Tiểu thời đại 1.0 - chương 11a
CHƯƠNG 11
Bí mật bẩn thỉu làm nên những người bạn
Nơi cách mặt đất một mét vẩn vít làn sương trắng dày
đặc, như có linh hồn đang chuyển động. Cỏ dưới đất thắm một sắc xanh thẫm ướt đẫm
khiến người ta cảm thấy thật âm u. Trong sự tĩnh mịch bao trùm ấy, chỉ có một
âm thanh nghe như tiếng nước nhỏ giọt, khiến cho bầu không khí càng thêm rờn rợn.
Khi Sùng Quang mở mắt ra một lần nữa, cảnh vật xuất
hiện trong tầm mắt cũng chỉ có vậy.
Rèm cửa sổ được kéo sang hai bên, phía ngoài ô cửa
kính rộng là một mặt hồ mênh mông, không gợn sóng, như tấm gương màu lam tối.
Cây cao in bóng dưới mặt nước, tựa như mọc ngược.
Có một tích tắc anh ta đã cảm thấy mình chết rồi,
cho đến khi quay đầu lại, nhìn thấy chiếc bình nhỏ giọt treo ngược trên đỉnh đầu.
Chắc hẳn anh ta đang ở trong một bệnh viện hàng đầu
của Thượng Hải, bệnh viện này nổi tiếng khắp Thượng Hải vì phí dịch vụ chữa trị
cao ngất và môi trường xa hoa, đặc biệt là những phòng bệnh nằm xung quanh bờ hồ.
Nói trắng ra, đó là mười mấy tòa biệt thự ven hồ, những người giàu đốt tiền để
được trị liệu ở đây, thậm chí không chỉ có trị liệu, những bà già đeo đầy vàng
bạc vào đây chỉ để đốt mụn thịt hoặc kéo căng da mặt cũng không phải là hiếm.
Sùng Quang quay đầu lại, thấy Cung Minh đang ngồi
bên cạnh, ánh mắt lạnh lẽo, sắc mặt trắng xanh, sa sầm, đang nhìn mình trừng trừng,
môi mỏng như một đường chỉ, bất động.
Sùng Quang hơi nhích người lên, tựa vào thành giường,
khẽ hắng cổ họng đặc quánh, hơi khàn giọng nói: “Nếu người khác đi qua cửa sổ,
trông thấy gương mặt thê thảm của anh, chắc sẽ tưởng người bị bệnh là anh đấy.”
Thấy Cung Minh không phản ứng gì, anh ta lại tự mình cười khan hai tiếng “hì
hì”.
Cung Minh vẫy vẫy sổ chẩn đoán của bác sĩ với nét mặt
vô cảm, hỏi Sùng Quang: “Từ bao giờ?”
Sùng Quang bĩu môi bất cần, “Khá lâu rồi, dù sao thì
cũng sắp chết. Tôi nghĩ thế.”
Cung Minh đứng dậy, bước ra khỏi phòng bệnh, không
thèm nhìn lại. “Vậy thì sao cậu không chết quách luôn đi.” Cung Minh đóng cửa lại,
bỏ lại phía sau một câu nói lạnh lùng.
Sùng Quang quay đầu nhìn mấy quả quýt đã bóc sẵn vỏ
Cung Minh để trên bàn trà, khẽ mím môi, đưa tay lau giọt nước mắt vừa chảy ra,
mỉm cười nói nhỏ: “Mẹ nó!” Anh cầm quả quýt ăn được hai múi, lại vung tay đấm mạnh
lên tường. Trên bức tường trắng xuất hiện một mảng nước quýt vàng vàng.
