01 Phần mở đầu

Giai
đoạn cuối đời nhà Thanh là những năm tháng thời thế thay đổi loạn lạc, đầy biến
động, cương thường bại hoại, luật pháp lỏng lẻo, trộm cắp cướp giật nhiều không
kể xiết. Chỉ riêng hai thành phố Bắc Kinh và Thiên Tân đã xuất hiện bốn tên đạo
tặc lừng danh, bọn chúng là hung thủ thực hiện bao vụ trọng án kinh thiên động
địa, gây hiểm họa kinh hoàng cho dân chúng.

Câu
chuyện được lưu truyền trong dân gian đều không tránh khỏi có chút thay hình
đổi dạng, thêm thắt ít nhiều. Truyền kỳ về bốn tên đạo tặc tài ba có lẽ cũng
vậy, chúng trở thành đề tài nóng hổi để bàn dân thiên hạ mang ra bàn luận khắp
nơi, từ thôn cùng ngõ hẻm đến các tửu lầu, trà quán; thậm chí người ta còn sáng
tác rất nhiều khúc hát, lời vè, truyện truyền miệng về chúng, các bài báo lá
cải cũng liên tiếp đăng tải vô số chương hồi giật gân về những hành động mới
nhất của bốn tên gian tặc này. Những chuyện về chúng được đồn đại rộng rãi đến
nỗi người người đều tỏ, ngõ ngõ đều tường. Nhưng trên thực tế, cuộc đời của bốn
tên dạo tặc đó không nhuốm đầy màu sắc thần bí như trong truyền thuyết, chỉ có
điều để được nhân gian đồn thổi ghê gớm như vậy chắc hẳn chúng cũng phải có
chút bản lĩnh ưu việt, có ý chí không chịu an phận thủ thường, có những tài
năng mà người thường không thể so bì.

Tên
gian tặc đầu tiên, cũng là kẻ thành danh sớm nhất, phải kể đến Khang Tiểu Bát.
Khang Bát Gia kỳ thực không thể coi là bậc đạo tặc kỳ tài, tên này nhà rất
nghèo, bản thân là kẻ vô lại, ăn không ngồi rồi, sống ở phía đông kinh thành,
trong khu doanh gia họ Khang. Trong một lần tình cờ, hắn đánh cắp được khẩu
súng lục trên người viên công sứ Anh, từ đó hắn ngông cuồng đến mức quên cả
mình là ai, đi đến đâu cũng cướp của giết người.

Khang
Tiểu Bát tâm địa đen tối, ra tay tàn độc, hễ thấy ai không thuận mắt là hắn lập
tức bóp cò nổ súng, trên lưng hắn không biết đã cõng bao nhiêu mạng người. Đơn
cử có một lần, Khang Tiểu Bát đi cắt tóc, đang cắt dở chừng hắn quay lại hỏi
người thợ: “Ngươi đã nghe tiếng Khang Tiểu Bát bao giờ chưa?”

Anh
thợ cắt tóc thực thà thuận miệng đáp: “Biết chứ, tên tiểu tử đó chẳng phải thứ
gì hay ho.”

Khang
Tiểu Bát trong lòng ấm ức lắm nhưng không nói ra, lại hỏi: “Sao lại chẳng phải
thứ gì hay ho? Ngươi quen hắn à?”

Anh
thợ lại bảo: “Không quen, nghe thiên hạ nói hắn chỉ giỏi làm những chuyện xằng
bậy”

Nghe
tới đó, Khang Tiểu Bát quay người lạnh lùng thả từng tiếng: “Được, vậy hôm nay
ta sẽ cho ngươi biết ông đây là ai!”

Lời
chưa dứt, hắn đã rút súng ra, sáu tiếng nổ đanh sắc vang lên, anh thợ cắt tóc
lăn ra chết tại chỗ.

