Đất Trời- Chương 03 part 3
Ngồi cạnh, Hãn nhìn phản ứng chung quanh, lẳng lặng bấm tay Trãi. Trừ Lợi và Linh nghe chăm chú, đám võ biền ngơ ngác rồi tiếp tục ngồm ngoàm đánh chén. Ðợi cho Trãi dứt lời, Ðinh Lễ là em cô cậu của Lợi, tợp một ngụm rượu rồi ồm ồm hỏi :
- Ừ thì Tâm công, nhưng cũng cần đại đao mã tấu để mà chém giặc chứ. Ông chỉ rao nhân nghĩa có đuổi được chúng đi không ?
Bọn Lê Vấn, Lê Ngân, Lê Sát... được thể cũng nhao nhao lên mỗi người một tiếng. Sát cùng tuổi nhưng thuộc hàng cháu Lợi, cao giọng :
- Ông người Kinh lộ có học, nhưng hiểu thì ông chỉ hiểu chút ít về đám lê dân chúng tôi xưa nay có chữ nghĩa gì đâu. Bảo với hàng dân là tâm công, không đánh cũng thắng, thì người ta gọi thế là đánh giặc bằng nước bọt nước giãi, chẳng có ai tin theo đâu...
Trãi giật mình thót bụng. Những điều chàng tin không hiển nhiên như chàng nghĩ. Hồi tưởng buổi gặp Hãn và Xảo ở phường Yên Hoa, Trãi nhớ lại thái độ có chút ngờ vực của cả hai người vốn chẳng phải là hạng tầm thường. Nhìn cách hành xử của đám võ tướng Lam Sơn, Trãi thấy thật rõ cái khoảng cách giữa mình và họ. Lợi có vẻ ngượng ngùng, khoác vai Trãi đứng dậy rồi kéo ra. Khinh khỉnh, Sát nâng chén quay về phía Ngân và Lễ, hô to ‘‘Cạn chén nào, bất chiến tắc thắng cũng như không uống mà say. Nước lã là rượu, anh em ơi ! ’’. Cả bọn lăn ra cười ngả cười nghiêng. Nhìn Lễ khạc nhổ phì phì, Hãn phá lên cười, lôi Viễn đứng dậy. Khi ra đến cửa, Hãn quay đầu nói với lại :
- Kính chào chư vị ! Chư vị cứ uống, hễ say là thế nào giặc cũng sợ. Say rồi nói tục, thế nào giặc cũng hãi. Nói ngông, nói cuồng không còn phép tắc, thế nào giặc cũng chạy. Sách ấy gọi là tửu công, uống đến nôn mửa ra là bách chiến bách thắng, ha ha ha...
Ngoài hàng hiên, Trãi mặt trắng bệch nghếch mắt ngó lũ võ biền bò lăn bò càng trên chiếu rượu. Hãn ghé vào tai Trãi thì thào ‘‘... Dám là bà Chúa lỡm anh em mình thật ! ’’ rồi bước xuống chân nhà sàn. Viễn đã đứng chờ, nét bực bội hiện trên mặt. Lợi bước theo, nắm tay Trãi, ngập ngừng :
- Ông bỏ qua cho họ. Họ là những người chất phác, nghĩ gì nói nấy. Cứ gặp người Kinh là họ sợ bị phỉnh bị gạt, nên họ nghĩ ông lỡm họ không chừng !
*
Không về ngay Mường Một với Hãn, Trãi ngược ra Hoa Lư đi tìm Ðạo Khiêm đã bặt mất tin từ lâu. Ngồi chống con đò lắc lư cạnh bờ, Trãi ngửng lên. Vòm lá trên đầu xanh mởn buổi đầu xuân đu đưa trì kéo bóng cây trong dòng nước lơ lửng khoan thai trôi về cuối ngạn. Vút cao trước mắt, triền núi chót vót không thấy ngọn ưỡn lên với lấy khoảnh trời trong vắt.
Nhà đò vạch bụi ló ra tươi cười :
- Nhà cháu hỏi được rồi, ông ạ. Chùa Thiện Chính còn ở tít trong, chống thêm nửa ngày mới đến. Nhìn trời, nhà đò lẩm bẩm - Xuôi gió, chắc vào giờ Mùi thì là tới thôi...