Ra khỏi phòng bệnh, Cung Minh rút điện thoại gọi cho
Kitty, vừa đổ chuông một tiếng đã lập tức được nghe ngay - lần nào cũng vậy,
khiến tất cả mọi người trong M.E phải nghi ngờ, bất kể là lúc ngủ, hay tắm, thậm
chí đang yêu đương với đàn ông, liệu có phải Kitty đều cầm điện thoại trong
tay, để bất cứ lúc nào cũng có thể bắt máy ngay khi điện thoại vừa đổ chuông một
tiếng, và nói như đã được ghi âm sẵn! “Xin chào, tôi là trợ lý của ngài Cung
Minh”. Mà sự thực là, câu trả lời cứng nhắc bất di bất dịch ấy quả thực thường
bị người ta hiểu nhầm là câu ghi âm sẵn.
Cung Minh đi ngang qua mấy cô y tá ôm những chồng bệnh
án len lén nhìn trộm mình, bước ra khỏi cổng bệnh viện, trước mặt là hồ nước lạnh
lẽo mênh mông. Anh ta đứng bên bờ hồ trong bóng đêm trống rỗng, nói vào điện
thoại: “Mở cuộc họp báo, công bố tin Sùng Quang đã bị ung thư dạ dày giai đoạn
cuối. Đồng thời báo cho phòng lựa chọn đề tài ngày mai họp, tôi cần khởi động mục
tin bài liên quan đến việc anh ta bị ung thư dạ dày.”
Đầu kia điện thoại im lặng, chỉ có tiếng thở chậm
rãi.
Trước khi ngắt máy, Cung Minh nói thêm một câu: “Trước
khi chết, anh ta nên tạo ra giá trị lớn hơn nữa.”
Anh ta xoay người bước về phía cánh cổng bên kia hồ.
Người lái xe đeo găng tay trắng luôn đợi bên chiếc
xe con màu đen, Cung Minh đi ngang qua chiếc xe, không dừng lại, chỉ vẫy tay,
“Cứ về trước đi, tôi đi bộ được rồi.”
Khi chiếc xe con mất hút trên đường, Cung Minh mới dừng
lại.
Anh ta từ từ khom người, một lát sau, bắt đầu thở hổn
hển từng hơi dài.
Vầng trăng vàng ruộm lớn trên đầu, ánh trăng tuôn chảy,
quết đều lên rừng cây rậm rạp trong bóng tối.
Cơn bão cập bờ chưa lâu đang vần vũ trên bầu không,
như làm dậy lên một con sóng biển, ào ào chạy đến đường chân trời xa lắc. Con
sóng âm thanh dữ dội đem đi tiếng tim đập dồn dập, bỏ lại một khoảng tĩnh mịch
loang loáng cho thế giới dưới màn đêm.
Tôi, Giản Khê và Đường Uyển Như hoảng loạn chạy tới
bệnh viện, nói thực lòng, sau khi nghe điện thoại của Cố Ly, tôi không dám tin
vào tai mình nữa. Đối diện với tai họa cha nó đột ngột qua đời, đầy một bụng những
lời an ủi đều trở nên thật nực cười
Lúc sắp đến bệnh viện, qua màn đêm dày đặc, tôi hình
như nhìn thấy Cung Minh. Tuy không thể khẳng định bóng người ngồi giữa đường
cái trống trải trước mặt kia chắc chắn là anh ta, nhưng chiếc áo sơ mi phía sau
lưng có in hình cỗ xe ngựa hơi ánh lên trong bóng đêm, đó là chiếc áo may bằng
tay được gửi từ Pháp về, tôi đã phải đặt may ở Hermès cho anh ta trước ba tháng
mới có hàng.
Tôi ngẩn ra một lúc, cảm thấy mình sắp phát điên: nếu
bây giờ Cung Minh chẳng hiểu sao đột nhiên chạy cả quãng đường xa tới trước cửa
cái bệnh viện đẳng cấp trong núi sâu này, rồi ngồi ở giữa đường lớn một cách trầm
lặng, vậy thì Đường Uyển Như chắc sẽ có thể nước mắt rưng rưng đứng trên bục nhận
giải thưởng Nobel Văn học, xúc động cảm ơn CCTV và MTV.