Khang
Tiểu Bát giết người như giết rận, tội ác chất chồng như núi. Tuy tâm địa tàn ác
nhưng hắn lại là kẻ vô cùng nhát gan, càng giết nhiều người hắn càng hay sinh
nghi, lúc nào cũng lo sợ có người đang ngầm tìm cách báo thù. Một mình đi trong
đêm tối, chỉ cần nghe thấy tiếng bước chân đằng sau, không thèm hỏi là ai, hắn
lập tức quay đầu rút súng. Khang Tiểu Bát làm mưa làm gió suốt một thời gian
dài, cuối cùng cũng bị tuần bổ tóm sống và xử tử, đầu hắn bị treo trên cổng chợ
cho thiên hạ bêu rếu.

Thời
Dân quốc có không ít kẻ ngồi rỗi hóng chuyện, thích loan tin giật gân để kích
thích lòng hiếu kỳ của dân chúng, đã cố tình liệt Khang Tiểu Bát vào danh sách
những hảo hán lục lâm, rồi viết hẳn vào một kịch bản mới cho hắn. Trong nhiều
cuốn tiểu thuyết truyền kỳ hạng ba hoặc tiểu thuyết chốn trà lầu, thư trường
cũng có nói đến hắn. Không ngờ trong lời hát, lời kể, hắn đã được miêu tả thành
một hiệp khách trộm đạo võ nghệ cao cường, sánh ngang với các bậc hào kiệt lục
lam như Triệu Tư Hổ, Đậu Nhĩ Đôn…

Kẻ
xếp thứ hai trong tứ đại gian tặc thời bấy giờ là Tống Tích Bằng. Thời điểm tên
này thành danh cũng gần kề với thời điểm Khang Bát gia náo loạn Bắc Kinh. Có
điều, Tống Tích bằng không phải người Bắc Kinh chính gốc, tổ tiên tám đời nhà
hắn sống gần chùa Vệ Nam
ở Thiên Tân. Từ nhỏ, Tống Tích Bằng đã theo một bậc lão nhân người Hồi hàng
ngày luyện võ. Hắn được trời phú cho sức khỏe hơn người, có thể dễ dàng nâng
được tảng đá mấy chục cân bằng một tay, rồi đủng đỉnh dạo quanh sân một vòng mà
mặt không hề biến sắc. Hắn có một cơ thể rắn như thép, nội công thâm hậu, trên
người hắn hằn lên một vết sẹo trắng do đao chém, một nốt chấm trắng do súng
bắn. Mọi người tặng hắn biệt hiệu “Thạch Phật tống”. Tống Tích Bằng từng làm
tiêu sư trong tiêu cục một vài năm. Sau này, khi Sơn Đông gặp loạn Nghĩa Hòa
Đoàn, dân luyện võ mọi ngả đều tập trung lại giơ cao ngọn cờ “phục Thanh diệt
ngoại xâm” hừng hực khí thế tiến vào kinh, Thạch Phật Tống cũng tham gia hoạt
động, rồi nhờ vào chút võ nghệ hơn người nên hắn trở thành đại sư huynh.

Năm
Canh Tý, cuộc nổi loạn bị dập tắt, Nghĩa Hòa Đoàn bị trấn áp tàn khốc, nhiều
người bị quan phủ bắt giữ chém đầu. Tống Tích Bằng may mắn chạy thoát và trở
thành thảo khấu thổ phỉ. Hắn tập hợp được một nhóm thủy tặc, đến Thiên tân cướp
thuyền Diêm đạo (Một chức quan thời nhà
Thanh, phụ trách quản, kiểm tra lương thực, muối, gạo…)
, bên trong chất đầy
quan ngân. Loại bạc này thời xưa gọi là “hoàng cống”, mỗi thỏi một trăm lượng,
mười thỏi đựng vào một ống. Tống Tích Bằng tinh thông phi tiêu, bách phát bách
trúng. Hắn vung tay phi tiêu mấy phát, liền hạ gục năm vị quan quân, rồi cướp
đi ba mươi vạn lượng “hoàng cống”. Tống Tích Bằng tự biết mình gây đại họa tày
trời, nên sau khi phân chia số bạc cướp được cho đồng bọn, liền vội vàng chạy
trốn đến Thương Châu mai danh ẩn tích.

