Nàng công chúa gỗ đàn hương - Chương 01 (Phần 1)

 

1816


những nơi tồi hơn và cũng có nơi tốt hơn để sống ở Calcutta. Trong khu
phố đông đúc này, giống như chỗ khác, những con đường bị ngập lụt trong
mùa gió và giá tiền thuê kiệu đội lên như một hậu quả tất yếu. Bệnh sốt
cũng bùng phát tại đây như đã từng ở các cung điện lớn tại Garden Reach
và trong những khu ổ chuột tồi tàn.

Mùi
hôi thối bốc lên, cả Calcutta cũng hôi thối. Trong nhà, mùi bơ sữa trâu
trộn lẫn đầy kinh tởm với mùi nồng nặc của ruồi nhặng. Ngoài cửa, mùi
xác chết hôi thối lấn áp mùi hôi của động vật và rác rưởi, khi khói từ
những giàn thiêu bên bờ sông Hooghly quây đặc bầu không khí nóng như
thiêu như đốt. Mùi hương trầm càng làm nặng nề thêm chướng khí. Trong
cái nóng gần một trăm độ[2] giữa trưa, những hỗn hợp đầy khó chịu ấy
đông đặc và quánh lại như nồi thuốc chế của lão phù thủy độc ác. Tất cả
hương liệu xứ Ả rập cũng không làm dịu nổi nơi này và khiến nó sạch sẽ
trở lại như đã từng.

[2] độ Fahrenheit

Những
nơi khác ở Ấn Độ đều không giống Calcutta, Philip biết thế. Các địa
phương tồn tại nơi những ngọn gió mát thổi ngọt ngào và trong lành. Song
đã lâu rồi anh học được cách khép lại các giác quan trước những gì
không thể chắp vá hay cải thiện nổi. Mười lăm năm ở Ấn Độ đã dạy anh nếu
không phải là đức tính kiên nhẫn kiểu phương đông thì cũng đủ là chủ
nghĩa khắc kỷ phương tây. Khí hậu, mùi hôi thối quá mức chịu đựng của
anh. Thế thì anh đơn giản chấp nhận chúng. Mà theo những người hàng xóm,
thú thật là, một người khi sống xa hoa hơn nhưng thế thì sẽ không quá
vô danh.

Anh
thuê một ngôi nhà thôn dã kiểu stucco cho phù hợp với vai người lái
buôn hookah[3] hiện tại. Trong khu phố bận rộn này, việc đến và đi của
anh không gây nhiều sự chú ý. Ngôn ngữ mệnh lệnh cũng như các nghi thức
xã giao của anh là không theo luật lệ. Ánh mặt trời dữ dội của Ấn Độ làm
da anh sậm màu, và việc sử dụng dầu hạt phỉ gây hiệu ứng tương tự lên
mớ tóc vàng. Ngay cả màu mắt xanh cũng không tiết lộ anh. Không hiếm
người lai u Á ở vùng đất này.

[3] hookah: loại tẩu để hút thuốc lá sợi

Người
thành lập Calcutta, một người Anh tên Job Charnock đã kết hôn với một
tiểu thư Bà la môn. Giống như Job những người Anh đến vào thời kỳ đầu
cũng tự do kết hợp với người bản địa. Người ta thấy con cháu của họ
không chỉ trên khắp tiểu lục địa mà cả Eton và Oxford.

Do
vậy Philip Astonley, con trai út của tử tước Felkoner – dòng dõi quý
tộc Anh rõ rành rành – dễ dàng vào Ấn Độ như một người con lai. Theo
quan điểm của Philip, đó không phải là sự giả trang ghê gớm gì. Trong
quá trình tống tiễn người con trai út ra khỏi gia đình, ngài tử tước đã
gọi cậu bé mười tám tuổi là đồ du thử du thực vô ơn. Philip nhận ra sự
khác biệt rất nhỏ giữa Không tên và Vô danh. Dù theo cách nào thì nếu
giờ anh thôi vô danh cũng coi như anh sắp thôi sống.

Đó
không phải là một ý nghĩ vẩn vơ. Khi anh rẽ vào con phố hẹp, bản năng
nắm bắt tinh tế của anh bỗng rung lên báo động. Con phố vắng vẻ như
thường thấy trong một buổi chiều nóng nực khi hầu hết Calcutta đều ngủ
vùi. Nhưng anh bắt gặp một chuyển động, một bóng thoáng qua ở phía cuối
đằng kia của con đường lát gạch. Bước chân anh nhanh dần.