Giản Khê kéo tay tôi, dắt tôi đi vào. Đường Uyển Như
yếu ớt bám theo phía sau, như một linh hồn to lớn thấp thoáng bay theo.
Đá granite trên hành lang cực kỳ xa hoa.
Chúng tôi bước im lặng dưới từng ngọn đèn nối tiếp
nhau. Ánh mắt Giản Khê bị che khuất bởi bóng hàng mi dài hẹp, không nhìn ra được
anh đang nghĩ gì. Tôi nắm tay anh, thầm bóp mạnh, vậy mà anh không quay đầu lại,
chỉ nắm tay tôi chặt hơn như một phản ứng. Hai đứa tôi như thể người sắp chết
đuối, nắm chặt lấy tia hy vọng sống cuối cùng. Nói thực, tôi và anh đều bị cơn
bão vừa chồm tới dập vùi cả đám đánh cho tan tác. Nếu nói hai chúng tôi là những
kẻ may mắn sống sót, vậy thì, cũng đã chịu thương tích khắp người.
Từ lúc Nam Tương duyên dáng rót rượu vang lên đầu Cố
Ly tới bây giờ mới chỉ có mấy tiếng đồng hồ trôi qua, nhưng tôi lại có cảm giác
như đã trôi qua những mười mấy năm trời. Thậm chí tôi còn thấy nhịp tim mình đã
đập chậm lại rất nhiều, già cỗi đến mức không còn sức lực nâng đỡ sinh mệnh tàn
tạ này nữa.
Đầu hành lang, Cố Ly trông không khác gì lúc bình
thường. Ánh mắt thờ ơ lãnh đạm của nó cũng không có gì khác những khi nó chế giễu
Đường Uyển Như.
Nó đưa tay ký tên xoèn xoẹt, như ký một tờ văn bản
thông thường. Khi tôi bước lại gần, nhìn rõ ra nó vừa ký xong vào giấy chứng tử
thân nhân. Trên tờ giấy in màu xanh, ảnh chụp bố nó nhìn vẫn rất quắc thước,
còn nhớ tháng trước, tôi mới gặp ông ở nhà Cố Ly, thậm chí ông còn hòa nhã bàn
luận cùng tôi về văn phong Doris Lessing, bà nhà văn người Anh người vừa đoạt
giải Nobel văn chương, ông nói thích nhất cuốn Những đứa trẻ bạo lực của bà.
Ông vừa uống cà phê, vừa trò chuyện một cách rất bình dị về loại văn học nghiêm
túc không đáng một xu trong xã hội thương mại, trông không hề giống một nhân vật
lớn thường xuất hiện trên tạp chí kinh tế Thượng Hải. Vậy mà giờ đây, ông đã nằm
trong tủ đá chứa thi thể lạnh ngắt đặt cách tôi mười mấy mét.
Tôi bước tới, dang hai tay, Cố Ly cũng nhẹ nhàng ôm
lại tôi, thậm chí đưa tay lên vỗ vỗ vào lưng tôi, như đang an ủi. Nó rời tôi
ra, sau đó gật đầu với Giản Khê và Đường Uyển Như phía sau, thậm chí còn hơi mỉm
cười đáp lễ.
Lúc chúng tôi ngồi ở hành lang, nó cầm điện thoại gọi
điện, bàn với luật sư hỏi xem cha nó có di chúc không, cùng việc thực hiện di
chúc và các tài sản có liên quan của cha nó. Không nghe ra được tâm trạng gì
trong giọng nói ấy, đúng vậy, nó luôn luôn giữ dáng vẻ ấy. Bất kể chuyện gì xảy
ra, dường như luôn có một vành đai chân không dày mười centimet vây trọn xung
quanh nó, ngăn cách với đám người luôn bi hoan ly hợp là chúng tôi, thật hoàn mỹ
không tì vết.
Ba đứa tôi ngồi tụm lại, dõi mắt nhìn nó.