Một
năm sau, khi Tống Tích Bằng nghĩ sóng gió đã qua, mọi người đã quên chuyện cũ
liền âm thầm trở lại Thiên Tân tìm người thân. Nào ngờ, hắn vừa lộ mặt lập tức
bị người của cục tra xét để mắt tới. Lần này, hắn muốn cao chạy xa bay cũng
chẳng còn đường thoát thân, nên đành phải liều mạng ra tay giao đấu nhưng ít
không địch nổi nhiều nên hắn nhanh chóng bị tuần cục vật ngửa ra đất, bắt sống
giải về phủ xử tội.

Vụ
án Tống Tích bằng làm kinh động đến cả triều đình, khiến Từ Hy thái hậu ngồi
trong Tử Cấm Thành ngồi không cũng cảm thấy khó chịu. Nghe nói chòi canh Thiên
Tân đã bắt được tên đại tặc, thái hậu liền muốn ra xem rốt cục hắn là anh hùng
hảo hán phương nào. Lý tổng quản lệnh cho thị về ngự tiền áp giải Tống Tích
Bằng, tay bị khóa còng, chân đeo xích, đến trước đại điện diện kiến Lão Phật
Gia thái hậu.

Nhưng
cứ thử tưởng tượng xem, tù nhân mà mắc phải trọng tội như thế, nay bị rơi vào
bước đường này thì tinh thần làm sao còn ngùn ngụt khí thế như trước được? Vì
vậy, Từ Hy thái hậu sau khi xem mặt hắn xong thì cảm thấy vô cùng thất vọng,
người chỉ lạnh nhạt nói một câu: “Kẻ to gan gây họa tày đình chẳng qua chỉ thế
này thôi sao?”

Mấy
hôm sau, Tống Tích Bằng bị tuyên xử trảm, quân lính giải hắn đến pháp trường
chém đàu thị uy dân chúng, rồi treo trên cổng thành suốt hai tháng ròng.

Đệ
tam gian tặc là kẻ gây náo loạn Bắc Bình vào những năm đầu thời kỳ Dân quốc,
tên hắn là Yến Tử Lý Tam.. Nghe nói Lý Tam Gia thuở nhỏ bần hàn, từng gọt đầu
xuất gia làm hòa thượng nương nhờ cửa Phật. Sau này thành nghệ, hắn mới hoàn
tục trở lại. Bình sinh Lý Tam Gia rất giỏi khinh công, có thể thi triển tuyệt
kỹ bí truyền “Đăng bình độ thủy”, đạp bèo qua sông như người ta đi trên đất
bằng, hắn đi trên tường, bay quan mái nhà, thi triển khinh công ra vào cổng
thành mà không để lại dấu tích, dễ dàng chẳng khác nào chủ nhân ra vào bằng
cổng chính. Trình độ khinh công của Lý Tam Gia thậm chí ngang ngửa với thần
trộm Giang Nam Triệu Hoa Dương. Chỉ trong một đêm, hắn có thể liền tay trộm đồ
trong tám cửa hiệu lớn, trước khi bỏ đi còn để lại phi tiêu “Yến tử” làm ký
hiệu. Trong một thời gian ngắn, tiếng tăm của hắn vang khắp Bắc Kinh.

Trên
thực tế, Yến tử Lý Tam không hẳn thần thông được như đồn đại, có điều hắn quả
thực có một vài bản lĩnh đáng nể. Tên trộm này rất giỏi trèo tường, đi lại trên
mái nhà vô cùng nhanh nhẹn. Khi hành sự, hắn thường đeo năm sáu đôi tất để di
chuyển nhẹ nhàng và không bị trơn trượt, để lúc đáp xuống đất cũng không gây
tiếng động. Không những thế, Yến tử Lý Tam còn là người có tố chất làm kẻ trộm,
khôn ngoan, nhanh nhẹn hơn người. Nhiều lần quan phủ vây bắt nhưng chưa lần nào
tóm được hắn.

Đáng
tiếc thay, Lý Tam Gia lại bị nghiện nặng, ngày nào cũng phải hít hết một chầu
“Cao Phù Dung” thượng hạng thì mới có tinh thần hành sự.

Cao Phù Dung: là hỗn hợp nấu thành cao
của bốn loại thuốc lá phù dung, du thục, sinh đại hoàng và đại bì tiêu, có tác
dụng giải độc, chống sưng viêm giảm đau.