Trãi giúp đẩy con đò tròng trành ra giữa dòng. Ðứng đầu mũi, nhà đò chống rồi đẩy, mắt hấp háy nắng chói.
- Nhà đò có mấy cháu ?
- Dạ, sáu. Hai trai, bốn gái.
- Các cháu lớn chưa ?
- Con gái đầu năm nay mười lăm. Ðứa út thì lên năm, thưa ông.
- Ðông con, chắc vất vả nhỉ ?
- Nhà cháu làm đồng, xong lại đánh cá. Nhờ trời, cái ăn không đủ nhưng chưa đến nỗi đói mà chết. Năm nay con bé lớn đi lấy chồng, đỡ một miệng nhưng lại thêm việc...
Ðổi câu chuyện, Trãi dè dặt :
- Ở vùng này có yên không bác ?
- Trừ cuối vụ khi quan quân từ đồn Ninh Hạ đến thu thuế, còn lại thì cũng yên...
- Khi thu thuế thì sao ?
- Hàng dân giấu thóc, giấu tơ. Quan quân thì khám, rồi thu. Không thóc, không tơ phải nộp tiền. Không tiền thì tra khảo đánh đập đốt nhà phá cửa... Hoặc bắt phu dịch, đi mò châu, săn voi, bắt gấu. Cứ đến cuối vụ là hàng dân ẩn vào rừng sâu, núi cao... Trong rừng có giấu cung nỏ dao kiếm. Vào lùng bắt thì phải chống lại, năm nào cũng có người tử thương.
Chép miệng, Trãi hỏi :
- Giờ thì thế, nhưng trước thì sao ?
- Thời tiền triều nhà Hồ có đỡ hơn một chút, nhưng lại bị nạn bắt lính ! Nhà cháu cũng xung quân đấy chứ. Bị vây ở Lỗi Giang, lính chúng cháu hỏi nhau liều chết mà đánh giặc Ngô để làm gì ?
- ...
- Có đứa bảo, non sông mình thì mình phải giữ. Ðứa khác chửi rồi hỏi mày có giữ thì giữ cho ai, chứ chẳng phải mày giữ cho mày. Giữ thì mày được gì ? Còn non sông thì vẫn đó, giặc nó có lấp sông dời núi đâu... Thế là mười phần bỏ chạy đến chín !
Trãi chợt nhớ một câu chuyện trên đường ra Phá Lũy năm xưa. Trước sự thất bại quá nhanh của nhà Hồ, Trãi lân la hỏi gần hỏi xa, chuyện trò với một anh thợ rèn. Anh ta bảo từ khi Quí Ly lên ngôi vua thì anh ta phải nung chuông đổ sắt, rèn gấp đôi, toàn là đao kiếm cho triều đình. Trước, anh nuôi được vợ con. Sau, anh chỉ nuôi được con, vợ phải đi ở đợ. Ðến khi quân Minh qua, anh ta bị bắt lính. Anh nghĩ, đánh nhau mà thắng thì lại tiếp tục rèn gấp đôi, chỉ nuôi được con, vợ vẫn đi ở đợ. Thôi thì vua quan nào cũng được, miễn là cho sống thì vua quan người Ngô hay người Việt cũng thế. Vậy thì thua, thua cho nhanh là thượng sách. Bạc là dân, bất nhân là lính ? Trãi thầm hỏi. Không. Không phải là dân bạc. Bắt họ sống chết bảo vệ cho vua quan là những kẻ đẩy họ vào cảnh khốn khổ ư ? Dùng lời lẽ hão huyền những là tự do với độc lập, rồi sau đó lại sưu cao thuế nặng, lại nô lại dịch thì thử hỏi ai bạc hơn ai ?
Nhìn nhà đò, Trãi chậm rãi :
- Không lấp sông dời núi, nhưng nay giặc bắt mình làm tôi mọi, cấm búi tóc, vấn khăn, nhuộm răng, mặc váy...
Nhà đò nhìn Trãi, vẻ ngạc nhiên nhưng chỉ hềnh hệch cười :
- Úi dào, thì có thế thật. Nhưng thưa ông, chỉ vậy thì không sợ.