Khoảnh khắc ấy, tôi cảm thấy nó cách chúng tôi rất
xa, như thể những kẻ bị nhốt trong hai gian buồng thí nghiệm bằng kính, không
nghe được tiếng nói của nhau, cũng không biết được suy nghĩ của nhau.
Tôi chợt nhận ra, bao nhiêu năm, tôi dường như chưa
bao giờ hiểu Cố Ly. Bốn tiếng đồng hồ trước, khi rượu vang chảy trên khuôn mặt
thanh tú của nó, tôi thậm chí còn có cảm giác đó là một chiếc mặt nạ được chạm
khắc rất tinh vi, không có cảm xúc, không có tâm trạng, bất động nở một nụ cười
cứng đờ, điều đó cũng khiến tôi khi chảy nước mắt, không biết mình đang đồng
tình với Nam Tương, hay đang thông cảm cùng Cố Ly - hoặc giả, chỉ là nhỏ lệ cho
đám tang tình bạn của chúng tôi.
Một lát sau, mẹ Cố Ly từ một căn phòng khác bước ra,
bà vẫn mặc bộ lễ phục ở party vừa nãy, chuỗi ngọc lớn nặng trĩu, trông như muốn
vít cổ bà xuống sát mặt đất. Bà chầm chậm đi tới trước mặt Cố Ly, Cố Ly cũng ngẩng
đầu nhìn mẹ, mắt hai người lập tức đỏ lên. Tôi bị cảnh tượng trầm mặc này đánh
động vào cảm quan, dưới ánh đèn lạnh lẽo của bệnh viện, tất cả trông như một cảnh
phim bi thương. Vào lúc nước mắt tôi vừa trào ra, mẹ Cố Ly vung tay, cánh tay
tròn lẳn giáng mạnh một cái tát vào mặt nó.
Trước khi tôi kịp có phản ứng. Đường Uyển Như ngồi
bên cạnh đã hét lên, còn Giản Khê thì sải bước lại, đứng chắn trước mặt Cố Ly
đã ngã lăn ra đất, anh giữ chặt mẹ Cố Ly đang chồm tới như bị phát cuồng.
“Mày ép cha mày phải chết để về dự sinh nhật mà! Là
mày ép! Mày ép chết ông ấy! Nếu ông ấy không vội về, thì đã không nóng ruột lái
xe lên làn đường cao! Bây giờ ông ấy nằm đấy, mày đã vui chưa? Mày đã vừa lòng
chưa?”
Cố Ly đứng dậy, sửa lại mái tóc vừa xõa ra, nói: “Mẹ
lấy sức tát thêm con hai cái nữa xem nào, như thế thì bố có thể sống lại, thế
thì tốt quá! Nào, đánh mạnh vào!’
Mẹ Cố Ly bị Giản Khê giữ chặt không động đậy được,
trông như một bà già tiều tụy, hình ảnh dung mạo cao quý ngày trước bị lớp phấn
xung quanh mắt bợt ra và lớp mascara trên lông mi loang lổ hủy hoại hoàn toàn.
Toàn bộ các nếp nhăn của bà bỗng hiện rõ trên khuôn mặt.
Cố Ly cười nhạt một tiếng: “Ngoại trừ khóc, ngoại trừ
gây chuyện, ngoại trừ đánh tôi, ngoại trừ việc chùi nước mắt và nước mũi lên
thi thể trắng bệch cứng đờ của bố tôi ra, bà còn làm được cái gì hử? Bà đã năm
mươi tuổi rồi, không phải mười lăm tuổi đâu, cả đời bà đều sống trong công viên
Disneyland chắc?” Nói dứt lời nó xoay người bỏ đi, không thèm nhìn lại mẹ nó một
lần.