Một
lần coi như hắn gặp vận xui, khi trong lòng nghĩ: “nơi nguy hiểm nhất chính là
nơi an toàn nhất”, nên hắn cả gan trốn trên nóc nhà phòng xử án đội tuần tra
nằm nghỉ, không ngờ đúng lúc này cơn nghiện tự dưng phát tác. Không thể nhịn
được, hắn liền bật lửa châm điếu thuốc đang giắt trong mình.

Kết
quả không may là hắn bị một nhóm tuần tra đang đi tuần phát hiện, khi viên đội
trưởng nhìn thấy trên nóc nhà có một đốm sáng bỗng nhiên lóe lên giữa màn đêm
dày đặc. Lòng cảm thấy bất thường, viên đội trưởng đoán định chắc hẳn có gian
tặc đang ẩn mình bên trên, nên lập tức lặng lẽ bố trí quân lính bao vây tứ phía
ngôi nhà, quyết tâm bắt bằng được ếch trong chum. Yến Tử Lý Tam lại không biết
bay như chim yến, nên đành bó tay chịu trói.

Trời
vừa hửng sáng, đội tuần tra liền áp giải phạm nhân vào nhà lao Nam Thành. Quan
phủ lo sợ ngộ nhỡ Lý Tam lại giở chiêu “Thoát cốt pháp” co xương để đào tẩu,
nên sau khi đánh gẫy hai chân hắn, liền rút hai sợi gân bên trong ra rồi dùng
xích sắt xuyên qua hai xương bánh chè khiến hắn trở thành người tàn phế. Lý Tam
gia vừa chịu đau đớn về thể xác, vừa bị cơn nghiện dày vò nên không kịp đợi đến
lúc hành hình, hắn đã về âm tào địa phủ gặp Diêm Vương trước một bước.

Tên
giặc cỏ cuối cùng trong bộ tứ gian tặc, kỳ thực là bộ đôi anh em song sinh,
huynh trưởng tên Điền Hóa Tinh còn được mệnh danh là “Địa Lôi Cổn”, nhị đệ Điền
Hóa Phong, mệnh danh “Tọa Địa Pháo”. Thời điểm huynh đệ họ Điền nổi danh cũng
chính là thời điểm mà đội quân phiệt huy động một lực lượng lớn đi khai quật
lăng mộ các vua chúa ngày xưa. Khi đội quân đào phá đến Cảnh Lăng cung của
hoàng đế Khang Hy, cửa mộ vừa bị phá nổ, nào ngờ một dòng nước màu đen âm u
lạnh buốt từ dưới lòng đất ùng ục trào lên, mặc cho đội quân ra sức hút vẫn
không thể hút cạn. Đội khai quật không thể xâm nhập vào bên trong, cuối cùng
đành tạm thời từ bỏ.

Nào
ngờ sự việc này lọt đến tai đám sơn tặc, kẻ cầm đầu chính là Điền Hóa Tinh. Hắn
là người tộc Kỳ, đã luyện thành chân truyền “Thập Tam Tiết thảng địa tiên” (thế võ sử dụng vũ khí là roi 13 khúc, khi
thi triển thế võ này, trọng tâm thân người thường áp sát mặt đất)
, tự cho
mình gan dạ anh hùng hơn người, thế gian không có chuyện gì hắn không dám làm.
Có lẽ bị mê muội bởi những khúc kịch, xướng, thư, thuyêt thời cổ do dân gian
truyền lại, nên Điền Hóa Tinh luôn đinh ninh câu chuyện “Dương Hương Vũ ba lần
ăn trộm chén Cửu Long” là có thật. Theo truyền thuyết, hoàng đế Khang Hy có một
bảo vật vô giá tên gọi là “Cửu Long Bôi”. Đó là chiếc chén ngọc vô cùng lung
linh huyền ảo, chạm khắc vô cùng tinh xảo, công phu không gì sánh nổi, chỉ cần
đổ đầy mỹ tửu, đáy chén tức khắc sẽ hiện ra chín con rồng thiêng bay lượn uốn
mình bội phần sinh động, sống động như hiện ra trước mắt, càng nhìn càng giống
thật, nên thế nhân gọi cảnh tượng ly kỳ này là “Chín rồng quậy biển”