Trãi gặng :
- Thế thì sợ gì ?
- Sợ nhất vẫn là sợ đói, mà đói thì vì sưu cao thuế nặng. Năm đầu giặc chiếm đóng, hàng dân nói với thổ quan xin giảm thuế là theo, còn chống là chuyện của mấy ông đồ nho lắm chữ lắm nghĩa. Nhưng sau, sưu thuế cứ tăng dần, bọn thổ quan thổ binh đè đầu bóp cổ, nhũng nhiễu đến không sống được. Ở Mường Thôi, người ‘‘ trại ’’ chống thuế đào hào đắp lũy. Rồi Mường Nanh cũng bắt chước nổi dậy... Sắp loạn, mà loạn to đấy. Nhà cháu nghe nói ở châu Ngọc Ma, quan quân nhà Minh bị đánh tan tác, không biết có phải không ?
Trãi giả tảng không nghe, quay đầu nhìn lên triền núi. Từ vách đá, dẫu chỉ có chút đất cằn, những nhánh cây khẳng khiu vẫn đâm ra ngạo nghễ chọc ngang trời. Sự sống, điều huyền diệu tự biện minh cho tất cả. Chết vì non sông gấm vóc, vì trung quân ái quốc chỉ thuần từ miệng lưỡi thêu vẽ huyễn hoặc. Ðó là bài học Trãi thấm thía nhờ bác nhà đò và anh thợ rèn. Và nghĩ lại, cái sách Tâm công như Trãi trình bầy với đám võ biền Lam Sơn không một mảy may thuyết phục vì đúng nó cũng chỉ là ngôn từ. Nhưng Trãi vẫn băn khoăn. Thế thì những con người bình thường kia có thể chết cho cái gì ? Ðộng lực nào khiến họ dấn thân chấp nhận mang đời mình ra đánh đổi ?
Ðể sốâng !
Liều chết để tìm ra đường sống ? Có thể lắm. Nhưng nếu không chỉ phát xuất từ bản năng mà là một chọn lựa bó buộc thì liều chết để tìm ra đường sống lại là nghịch biện oái oăm và thê thảm nhất của loài người. Từ khi nghĩ ra điều đó, mọi chủ đề trong Bình Ngô sách sau viết lại đều dựa trên nền tảng sự sống. Cho một tập thể của những con người có thật. Tức là những con người biết sợ đói và tìm cách tồn tại sống còn với mọi quyền lực.
*
Chùa Thiện Chính, lửng lơ giữa trời và đất, mang dáng dấp nửa thiên tiên nửa phàm tục. Từ bờ sông, lên một dốc núi vây quanh chỉ có vách và vực. Cây cao nhìn xuống thấy thân mà không thấy gốc, um tùm lấn mọc đến tận rìa núi chênh vênh. Chùa gồm năm gian, chĩa xòe ra như trạm trổ vào lòng đất một mỏm núi chót vót, ngạo nghễ nhìn ra dòng sông Mã quanh co tít tắp chân mây. Sân chùa vắt vẻo giữa hai hàng bạch đàn, phía trước là một phiến đá bằng phẳng óng ánh nhô ra vực núi sâu hoắm nhìn xuống mà chột dạ.
Vạch cây leo lên đến cổng chùa, Trãi nhờ một chú tiểu vào thông báo. Lát sau, Ðạo Khiêm thủng thẳng bước ra, miệng reo :
- Thí chủ ! Cái hẹn trên đường về xuôi từ ải Phá Lũy thế mà đã quá mười năm rồi. Thảo nào bần tăng máy mắt cả tuần trăng, không đoán được là gặp cố nhân.
Trãi vái Ðạo Khiêm, tươi cười :
- Ðến ăn của bố thí nhà chùa dăm bữa, kẻ ăn mày này không có gì dâng lên lễ Phật, xin thày mở lòng từ bi đánh cho hai chữ đại xá.
Nắm tay Trãi, Ðạo Khiêm nhìn tròng trọc :
- Hề gì, rau cỏ là của cả nhân gian. Này, thí chủ tóc có bạc đi nhưng vẫn thần thái lắm. Bần tăng xin mừng. Nào, vào đây, vào đây...