Tôi và Giản Khê, Đường Uyển Như líu ríu đi phía sau
Cố Ly, một mình nó lạnh lùng và im lặng bước nhanh phía trước, nó vẫn mặc chiếc
váy dài dạ hội màu lam sẫm chưa kịp thay ra, tay xách một vạt váy, giống như một
nữ nghị viên đang vội đi diễn thuyết. Chúng tôi không biết nên an ủi nó thế nào
- trông nó hoàn toàn không cần an ủi. Tôi nhìn bóng nó đi trong bóng tối, như
đang ngắm nhìn một mặt hồ nho nhỏ bị gió thổi gợn lăn tăn nơi đường chân trời
xa xôi.
Tôi biết, những cảm xúc này là do nỗi bi thương kiểu
cải lương trong lòng mình gây ra, tôi thường thích đem những việc không được vừa
ý trong cuộc sống tô vẽ, phóng đại lên như Paris tắm trong mưa bụi xám xịt dưới
ngòi bút của Victor Hugo. Trên thực tế, bóng nó trông vô cùng hoàn mỹ, giày cao
gót nện trên mặt đá màu vàng viền quanh hồ, vang lên những tiếng lách cách như
đánh máy điện báo.
Lúc sắp ra tới cổng, Cố Ly hơi nghiêng mình, bỗng
nhiên rơi ùm một tiếng xuống hồ. Nó im lìm chìm xuống, như một pho tượng người.
Vào lúc tôi và Đường Uyển Như cổ họng không phát ra được bất cứ âm thanh nào,
Giản Khê lao vụt đến...
Lúc Giản Khê kéo Cố Ly vào bờ, tôi khóc như một con
điên chạy lại đá nó, “Đồ điên, làm tớ sợ chết được!” Chửi xong tôi quỳ xuống ôm
lấy nó, khóc toáng lên.
Đường Uyển Như bước lại gần, ngồi xuống cạnh chúng
tôi, cất tiếng khóc rất vang vọng hòa theo.
Cố Ly dựa vào vai tôi, bất động nhìn trời, hai mắt
như hai cái lỗ sâu khoét trên quả cầu nước, nước cứ thế ầng ậc chảy ra ngoài,
nước mắt lăn trên má hòa lẫn cùng nước hồ lạnh buốt.
Vào lúc tôi hoàn toàn đắm chìm trong cuộc phân ly
đau đớn ấy, thì phía bên kia hồ, trong dãy phòng bệnh cao cấp, Sùng Quang đứng
trước khung cửa kính lớn, nhìn bọn tôi đang khóc đến chết đi sống lại. Hai mắt
anh ta như mặt hồ đen thẫm đầy nước mùa đông. Bên hồ viền một dải rừng phong đỏ
rực như đang cháy hừng hực. Anh giơ tay, vẫy vẫy với đám người bên hồ, nhưng
chúng tôi không nhìn thấy.
Về sau, Sùng Quang kể với tôi, lúc ấy anh ta cảm thấy
mình như thể bị cách ly trong một thế giới cô độc nào đó, tĩnh mịch mênh mông,
âm thanh của chính mình bị tan biến trong một huyệt động của vũ trụ. Mọi người
đều không nhìn thấy anh. Có lẽ ngày mai tỉnh giấc, anh đã tan biến rồi, những
người từng yêu anh sẽ không bao giờ tìm thấy anh nữa.
Lúc tôi dìu Cố Ly đứng dậy, chuẩn bị đưa nó về nhà,
tôi nghe thấy phía dãy phòng bệnh VIP bên bờ hồi đối diện, có người gọi tên
tôi. Mới đầu tôi nghĩ chắc là ảo giác, bởi vì tôi không thể quen biết ai cao
quý đến mức có thể ở trong dãy phòng chữa trị cao cấp giá trung bình bảy trăm tệ
một ngày ấy cả.
Giản Khê vỗ vỗ vai tôi, tôi ngoảnh lại, khuôn mặt
anh vẫn ướt đầm đìa, nước trên tóc chảy dọc theo gò má nhỏ xuống, anh vừa lau
nước trên mặt, vừa chỉ sang phía bên kia hồ: “Có người gọi em.” Tôi ngẩng đầu,
bóng người trong khung cửa phía đối diện hơi quen quen, cho đến lúc người ấy
gào to: “Tôi là Sùng Quang.”