Điền
Hóa Tinh nghe các bậc nguyên lão trong tộc kể lại, chiếc chén ngọc ngoài đời
không ly ký như trong truyền thuyết, nhưng quả thực chất ngọc vô cùng trong
sáng, mịn màng, tỏa ánh lung linh, kỹ nghệ trau chuốt tinh tế phi phàm khiến
người xem không thể rời mắt. “Cửu Long Bôi” tuyệt đối xứng danh là báu vật
hoàng gia hiếm có trên đời. Không những vậy, chén ngọc quả thực được chôn theo
chủ nhân ở Cảnh Lăng.

Điền
Hóa Tinh nghe chuyện lòng tham trỗi dậy, hắn đem chuyện trộm mộ bàn luận với
đám thuộc hạ rồi nói: “Cơ hội trước mắt đúng là thời cơ giúp ta phát tài, tuyệt
đối không thể để lỡ, mất rồi không thể tìm lại. Nếu huynh đệ chúng ta trộm được
những báu vật quý giá ở Cảnh Lăng, tất cả những thứ khác mỗ không cần, mỗ chỉ
cần chiếc chén Cửu Long chôn cạnh thi thể vua Khang Hy, còn lại anh em huynh đệ
muốn chia nhau thế nào thì tùy ý.”

Mọi
người đều đồng lòng nhất trí. Tối hôm đó trăng sáng sao thưa. Đội trộm mộ đem
theo các loại dụng cụ xâm nhập khu lăng mộ. Hội Điền Hóa Tinh thông thạo địa
hình ở đây hơn đội quân phiệt nhiều. Không tốn bao nhiêu công sức, bọn họ đã
tìm thấy vị trí ngôi mộ, chặn đứng mạch nước, rồi mạo hiểm xông vào bên trong
lăng tẩm. Bọn Điền Hóa Tinh định cậy nắp từng chiếc quan tài của hoàng đế và
các phi tần ra để tìm kiếm bảo vật, ai ngờ khi Điền Hóa Tinh vừa bật một nắp
quan tài lên, ghé đèn vào bên trong nhìn thì thấy người chết nằm trong quan tài
trừng trừng nhìn hắn ngoác miệng cười.


câu: “Kẻ trộm chột dạ, kẻ đào mộ sợ ma” nên cũng có thể do Điền Hóa Tinh tự
mình dọa mình, nhưng trong ánh nến chập chờn lúc ấy, không ai rõ rốt cục đã xảy
ra chuyện gì, chỉ biết sau cú hoảng hồn đó, Điền Hóa Tinh sợ đến nỗi hai chân
mềm nhũn quỳ gục trên đất., sắc mặt tái nhợt, hai hàm răng va vào nhau lập cập,
run rẩy đến rúm ró, canh ba thì được đồng bọn khênh về nhà, muốn cậy miệng hắn
để đút một thìa canh nóng cũng không được, chưa đến năm ngày sau thì hắn rũ áo
chầu trời.

Tuy
Điền Hóa Tinh đã bước chân vào địa phủ, nhưng nhị đệ của hắn là Điền Hóa Phong
vẫn coi nhẹ sống chết, đêm hôm sau lại lần mò vào địa cung Cảnh Lăng. Cuối
cùng, hắn cũng trộm được “Cửu Long Bôi”, nhưng khi mở nắp quan tài, đột nhiên
một ngọn lửa xanh từ bên trong vụt phun ra, thiêu mù một con mắt của Điền Hóa
Phong, và dung mạo của hắn cũng bị hủy hoại một nửa. từ đó, hắn bị mọi người
đặt cho biệt danh “Mặt quỷ”

Chưa
đầy nửa năm, trong đó có cả “Mặt quỷ” Điền Hóa Phong đều bị quan phủ tóm sống ở
Bảo Định, Hà bắc rồi bị xử bắn, tất cả châu báu ăn trộm đều bị tịch thu. Nhưng
số báu vật lấy được ở Cảnh Lăng để trong quan khố cũng không cánh mà bay, tới
giờ vẫn không ai rõ tung tích, để lại một mớ nghi vấn.