Tay
anh đã cầm sẵn chìa khóa nhà khi với tới cửa. Trước khi mở, Philip liếc
nhìn lần nữa. Con phố vẫn vắng vẻ và yên lặng. Trong khắc tiếp theo,
anh trượt vào nhà và khóa cửa lại phía sau. Căn nhà nhỏ được lắp cửa
chớp che ánh mặt trời, tối tăm nhưng lại không đi cùng với yên tĩnh. Từ
căn phòng phía trên có một tiếng rên rỉ nghèn nghẹt. Im lặng. Rồi một
tiếng rên, cao hơn.

Philip
rút dao ra và bò êm thấm vào phòng ngủ. Một tiếng kêu đau đớn xé toạc
sự yên lặng, và anh thấy một người đàn ông trên sàn nhà cạnh giường co
giật dữ dội. Lẩm bẩm một câu chửi thề, Philip vội tiến lên và quỳ gối
bên cạnh thân hình người hầu đang thắt lại.

Khuôn
mặt y vừa nóng vừa đẫm mồ hôi, mạch đập dữ dội. Ngay khi Philip chạm
vào, Jessup co giật từng khúc một và bắt đầu lảm nhảm. Những lời nói nửa
Anh nửa Hin đu tuôn ra thành một dòng huyên thuyên đều đều, chấm ngắt ở
những tiếng kêu nghèn nghẹn đầy thống khổ. Nó giống như sốt, nhưng
không phải.

“Đồ chết tiệt,” Philip gào lên. “Đừng có chết trên tay ta, chiến binh.”

Xách
lấy hai vai người hầu, Philip kéo y lên giường. Thân hình đó lại quằn
quại và run rẩy, rồi thắt lại lần nữa trong đau đớn. Lời cầu nguyện đầy
kích động của – những bọ cạp, những rắn hổ mang, những đoạn Sách Kinh
Giáo Dân, những khúc chiến đấu, những tên người phụ nữ, những lời thề
nguyền – bị vỡ vụn chỉ bởi tiếng khóc đau đớn đang nấc lên.

Hiển
nhiên là chất độc đang kích hoạt từ từ, mang lại ảo giác cũng như đau
đớn. Do không biết chính xác loại chất độc, Philip không dám đưa cho
người hầu thứ gì, ngay cả nước uống.

Anh bóp tay Jessup. “Ta sẽ để ông lại một phút, ông già,” anh thì thầm. “Ta đi nhờ giúp đỡ. Hãy đợi nhé, được không? Hãy đợi.”

Bà già Philip tìm kiếm sống bên kia đường. Thầm cầu mong bà ta ở nhà, anh đẩy tung cánh cửa.

Anh thấy bà ta đang đợi bên ngưỡng cửa nhà mình.

Anh không hoàn toàn ngạc nhiên. Sharda già cả là thầy thuốc và bà đỡ trong vùng. Rất có thể bà ngửi thấy bệnh tật và chết chóc.

“Người hầu của tôi, mẹ à -” anh bắt đầu.

“Ta biết,” bà nói. “Anh có rắc rối to đấy, Dilip sahip.”

Sahib? Dẫu Philip cúi đầu tôn kính khi bà ta bước vào, đôi mắt anh vẫn nheo lại nghi ngờ.

“Jasu -” anh lại bắt đầu.

Bà ra hiệu cho anh im lặng. “Ta biết,” bà nói.

Trong
căn phòng phía trên, Jessup la hét rồi lại chìm vào lảm nhảm điên
cuồng. Cái sau này xấu hơn la hét. Philip nghiến răng. Đó là tất cả
những gì anh có thể làm để không phải lôi bà già tới giường bệnh. Tuy
nhiên, bà ta có những cách riêng.

Anh thấy cái nhìn của bà chiếu lên mình.

“Ta sẽ đi xem ông ấy,” bà nói. “Hãy kiên nhẫn.”


xem xét kỹ lưỡng cái không gian nhỏ với bếp, phòng khách và phòng ăn.
Một đĩa bánh ngọt ở trên bàn. Bà lấy một chiếc, bẻ làm đôi, nhìn chăm
chú vào cái quả ở giữa, rồi hít ngửi nó.

