. Khi bọn Kiên với vũ khí, với trang phục
hành quân nhàu nát, lấm lem mồ hôi, bụi dường, bước qua ngưỡng cửa, cả
nhà chỉ đôi chút lo lắng và bối rối nhưng không hề kinh hoảng hay sợ sệt
khúm núm. Thái độ của người chủ vườn và của vợ anh rất đáng mến, ân
cần, tử tế một cách đúng mực đầy tự trọng. TỎ lòng hiếu khách, họ muốn
mời cơm nhưng khi bộ đội từ chối họ chẳng cố nài. Chị vợ đi pha cà phê,
anh chồng thì ngồi tiếp khách. Anh nói năng lễ phép khiêm tốn, có học
thức và thật tình, ngay thẳng.

- Thú thật là du kích chúng tôi
cũng chưa từng nom thấy chứ đừng nói các ông, binh lính Bắc Việt...
nhưng là người làm ăn lương thiện chúng tôi chẳng sợ, - người chủ vườn
nói - chúng tôi trồng cà phê, trồng mía và trồng cả hoa. ông Thiệu thua
thì mặc ông Thiệu. Bởi vì dù là cộng sản các ông cũng là người, cũng
thích hòa bình cũng ưa sự làm ăn yên ổn, vợ con đề huề... Nhờ trời nhờ
đất, nhờ cây, nhờ đôi bàn tay mình, nhờ đồng tiền mình, kiếm ra được chứ
người canh nông ai mà sống nhờ thời được, phải không các ông?

Cũng
may là trong làng trinh sát không hề có mặt những tay lên giọng tuyên
huấn phách lối, uốn nắn người răn dạy người, thành thử bữa ấy trò chuyện
chủ khách thật dễ chịu chỉ xoay xung quanh chuyện làm ăn sinh nhai,
hạnh phúc gia đình, đời sống phong thổ, chẳng một lời đả động đến thời
cuộc và chiến tranh.

Khi chị vợ bưng cà phê lên, không khí càng ấm
cúng, gần gũi. . . Và trong tất cả những điều ấy - trong tiếng trò
chuyện nhỏ nhẹ, phúc hậu, hiền hòa, trong sự bài trí đẹp đẽ của căn
phòng, trong ánh mắt và gương mặt dịu dàng của người vợ, vẻ tự tin bình
thản của người chồng, trong nét mãn nguyện, yên hàn. dư đủ, vô nghĩa lý
của đời sống gia trưởng tách biệt khỏi thời cuộc trong hương vị dễ chịu
của tách cà phê, trong mùi gỗ thông lát tường thơm thơm hăng hăng, trong
sắc tà lùa trên cửa sổ, trong tiếng rì rào của cây cối xanh tươi; thậm
chí cả trong tiếng lách cách từ tốn vô hại của lựu đạn, dao găm cài ở
thắt lưng chạm nhẹ vào thành ghế - đều toát ra cảm giác thấm mệt và một
nỗi buồn ngọt ngào, cay đắng khó tả.

Ra khỏi cái trại ấp êm đềm ấy được một đoạn, ngồi trên xe, Vân "còm'' - Cựu sinh viên kinh tế kế hoạch - đưa ra ý kiến:

-
Đấy, họ sống như thế đấy. ốc đảo bình yên sung sướng thật. Nhưng tớ
nghĩ đến mấy ông thầy của tớ ở trường đại học với những lý luận của các
bố ấy mà hãi hùng. Nếu bọn ta đánh thắng có nghĩa là dọn đường cho mấy
lão ấy tràn vào. Và khi đó thì cặp vợ chồng nọ sẽ biết thế nào là thời
thế mới?

- Ừ. Họ sẽ khốn khổ. Hòa bình, cánh mình có quay trở lại chắc gì họ còn đối đãi tử tế nữa nhỉ?

- Là cái chắc. Trừ phi mày trở lại đây làm chủ nhiệm hợp tác xã?

-
Nếu thế thì thật đáng buồn... Tớ thì lại đang nghĩ ước gì vùng quê của
tớ sau này có được những ấp trại như thế. Cảnh Mộc Châu cũng tựa cảnh
này, nhưng nghèo khổ kinh người.

Mệt mỏi, Kiên ngồi gà gật, không
tham gia vào câu chuyện. Nhưng anh nhớ mãi. Sau này mấy lần trở vào Nam
công tác đã mấy lần anh tính lên thăm miền đất đỏ song chẳng lần nào
thực hiện được. Còn Vân, Từ, Thanh những trinh sát viên đã cùng ghé thăm
vợ chồng nhà ấy thì đều hy sinh cả rồi...