Bốn
tên đại tặc vừa kể trên tuy cũng xuất thân lục lâm, cũng gây ra những vụ án
kinh thiên động địa, nhưng nếu luận về bản lĩnh và kinh nghiệm thì cùng lắm
chúng cũng chỉ thuộc hàng vai phụ, mà chẳng qua những câu chuyện lưu truyền
rộng rãi về chúng đã đượcc dân gian thêu hoa dệt gấm, thêm thắt nhiều yếu tố ly
kỳ, nên chúng mới trở thành những anh hùng thảo khấu hiệp nghĩa.

Thủ
thuật lục lâm phân chia thành nhiều đẳng cấp cao thấp khác nhau, kẻ cao siêu ăn
trộm bảo vật trong nội phủ, kẻ trung đẳng thì chôm chỉa vật báu trong đại viện,
kẻ cấp thấp thì ăn cắp vặt của nả của thường dân. Nhân vật thực sự có bản lĩnh,
tài năng thường bị mai một giữa  đồng cỏ
trần ai, không cần lịch sử lưu lại tông tích. Trước đây, ở khu vực hồ Động Đình
thuộc tỉnh Hồ Nam, có một nhóm đạo tặc tên là “Nhạn đoàn”, bắt đầu hành hiệp
giang hồ vào những năm cuối triều đại Thanh, dưới quyền một thủ lĩnh họ Trương.
Người này có biệt danh là “tặc ma”, trước đây từng làm quan trong quân đội.
Nghe nói người họ Trương này võ thuật cao siêu, quỷ thần khó lường, sánh ngang
tầm với những nhân vật thời cổ đại như: Bạch Viên Công, Hồng Tuyến Nữ, Côn Luân
Nô.

Thời
Dân quốc, gia tộc họ Trương truyền đến đời Trương Hồ Lô. Do tiền nhân nhiều đời
trước tích cóp được nhiều của cải, gia tộc có nền móng khá vững vàng, nên họ
Trương sớm đã rửa tay gác kiếm, không muốn sử dụng những tuyệt kỹ gia truyền
nữa mà trở về cố hương, mở mấy cửa tiệm ở Bắc Bình, Thiên Tân làm ăn buôn bán
như những người bình thường khác.

Trước
đây, những hộ giàu có trong nhà thường dựng miếu thờ “trạch tiên” (thần trấn tà, giữ cho gia thất được bình an).
Trạch tiên có rất nhiều loại, tùy phong tục tập quán từng nơi khác nhau mà
phụng thờ, có nơi thờ thần Ngũ Thông, có nơi thờ vàng bạc, châu báu, ngọc quý,
còn gia tộc họ Trương chỉ thờ một “Đồng Miêu”. Đó là tượng con mèo làm bằng
đồng linh thiêng dị thường. Nào ngờ khi Trương Hồ Lô chuyển nhà lại vô tình
đánh mất “trạch tiên”, kết quả cả nhà không tránh khỏi tai họa giáng đầu, gia
đình từ đó dần dần suy vong.

Người
xưa có câu rất hay: “Cùng nghề là oan gia”, lúc bấy giờ ở Bắc Bình tiệm Thịnh
Nguyên là cửa tiệm lớn nhất trong thành. Chủ tiệm này họ Mục, tính tham lam vô
độ, lại còn câu kết với quan phủ. Họ Mục vốn đố kỵ với nhà họ Trương nên từ lâu
đã coi Trương Hồ Lô là cái gai trong mắt. Không những thế, hắn còn vô tình biết
được trong nhà kho gia đình họ Trương có rất nhiều đồ cổ quý hiếm, tất cả đều
là những báu vật kỳ lạ hiếm có trên đời, được ăn cắp từ mộ cổ, lăng tẩm trong
núi sâu hoặc trong đại viện hoàng cung. Thế là hắn liền nổi lòng tham, lập mưu
chiếm phần sản nghiệp này. Hắn đã nghĩ trăm phương ngàn kế để hãm hại liền mấy
mạng người nhà họ Trương. Hai nhà kể từ đó nuôi thù kết oán rất sâu sắc.