“Quả
vả, anh thấy đấy,” bà nói, chỉ tay vào phần hột màu sẫm. “Để thêm vào
một loại hạt khác không phải là khó, và ta nghĩ bột bị nhiễm độc rồi.
Ông ta có những ảo giác kinh khủng phải không?”

“Vâng,” Philip nói thẳng, “và đau đớn nữa. Nhưng tôi đã ngần ngại đưa cho ông ta bất cứ thứ gì.”

“Thuốc phiện, chúng ta có thể đưa cho ông ta giảm đau,” bà nói. “Cái khác thì phải kê đơn, ta e là thế.”

Việc
kiểm tra của bà đã xác nhận sự chẩn đoán sơ bộ. Do vậy bà ước tính một
lượng cồn thuốc phiện Philip đưa cho. Sau một quãng thời gian dường như
vô tận, Jessup bắt đầu yên lặng phần nào. Ông ta vẫn lảm nhảm, nhưng
giống một gã say rượu hơn, và cơn đau cùng những tiếng kêu nghẹn đã
dừng. Có lẽ ông ta sẽ ngủ, Sharda bảo Philip. Dù thế nào chăng nữa,
người hầu cũng sẽ không chết dù ông ta có ước. Ông ta sẽ còn lâu mới hồi
phục và sẽ rất đau đớn.

“Một
hỗn hợp phức tạp, vừa mang đến điên loạn lại đau đớn điên cuồng,”
Sharda nói khi họ rời khỏi phòng bệnh, “và không có cái chết giải thoát.
Nhưng nó không định dùng để giết ông ta.” Bà vỗ vỗ vào tay anh một cách
buồn bã nhưng ân cần. “Chỉ là để gây ra sự chịu đựng vô cùng, để cho
anh biết được sự cảnh cáo.”

Anh biết, sao lại không chứ? Anh đã cảm thấy nó khi đi vào con phố và thấy nó trong bóng đen chợt biến mất kia.

Trong
lúc bà già kiểm tra Jessup, Philip lấy nước ra đun. Giờ thì anh lịch sự
mời trà và chờ đợi đến khi bà sẵn sàng khai sáng cho anh.

Bà nhấp trà và gật đầu phê chuẩn. Rồi bà nhìn anh.

“Lúc
trước, có người đàn ông mang cho ta một mẩu tin,” bà nói. “Ta phải nói
với người lái buôn mắt xanh là hắn đã bị phát hiện cũng như ý định của
hắn. Và vì vậy, hắn sẽ chết nếu không rời khỏi Calcutta trước khi một
ngày nữa trôi qua.”

Không
chỉ biết, mà còn hay cả nhiệm vụ của anh nữa. Trời đất, mụ đàn bà quả
là phi thường. “Thế cái này, tôi hiểu” Philip điềm tĩnh nói, gật đầu về
phía phòng bệnh, “là thứ mà tôi sẽ đón nhận à?”

“Anh
biết chúng ta nói đến ai. Cái chết sẽ đến với anh từ từ, chỉ sau sự
chịu đựng của Jasu nhiều lần. Đi đi, như anh được bảo đấy, và sống.”

Philip
Astonley không phải là một kẻ khinh suất. Anh chưa bao giờ đánh giá
thấp đối thủ. Nếu như Rani Simhi nói sẽ giết anh, bà ta sẽ làm, và đương
nhiên, theo cách kinh khiếp nhất mà trí tưởng tượng độc ác của bà có
thể nghĩ ra. Anh biết bà sẽ phát giác ra sự trá hình của mình sớm hay
muộn. Anh chỉ không mơ rằng chuyện này lại xảy ra sớm đến thế. Nó đã như
thế nào chứ? Chưa đầy bốn mươi tám giờ. Song lẽ ra anh đã phải chuẩn
bị. Vì sai lầm của anh mà Jessup giờ nằm trong phòng trên, điên loạn vì
đau đớn và ảo giác.

Anh bắt gặp cái nhìn lo lắng của Sharda. “Tôi sẽ lưu ý lời cảnh cáo,” anh nói.

Mấy
phút sau, cháu trai của bà, Hari, chạy đi với mẩu tin tới Fort William.
Hai giờ sau, Hari quay lại cùng Ngài Randall Groves. Ba người hầu và
hai chiếc kiệu theo sau.

Mọi
cánh cửa sổ và cửa chính trong phố đều nhanh chóng kín đặc những người
quan sát tò mò. Rani sẽ sớm nhận được tin người lái buôn đã rời đi.