Thế giới như thể vừa bị bàn tay to tướng của ai đó vặn
vẹo biến dạng, hồ rộng biển lớn, núi non rừng thẳm, trong nháy mắt đều bị ép lại
với nhau. Vừa nghe thấy tiếng sóng nước mênh mông bốn bề, lại vừa nghe được tiếng
răng rắc của cây rừng bị bẻ gãy.
Lúc tôi bước vào phòng bệnh của Sùng Quang, anh ta
đang đứng trước cửa sổ nghe điện thoại. Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi vừa đẩy cửa,
nét mặt cười mỉm, nồng nhiệt gọi tôi vào.
Sùng Quang tắt máy, xoay người nhảy lên giường, ôm một
cái gối vào lòng, sung sướng nói: “Ban nãy Kitty vừa gọi. Không ngờ gặp được cô
nhỉ, sao cô lại ở đây? Bạn bị bệnh hả?”
Tôi vốn đang trầm uất, nghe anh ta hỏi như thế, liền
càng u ám hơn.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh giường, nước mắt
rơi lã chã, bắt đầu kể chuyện của Cố Ly. Kỳ thực, tôi cũng không biết nên kể từ
đâu, tôi kể lung tung chuyện sinh nhật của Cố Ly, cha Cố Ly bị tai nạn giao
thông, bạn trai của tôi có người con gái khác, Nam Tương bạn thân của tôi đổ rượu
vang lên người bạn thân khác của tôi là Cố Ly, bởi vì Cố Ly đã lên giường với bạn
trai của nó. Tôi như người say rượu nói huyên thuyên, giữa chừng còn ngừng lại
khóc lóc. Trong cả quả trình, Sùng Quang rất nhẫn nại, mở to cặp mắt đẹp mê hồn
của anh ta nhìn tôi, tựa như một cha xứ trẻ tuổi đang lắng nghe người trước mặt
xưng tội một cách yên lặng và dịu dàng. Thực ra tôi cũng không biết vì sao lại
kể những chuyện này cho anh ta nghe nữa. Nhưng con người anh ta có một đặc điểm
khiến kẻ khác bất giác rất muốn thân thiết, hoặc một sự thu hút khiến người ta
tin cậy - mặc dù rất nhiều lần tôi đã khoác cho anh ta ba chữ “không đáng tin”
lên người, đặc biệt là những lúc giục anh ta trả bản thảo.
Tôi tấm tức kể lể tất cả những chuyện này xong, thì
mới sực nhớ ra hỏi anh ta vì sao cũng ở đây.
Sùng Quang đưa chiếc gối đang ôm trong lòng ra kê
sau gáy, cười nhẹ, nheo mắt nói: “Ung thư dạ dày mà, tôi nhớ là đã nói với cô rồi
nhỉ?”
Tôi đang khóc lóc bỗng ngẩng phắt đầu lên, nhìn anh
ta ngơ ngác.
Như thể đang đi trên đường bị một người không hề
quen biết tát cho một cái.
Tôi nhìn Sùng Quang trước mắt, khuôn mặt anh tuấn,
thân thể trẻ trung, hàng lông mày đen đậm, giống như một chàng thư sinh phong
lưu cao nhã thời xưa. Cho dù có lấy hồ sơ bệnh án treo ở đầu giường của anh ta
ra xem, tôi cũng khó lòng tin nổi chuyện này lại xảy ra với Sùng Quang.
Anh ta cười khổ, không nói gì, rút một cái iPod màu
trắng từ chiếc túi bên cạnh ra, vẫy tôi, nói: “Lại đây, cho cô nghe bài hát
này.”
Tôi bò lên giường Sùng Quang, đeo tai nghe vào, anh
ta liền ngồi dịch ra, vỗ vỗ vào chỗ bên cạnh, bảo: “Nằm đây đi.”