Khi
ấy, Trương Hồ Lô còn là một thanh niên sung sức, tính khí nóng nảy, không chịu
được cảnh bị kẻ khác bắt nạt, liền nhân một đêm gió cao trăng mờ quyết định trở
thành kẻ ám sát. Ông ta lẩn vào nhà họ Mục, liền một mạch giết sạch mười một
mạng người, gồm cả già trẻ gái trai. Tất cả xác chết đều bị Trương Hồ Lô cắt
phăng thủ cấp. Lúc đi ngang qua đồn cảnh sát, họ Trương cũng tiện tay chặt
phăng luôn cái đầu của viên cảnh sát trưởng, rồi thi triển tuyệt kỹ “Bọ cạp đảo
đầu” leo tường thành rồi xuyên tim mười hai cái thủ cấp đang ròng ròng máu tươi
thành một xiên, treo lủng lẳng trên gác mái lầu canh ở cổng thành. Cuối cùng,
Trương Hồ Lô còn cảm thấy vẫn chưa hả giận, liền phóng hỏa thiêu rụi luôn tiệm
Thịnh Nguyên thành tro mới chịu dừng tay.

Vụ
án Trương Hồ Lô đã gây chấn động khắp vùng, và họ Trương tự biết gầm trời này
không còn chỗ dung thân. Theo thông lệ lục lâm từ trước đến nay, nếu ai chẳng
may gây nên đại họa, thì chỉ còn cách cao chạy xa bay mới tránh khỏi lệnh truy
nã vượt đại dương của quan phủ, nên những kẻ rơi vào tình thế ngặt nghèo như
Trương Hồ Lô chỉ có mấy con đường để chọn, hoặc là “xuống Nam Dương”, hoặc là
“đi Tây Khẩu”, nếu không phải “vào Quan Đông”. Trương Hồ Lô đành cam tâm bỏ lại
tất cả gia sản, chỉ vội vã cõng mẹ già chạy thẳng một mạch đến Sơn Đông, rồi
vượt biển trốn ra quan ngoại. Từ đó, ông ta mai danh ẩn tích, đổi họ thành “Tư
Mã” theo họ mẹ. Vì kế sinh nhai, Trương Hồ Lô lên núi làm sơn tặc nối nghiệp tổ
tông ngày trước.

Sau
này, cả nhà họ Trương chuyển đến vùng Đông Bắc, thực hiện theo chính sách cải
cách ruộng đất. Khi liên quân Dân chủ tiến hành chiến dịch tiễu phỉ, Trương Hồ
Lô và đồng bọn liền bỏ vũ khí quy hàng và được bộ đội thu nạp vào tổ chức tham
gia chiến dịch xuống Giang Nam bảo vệ Lâm Giang, cùng đại quân từ bắc tiến vào
nam, đánh chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.

Trong
suốt thời gian đó, tuy Trương Hồ Lô không lập được công trạng lớn lao, nhưng
cũng trải qua muôn vàn gian khổ. Có điều họ Trương xuất thân từ lục lâm, lý
lịch không trong sạch nên cuối cùng vẫn không được trọng dụng. Sau giải phóng,
họ Trương được điều động đến Trường Sa làm việc, từ đó an cư lạc nghiệp, lấy vợ
sinh con, đến năm 1953 thì đẻ được một đứa con trai. Trương Hồ Lô không dám
nhắc lại chuyện cũ, sợ rằng nếu nói ra sẽ liên lụy đến cả nhà, gây nên những
phiền phức không cần thiết, vì thế khi đặt tên cho con, ông liền viết vào sổ hộ
khẩu ba chữ: “Tư Mã Khôi”.

Những
kẻ xuất thân lục lâm, đại bộ phận đều làm những nghề phạm vào lệnh cấm của quan
phủ, quanh năm lăn lộn nơi đầu súng ngọn giáo, chẳng biết khi nào phải đền cả
tính mạng. Trương Hồ Lô vô cùng tin tưởng và bái phục “Kim Điển tiên sinh”, một
vị thầy tướng số có tài suy đoán hung cát họa phúc rất chính xác. Vì thế,
Trương Hồ Lô đã đích thân về tận quê cũ mời thầy Kim Điển đến xem tướng cho con
trai. Theo cách nói của người xưa, mệnh đứng im còn vận luôn chuyển động, cái
tên là biệt hiệu suốt đời của một người, nên tên tất phải hợp với bố cục trong
mệnh thì mới có thể đem đến vận may. Tuy rằng hậu bối nhà họ Trương từ nay phải
mai danh ẩn tích, nhưng vẫn nên xem xét cẩn thận mới được.