Kể ra thì dường như
chẳng còn gì mờ nhạt hơn một lần dừng chân thoáng chốc như thế trên
đường chiến tranh, song chính những điểm mờ nhạt ấy của ký ức càng về
sau càng quyến rũ hồi tưởng của Kiên. Và có vẻ như càng ngày càng có ý
nghĩa hơn, sâu sắc và thấm thía hơn.

Rồi chẳng thể nào lẩn tránh
được, anh lại nghĩ tới Phương. Trí óc thôi không nhảy nhót nữa và bắt
đầu trôi theo dòng êm ả. Cảm thấy dễ chịu hơn, anh nhắm mắt lại. Nhưng
một cái gì đó lại cứa vào lòng. Đành phải nhổm dậy, châm thuốc hút và đi
đi lại lại trong phòng. Không sao ngủ nổi. Phòng của anh ở bên này và
phòng Phương ở bên kia bức tường hầu như y hệt nhau. Cũng hình vuông,
hai chục thước vuông diện tích với sàn gạch hoa đỏ-trắng giống như bàn
cờ vua, trong góc cũng một lò sưởi xây bằng đá men xanh, cũng một khuông
cửa sổ trông ra phố qua một vòm bằng lăng. Đồ đạc của hai phòng cũng
từa tựa mà bài trí cũng na ná nhau. Có lẽ sự giống nhau ấy là do cùng
chung những nét nghèo nghèo, vẻ đơn côi, thiếu vắng. Dĩ nhiên đó là
quang cảnh và không khí hồi xưa khi còn sinh thời của mẹ Phương chứ về
sau, chứ bây giờ thì đồ đạc cùng bài trí ở phòng nàng đã khác lắm. Mà sự
thay đổi đập vào mắt Kiên đầu tiên khi anh từ miền Nam ra, lần đầu sau
mười năm biệt ly sang thăm phòng nàng: ấy là không còn thấy chiếc dương
cầm màu đen, kiểu cổ, báu vật của mẹ nàng, ngày trước kê kề cửa sổ đâu
nữa.

- Em bán nó đi rồi. Chiếm hết cả buồng. Mà em thì, loài ca kỹ, chơi gì thứ thiên cầm đó nữa.

Đấy
cũng là kỷ vật của cha nàng, một nghệ sĩ dương cầm đã qua đời từ trước
ngày giải phóng Thủ đô. Năm Phương 16 tuổi, mẹ nàng về hưu. Bà là giáo
viên âm nhạc. Hoàn toàn khác với Phương, đứa con gái của báu trời cho -
như bà thường nói, bà nhỏ người, vóc dáng thấp bé, khuôn mặt gầy và hiền
từ, ánh mắt rụt rè, buồn bã, giọng nói yếu ớt hầu như lúc nào cũng thầm
thì.

- Bác có một sở nguyện là hướng Phương vào nghệ thuật cao
quý của cha nó... âm nhạc cổ điển và đàn pianô. . . Bác rất hãi cái đàn
ghi ta và những ham mê ca xướng của nó... Kiên ơi, cháu giúp bác dỗ nó
đừng lê la những hội hè, những sân khấu với những liên hoan như thế nữa.


lẽ do "gen âm nhạc" và nhất là do được mẹ kèm dạy từ nhỏ, Phương đàn
pianô rất khá, nhưng càng lớn Phương càng biếng tập. "Dương cầm nó quá
trang trọng, quá cao sang và cồng kềnh nữa, mà chúng mình đang ở thời
đại loạn, phải gọn nhẹ, sắc bén thì mới nhập cuộc được". Phương tuyên bố
thế. Kiên cũng đồng tình. Chẳng sành điệu gì về âm nhạc cổ diễn, anh
thích nghe Phương hát hơn. Nàng hát tuyệt hay. Nhưng mẹ nàng thì nghĩ
khác. Có lần anh nghe bà thì thầm than thở, triết lý:

- Tính cách
của Phương cháu ạ, y như ba nó. Về bản chất dòng họ nội nó là có một
thiên hướng hoàn hảo kỳ lạ. Bất kỳ phẩm chất gì cũng đạt tới mức hoàn
hảo trọn vẹn, đến nỗi bác phải tin con gái bác là một dạng thánh nhân,
một tiên nữ. Nhưng sự hoàn mỹ này là mong manh vô cùng, vì là sự hoàn mỹ
do bẩm sinh chứ không phải do trường đời... Những tâm hồn trong trắng
từ thuở lọt lòng như con gái bác là để dành cho âm nhạc thượng tầng.
Trượt ra khỏi cây đàn những tâm hồn như con gái bác sẽ bị trường đời vò
nát. Bác biết. Mà đây là bác nói tới những trường đời ít gai góc nhất.
Nói gì tới trường đời loạn lạc mà Phương nó luôn ham muốn dấn thân vào.
Khi đó cái thiên bẩm trong trắng về hoàn thiện tuyệt mỹ sẽ trở thành tai
hại một cách không thể tưởng tượng được. Cháu hiểu không? Hội họa, thơ
ca, và cả nghề ca sĩ nữa đều tốt đẹp nhưng không tốt đẹp đối với Phương.
Với nó chỉ một môi trường sống và một môi trường nghệ thuật duy nhất để
tồn tại được trong thời buổi kinh khủng sắp tới là âm nhạc của những
thiên tài... Bác lo lắm. Bác lo đủ mọi điều. Bác rất quý ba cháu nhưng
bác rất sợ khi Phương nó ham mê nghe ba cháu đến thế và nó bị quyến rũ
bởi những bức tranh dễ sợ như thế của ba cháu. Và bác sợ nhất là cái ước
mơ nhập thân của nó vào cuộc sống. Trông bề ngoài thì thế đấy nhưng
Phương nhà bác nó chịu đựng làm sao nổi những thực cảnh của thời buổi
này cơ chứ. Cháu hiểu không?

Ở cái tuổi mười sáu, mười bảy Kiên
hiểu sao được. Anh chẳng hiểu gì hết, nhưng nhiều năm về sau: anh có
nhiều dịp để nhớ lại những lời của mẹ Phương đã nói khi xưa. Anh ngẫm
nghĩ và hiểu rằng hồi đó mẹ nàng đã linh cảm được nhiều điều. Nhưng anh
cũng biết, nếu như bấy giờ cả anh cả Phương hiểu được ý của mẹ nàng thì
cũng không thể sống khác đi được. Bởi vì ngay sau đấy là chiến tranh, và
đã là chiến tranh thì còn nói được gì nữa.

Và đó cũng là vận hội
đã để lỡ. Vận hội của một đời sống tinh thần cao cả, hoàn mỹ, của một
đời sống văn hóa thiên bẩm, của những giá trị nhân phẩm bị bỏ phí. Thời
gian đầu gặp lại nhau sau chiến tranh, trong những tháng ngày tái hợp
hầu như đầy sung sướng ấy, chiều lòng Phương, Kiên đã đôi lần phải buộc
mình đến nhà hát để xem công diễn những vở ca kịch mà nàng có sắm vai.
Thật khó mà tả hết nỗi cực đã phải chịu đựng trong những tối như thế.
Đại để là chỉ vài phút sau khi tấm màn nhung ràng rạc rẽ đôi ra, anh
không còn biết đưa mắt đi đâu vì xấu hổ, vì ngượng thay cho nàng, cho
các vai diễn khác, cho biên kịch, cho đạo diễn, cho các nhạc công. cho
tay họa sĩ dựng phông, cho người phụ trách hóa trang, cho bản thân mình,
cho khán giả. (Ấy vậy mà thú thực vẫn không khổ sở bằng khi phải chứng
kiến sân khấu nhạc nhẹ). Tất cả, những gì anh đang phải cụp mắt xuống để
khỏi phải nhìn đều là sự phô bày đến tột độ cái bất tài, cái thô thiển
nhảm nhí, cái kiêu hãnh trắng trợn, cái thảm hại vô vị của nền nghệ
thuật đặc trưng cho đời sống tinh thần thời hậu chiến.

Rình một
dịp thuận tiện là Kiên lẳng lặng bỏ đi ngay. Đâm bổ ra ngoài phố. Anh
ngồi xuống ở một ghế ẩm sương khuất trong bóng tối ở mé bên nhà hát. Anh
ngồi đấy, chờ cho đến lúc tan buổi diễn. Mọi người ra về tiếng bước
chân dồn dập, tiếng cười nói, tiếng tranh cãi bàn tán và anh nghe thấy
giọng nói của nàng, tiếng cười của nàng. Thương Phương, lòng anh se
lại... Sau khi bị sa sút vì chiến tranh một con người có thể tạo dựng
lại cơ nghiệp, có thể hồi phục lại mức sống hồi trước, nhưng những tài
sản tinh thần, những giá trị tinh tế của đời sống nội târn một khi đã bị
đánh sập, bị đứt khúc ra thì ai là người có được cơ hội lần về với thuở
ban đầu? Anh nhớ một ngày đã xa lắc trong quá khứ, cái ngày ngay trước
hôm anh lên đường nhập ngũ. Buổi tối, anh chào từ biệt mẹ Phương. Bà
đang ốm, ngồi bất động trong ghế bành, nhợt nhạt, hầu như chẳng nói được
gì với anh, chỉ lặng lẽ khóc. Đến khuya khi Kiên từ tạ cúi xuống hôn
lên đôi bàn tay yếu ớt của bà, bà hôn vào trán anh, nhẹ vuốt tóc anh và
bảo với Phương:

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3