Tôi đang định mắng: “Không biết xấu hổ, cô nam quả nữ
sao có thể cùng nằm một giường,” nhưng nhìn nét mặt chân thành của anh ta không
hề có vẻ gì trêu chọc cả, như một đám mây trắng tinh khiết. Bỗng nhiên tôi tự
thấy hổ thẹn với suy nghĩ của chính mình.
Tôi nằm trên giường bệnh trắng tinh của Sùng Quang,
bên tai vang lên bài hát trong iPod. Giai điệu đơn giản chậm rãi, chỉ có tiếng
đệm đàn ghita và một giọng nữ ấm áp hơi khàn, một bài hát tiếng Anh cổ. Bên cạnh
là mùi thơm nam tính thanh tân tỏa ra từ cơ thể Sùng Quang, một thứ mùi không
giống mùi nước hoa được các chuyên gia hương thơm nước Pháp dày công pha chế tỏa
ra trên người Cung Minh, khiến mỗi lần đi qua Cung Minh, trong giây lát tôi đều
ngơ ngẩn quên mất mình định nói gì. Mùi thơm của Sùng Quang giống mùi của những
anh chàng đứng gần bên sân bóng thời trung học phổ thông.
Khi nghĩ đến sinh mạng trẻ trung bên cạnh sắp phải
tan biến, nước mắt tôi bỗng không cầm được chảy tuôn ra. Ga trải giường và chăn
trong phòng bệnh này thậm chí còn cao cấp hơn cả nhà tôi. Tôi chìm trong màu trắng
mềm như bông, tai nghe tiếng nhạc sầu thảm, hít thở bầu không khí tàn khốc thấm
đẫm mùi nước tẩy trùng, tựa vào một chàng trai không quen thân cho lắm nhưng cảm
giác lại vô cùng thân thiết ấy, tôi khóc mãi không thôi. Tay Sùng Quang khe khẽ
gõ nhịp theo điệu nhạc trên tấm chăn chúng tôi cùng đắp, ngón tay thon dài và sạch
sẽ, tựa hồ đang gõ nhẹ vào trái tim tôi.
Trong lúc hoàn toàn chìm đắm trong nỗi buồn thương ấy,
tôi không hề biết rằng, ngoài cửa sổ, Giản Khê đang đứng trong bóng tối, trầm mặc
nhìn tôi và Sùng Quang. Hai tay anh đút trong túi quần, từ bờ hồ đối diện trầm
mặc dõi theo.
Sùng Quang nằm bên cạnh tôi, hai mắt cứ nhìn chăm
chăm vào bức tường trắng trước mặt. Anh nói bằng giọng trầm trầm: “Lâm Tiêu, cô
phải nói với Cung Minh, trong tang lễ của tôi nhất định phải dùng bài hát này
làm nhạc nền đấy nhé.”
“Cung Minh?” Tôi quay đầu lại nhìn Sùng Quang.
“Ừm.” Sùng Quang gật đầu, ngoảnh mặt lại, đôi mắt đỏ
mọng nhìn tôi nói: “Anh ấy là anh trai tôi.”
Tôi không biết mình làm thế nào ra khỏi phòng bệnh của
Sùng Quang.
Trước khi tôi vào thăm Sùng Quang, Cố Ly và Đường Uyển
Như đã về trước, Giản Khê nói anh sẽ đợi tôi ở bên ngoài. Nhưng bây giờ, tôi
không tìm thấy anh.
Tôi rút điện thoại gọi, chỉ nghe thấy “Thuê bao quý
khách vừa gọi tạm thời đang tắt máy.”
Một mình tôi bước trên đường cái lúc rạng sáng, xung
quanh là những tờ báo bị gió thổi cuộn tròn. Chúng là những tờ báo buổi chiều vừa
được in ra vào khoảng chạng vạng tối, đám dân văn phòng mặt mũi mệt mỏi đọc hết
một lượt trong vòng ba phút, liền vứt chúng ra đường.
Giờ đây, tôi cảm thấy mình cũng là một tờ báo bị vứt
đi.