Philip
đã đóng gói sẵn sàng khi Groves bước vào, trông cực kỳ khó chịu. Anh ta
thậm chí còn khó chịu hơn khi Philip dẫn vào phòng riêng của mình và
lặng lẽ giải thích anh ta cần làm gì.

“Đồ chết tiệt,” Randall nạt. “Đây là chuyên môn của anh hả, phải không? Cái quỷ quái gì khiến anh mong tôi -”

“Song
anh có thể,” Philip nói. “Đút lót, lừa gạt – tôi không quan tâm. Tàu
Evelina sẽ khởi hành ngày mai, Jessup và tôi phải ở trên boong.” Anh
giúi một gói giấy vào tay Randall. “Đừng dùng nó trừ phi bắt buộc. Tôi
không muốn lôi quý ngài đó vào chuyện này và ông ta cũng mong thế, vì
những lý do hiển nhiên.”

“Philip,
tàu chở đầy rồi, Blayton thậm chí còn chẳng muốn các hành khách của hắn
nữa. Nhà Bullerhams, chị em nhà Cavencourt, Monty Larchmere, và tất cả
người hầu của họ nữa. Anh muốn tôi ném vài người trong số họ xuống biển
sao?”

“Nếu
anh bắt buộc phải làm thế. Tôi sẽ nói chuyện với Monty trước. Hắn ta là
một con quỷ tham lam. Với một khoản lót tay nằng nặng, có lẽ hắn sẽ
đồng ý đợi qua mùa gió cho chuyến tàu khác.” Philip vừa nói vừa quấn
chiếc khăn xếp quanh đầu.

Randall
nhìn chằm chằm vào chiếc khăn xếp một lát. Rồi một nhận thức kinh hoàng
mở banh mắt anh ra. “Ôi trời ơi,” anh nói. “Đó là lý do tại sao anh gọi
tôi hả. Anh vẫn định làm chuyện đó phải không? Vì chúa đi, Philip,
người đàn bà đáng nguyền rủa đấy biết anh là ai!”

“Chính
xác. Như tôi đã giải thích cặn kẽ, bà ta định giết tôi nếu ngày mai tôi
không đi, vì vậy tôi phải hành động nhanh, phải không?”

Philip
tra con dao vào trong cán rồi treo nó vào khăn thắt lưng anh đeo dưới
chiếc áo kurta dài bằng muslin. Cùng với chiếc sơ mi rộng thùng thình là
chiếc quần bằng muslin. Với những nỗ lực trong buổi tối, những thứ này
sẽ đỡ rườm rà hơn việc quấn chiếc dhoti phức tạp. Vệ sinh xong xuôi,
Philip quay sự chú ý vào Randall đang dữ tợn.

“Đừng
ủ rũ, Randy,” anh nói. “Tôi không định để bị giết đâu. Quý bà muốn tôi
đi, vậy tôi sẽ vâng lời. Nhưng tôi sẽ bị nguyền rủa nếu đi mà không có
nó. Tôi chưa bao giờ bị thất bại hết, và một người đàn ông phải chú ý
tới danh tiếng của mình.”

“Anh điên rồi,” Randall nói.

Đôi
mắt xanh lóe sáng. “Nhìn vào phòng kia xem, anh bạn,” Philip hạ giọng
nói. “Nhìn xem mụ phù thủy làm gì với Jessup. Tôi không thể trả đũa mụ
ta như tôi muốn, bởi mụ đàn bà đáng nguyền rủa ấy quá quý giá với cấp
trên của chúng ta. Nhưng tôi sẽ đáp lại mụ ta như có thể, tôi thề đấy.”

***

Rani
Simhi ngụ tại một lâu đài lớn bên bờ sông Hooghly ở Garden Reach. Mặc
dù người Anh đã xây những cung điện kiểu Palladian[4] này chỉ dành cho
họ nhưng công chúa Ấn Độ là một trường hợp ngoại lệ. Quý ngài toàn quyền
Moira đã đích thân trông coi việc thu hồi nơi cư trú của người ở trước
nhằm trang bị cho người đàn bà Ấn Độ bí ẩn một cơ sở phù hợp với địa vị
và sự hữu ích của bà ta dành cho chính quyền của Hoàng thượng.