Lúc
bấy giờ tuy là thời đại mới, nhưng Trương Hồ Lô suy cho cùng vẫn là kẻ xuất
thân từ tầng lớp thấp, quan niệm còn khá cổ hủ nên tuyệt đối tin tưởng vào thầy
tướng Kim Điển tiên sinh; hơn nữa lòng tin đó vô cùng kiên cố, ăn sâu vào tận
xương tủy, nên mặc cho vật đổi sao dời, lòng tin vẫn khó lòng dịch chuyển.

Chỉ
thấy thầy Kim Điển lắc lư đầu mấy cái rồi bấm đốt  ngón tay hồi lâu, cuối cùng tính ra số mệnh
của đứa bé này là Thổ, tức mệnh Thổ. Theo cách nói trong Thiên Can tám chữ, đứa
bé mệnh “Trung ương mậu dĩ thổ” vừa vặn liệt vào hàng thứ tám, nếu sắp xếp thứ
tự theo ngôi vị tám con vật thần thánh, thì vị trí thứ tám chính là khôi gia,
tức con chuột. Trước đây, các đoàn kịch thường thờ cúng “Khôi bát gia”, để đề
phòng ông chuột gặm nhấm hết trang phục đạo cụ diễn xuất của họ. Dân gian tục
truyền “Khôi bát gia mệnh thổ”, vì thế Kim Điển tiên sinh liền đặt tên cho đứa
bé là Tư Mã Khôi.

Trương
Hồ Lô nghe xong kính phục đến nỗi không hạ nổi lưỡi xuống, cứ há miệng khen tên
hay. Người nào lần đầu nghe tên này thì lại tưởng chữ Khôi trong từ Tư Mã Khôi
có nghĩa khôi ngô, sáng láng; ai ngờ chữ Khôi này lại mang ý khôi cốt, than
tro, hắc ám. Tóm lại, chữ Khôi đó đúng là đặt rất chuẩn xác, những mong rằng
tương lai đứa bé này phải làm nên công trạng gì to lớn mới hay.

Trương
Hồ Lô rốt cuộc vẫn là kẻ xuất thân từ lục lâm, nên ông cho rằng những thứ được
dạy trong trường học thời đại mới chẳng có mấy tác dụng thực tế, hơn nữa, lại
không muốn bí kíp tuyệt kỹ của tổ tông để lại bị thất truyền, nên vài năm sau
ông liền gửi Tư Mã Khôi đến Bắc Kinh theo một vị ẩn sĩ tên là “Văn Võ tiên
sinh” để học nghệ. Từ đó Tư Mã Khôi bắt đầu khổ công học hành, canh năm tỉnh
giấc, nửa đêm bò dậy, thức thông đêm qua hai lần thay dầu đèn, cuối cùng cũng
học được một chút chân truyền. Khi Tư Mã Khôi mười ba tuổi thì sư phụ cưỡi gió
quy tiên, thi thể chôn ở núi Bạch Mã ngoại ô Bắc Kinh, đến lúc này cuộc đời cậu
bắt đầu chuyển sang ngã rẽ khác.

Tập
I “Chăm Pa ẩn sương” của bộ truyện Mê Tông Chi Quốc kể về những trải nghiệm ly
kỳ của Tư Mã Khôi khi chạy trốn kẻ địch đã vô tình tham gia một đoàn thám hiểm
bí ẩn và thoát khỏi bàn tay tử thần từ khu rừng rậm nguyên sinh huyền bí. Có
câu: “Người mất đầu khó chạy, câu mất đầu khó thông”; về việc Tư Mã Khôi vì sao
lại gia nhập đoàn thám hiểm thì phải bắt đầu kể từ đây. Mở đầu có phần chi tiết
như vậy cốt là để độc giả hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3