Trước buổi tối hôm nay, dù đã xảy ra bao nhiêu chuyện
thương đau hay khổ sở, ví như bà nội tôi bị vỡ mạch máu não không thể cứu chữa
chết trên đường tới bệnh viện, hay máy tính bị nhiễm virus đáng ghét, tôi đều
không ngại ngần gì mà không tìm người nhờ cậy, trút giận hoặc chia sẻ nỗi buồn.
Như là Giản Khê, Cố Ly, Nam Tương, ngay cả Đường Uyển Như cũng có thể dùng bộ dạng
vai u thịt bắp của nó làm tôi cảm thấy “thực ra tôi đâu có thê thảm lắm, hãy
nhìn nó xem...” Vậy mà bây giờ, tôi không dám tìm ai trong số họ.
Hoặc cũng có thể nói rằng, tôi cảm thấy mình đã mất
họ.
Như thể có một con quái thú khủng khiếp bất ngờ tấn
công Thượng Hải, nó há to mồm, nuốt cả Giản Khê, Cố Ly, Nam Tương, từng người một
vào cái bụng tối om của nó, để lại tôi trơ trọi trên đường. Tôi thậm chí muốn
gào lên với nó rằng: “Vì sao mày không ăn luôn tao đi!”
Lúc tôi đang định đến nhà Cố Ly để cùng nó vượt qua
nốt cái đêm khó khăn này thì điện thoại kêu lên, tôi tưởng là Giản Khê, mở máy
ra lại nhìn thấy tên Cố Nguyên đang nhấp nháy trên màn hình.
Sau khi gác máy, tôi vung tay, vận hết sức lực vừa
hét to vừa lao thẳng ra chiếc taxi đang có ý đồ đi lướt qua tôi.
Sau khi tôi ngồi vào trong xe, bảo với tài xế muốn đến
Phố Đông, cái khu vực không cần nói địa chỉ, chỉ cần đưa ra cái tên là mọi tài
xế ở Thượng Hải này đều biết ấy, người lái xe quay đầu lại bảo: “Tiểu thư ơi,
cô vừa dọa tôi sợ chết khiếp, tôi tưởng là cô định lao đầu vào xe tôi chết đấy,
ôi dà, cẩn thận chút nhé!”
Tôi nhìn vào bộ mặt nghiêm trọng của người lái xe,
câu nói “Ban nãy tôi thực sự cũng hơi muốn vậy” bị nén lại, không thốt ra nữa.
Trong điện thoại Cố Nguyên nói bố mẹ anh không có
nhà, hỏi tôi có thể đến gặp không, anh có một số chuyện muốn nói với tôi.
Sau mười phút đồng hồ bị người bảo vệ khu nhà tra hỏi
cặn kẽ, cuối cùng tôi bước vào cánh cổng đó.
Tôi đứng trước cửa nhà Cố Nguyên bấm chuông, một lát
sau, cửa mở, tôi ngẩng đầu nhìn, chân không nhúc nhích, một phút sau, tôi vẫn
không sao kiềm chế được cảm giác kích động, chỉ muốn lao đầu vào cánh cửa lớn.
Phía sau cửa là Neil cởi trần, mặc quần soóc, mắt
nheo nheo chào hỏi tôi, “Lâm Tiêu, Cố Nguyên đang tắm, mau vào đi.”
Mặc dù hai tháng trước tôi đã gặp phải tình huống y
hệt như vậy tại nhà Sùng Quang, nhưng hồi đó, tôi gặp phải Cung Minh quần áo chỉn
chu như núi tuyết và Sùng Quang (gần như) khỏa thân, đầu óc lập tức trào dâng một
niềm vui sướng và kích thích bất tận (... thôi được rồi, đây không phải là trọng
tâm vấn đề...), nhưng bây giờ, trong đầu tôi lại ngập tràn sự phẫn nộ, ngoài phẫn
nộ ra vẫn chỉ còn phẫn nộ thôi.