[4]
Palladian: kiến trúc theo phong cách của kiến trúc sư Palladio người
Venetia thời phục hưng, dựa trên bố cục đối xứng và dáng dấp đền đài
thời Hy Lạp và La Mã cổ đại.

Đêm
nay, bà tổ chức lễ mừng sinh nhật lần thứ năm mươi lăm. Cung điện được
nhồi nhét đầy khách khứa cả Anh lẫn Ấn. Bà xuất hiện trong chốc lát,
nhận lời chúc tốt đẹp của khách, rồi, theo thói thường, bà về phòng
riêng nghỉ. Mặc dù theo nhiều phương diện bà không giống các phụ nữ bản
xứ khác nhưng bà lại chọn cách giống họ khi dành vai trò chủ nhân cho
các con trai.

Do
bữa tiệc được tổ chức nhân danh mình, bà có thể nán lại nếu muốn. Tuy
nhiên đêm nay có một vị khách mà bà muốn được hưởng sự bầu bạn của người
đó một cách riêng tư. Vi vậy bà giải thích với Amanda Cavencourt khi cô
bày tỏ sự nuối tiếc phải làm công chúa rời bỏ khách của mình.

“Ngày
mai con sẽ đi Anh quốc,” Rani nói. “Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ gặp
lại nhau. Hơn nữa, tất cả bọn chúng là một lũ ngu dốt và buồn chán.” Bà
khẽ ra hiệu bằng tay, và một tẩu thuốc lớn, nạm ngọc được đem lên.

“Anh
trai con chẳng hạn,” bà tiếp tục, khi kiểm tra đầu tẩu. “Nói chung
không phải đần độn, nhưng lại ngớ ngẩn khi cưới một ả đàn bà ngu dốt.
Nếu ả không quá ngu dốt, ả đã yêu con. Thay vào đó, ả ghét con và đẩy
con đi. Ta căm ghét ả.”

“Hai
người đàn bà không thể cùng quản một căn nhà,” Amanda điềm tĩnh nói.
“Sự hiện diện của con là nỗi khó chịu không ngừng. Hay có lẽ lúng túng
thì đúng hơn. Cách sống của con không giống của chị ấy và sẽ không bao
giờ giống, thế nên luôn luôn có va chạm. Bà biết rồi đấy.” cô thêm.

Rani
ngắm nghía người phụ nữ trong y phục bằng lụa đang ngồi bắt chéo chân
trước mặt. “Ta biết là ả sẽ nổi cơn tam bành nếu ả thấy con bây giờ. Ta
nghe nói ả đã để ý đến những bộ sari hở hang.”

Amanda
nhe răng cười khi cô cầm đầu tẩu lên. “Chị ấy chắc chắn sẽ ngất xỉu năm
lần nếu thấy con hút thứ này.” Cô nhún vai ngang ngạnh, và rít một hơi
đầy kinh nghiệm.


biết việc lơ là chú ý đến những nghi thức chỉ làm trầm trọng thêm sự
ghét bỏ của người chị dâu. Sớm hay muộn Eustacia cũng sẽ chì chiết người
họ hàng ương ngạnh của mình cho những cư xử thích hợp hơn. Thật không
may, không bài học nào, không nhắc nhở nào, dù thường xuyên, có thể thay
đổi nổi bộ dạng của Amanda.

Làn
da sáng màu của cô trông rất giống màu trắng ngà êm dịu của những cư
dân vùng bắc sông Hằng. Mái tóc nâu sẫm bóng mượt, gợn những lọn sóng
dày, ôm lấy khuôn mặt trái xoan của cô. Hàng lông mi dày đen viền trên
đôi mắt to có màu nâu sáng biến đổi kỳ lạ. Xương mặt cô tạo dáng rõ
ràng, chiếc mũi thẳng và mẫu mực, chiếc miệng rộng và đầy đặn. Khuôn mặt
Armanda đẹp quá lạ so với kiểu đẹp của u châu. Phu nhân Cavencourt lại
còn cảm thấy bị bẽ mặt hơn khi cả những người châu u và bản xứ đều
thường xuyên nhầm lẫn Amanda là người Ấn Độ.

“Ta
quá hiểu,” người đàn bà lớn tuổi hơn đáp lời, “nhưng ta phản đối. Chúng
ta sẽ không nói về ả nữa. Ả thật tẻ nhạt. Ta có một câu chuyện cho con,
thú vị hơn nhiều so với bà chị mới ngớ ngẩn của con.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3