Vừa nói, Ðạo Khiêm vừa kéo Trãi đi, miệng gọi chú tiểu ra xách cái bị Trãi mang theo bên mình. Trong chiếc áo nâu sồng phủ đến gót chân, Ðạo Khiêm gày gò nhưng rắn chắc, nhẹ lướt đi trên nền sân đất nện. Dưới hàng lông mày rậm rì nay đã bạc thếch, mắt sư lung linh sáng quắc lên dưới ánh nắng đầu trưa. Ðến thềm, Sư đẩy Trãi vào trước, rồi bắt ngồi, miệng vui vẻ :
- Uống với nhau ấm trà đã nhé...
Sau tuần trà, Trãi quá mệt xin phép đi nằm. Khi tỉnh giấc sau một cơn ngủ vùi, mặt trời chỉ còn là một vệt lay lắt sáng cuối chân mây. Cơm chiều nhà chùa có cà dầm tương và rau rừng luộc với gừng non. Ăn xong trời đã xẩm tối. Ðạo Khiêm thắp đèn, nhẩn nha :
- Bần tăng ở cửa Phật thì yên ổn đã đành, chứ thí chủ chắc là chẳng sóng cũng gió.
Chép miệng, Trãi kể lại mười năm sống trong sự quản thúc của Hoàng Phúc ở Ðông Quan để bảo toàn mạng cho cha đi đầy. Khi nghe cha mất, Trãi định bụng thoát ly, nhờ Hà Trí Viễn liên lạc với Hãn. Hãn hẹn chàng vào Trường Yên. Chưa kịp sửa soạn, Phạm Văn Xảo biết giặc rục rịch, cho người đến đưa đi ngay. Quả nhiên, tối hôm đó quân Minh đến xục xạo góc thành Nam để bắt chàng. Nhưng lúc ấy, Trãi đã theo cửa Tây đến ven sông, xuống ẩn trong một chiếc thuyền buôn. Hai ngày sau, thuyền nhổ neo rồi dọc sông Nhị, ra tới biển men bờ chạy vào cửa Thần Phù. Thuyền đi được một ngày thì gập bão. Thật một sống hai chết, đúng làthuyền ai đội sóng Thần Phù, khéo tu thời nổi vụng tu thời chìm. Lên được bờ, Trãi theo đường bộ vào Trường Yên như đã hẹn, nhưng đợi mà không thấy Viễn. Mãi khi vào đến Thanh Hóa, Trãi mới biết là Viễn đã rời Nhị Khê sau lần ám toán hụt Hoàng Phúc. Kể đến đấy, Trãi quặn lòng nhớ đến Xuyến. Chàng ra đi mà không thể ghé đến giã từ Xuyến như dự tính. Và rồi từ đấy là bặt vô âm tín mặc dầu chàng đã nhiều lần nhờ người đi dò hỏi kiếm tìm. Cúi đầu, chàng bần thần im lặng. Nghe Ðạo Khiêm hỏi, Trãi như sực tỉnh, trầm ngâm :
- ...Thế là tại hạ ở Mường Một với Hãn và Nguyễn Chích từ hai năm nay. Nghĩa quân ở cái thế rút thì phải đến cửa Thần Phù ra biển, vừa khó khăn, lại bất trắc. Vả lại, phất cờ được là chỉ vì chống thuế má và phu dịch. Chích là một tay hảo hán nhưng tầm nhìn chỉ có đến Trường Yên. Quá núi Tam Ðiệp, Chích coi như là việc người khác, không dính dấp đến dân Mường...
Thở dài, Trãi lẩm nhẩm :
- Cái bản sắc dân tộc chưa đủ mạnh, dẫu rằng trên ba trăm năm trước đã có người ngâm nga ‘‘ Nam quốâc sơn hà nam đế cư...’’. Rồi bà Chúa lại lỡm - Trãi cười nhạt - Thế là đi không rồi về cũng không...
- A di dà Phật, bà Chúa nào lỡm ? Bần tăng không hiểu...
Nhìn nét mặt Ðạo Khiêm ngơ ngẩn dưới ánh đèn, Trãi bật cười :
- Thầy thứ lỗi, tại hạ lắm khi nói như mê như lẫn. Ở cửa Phật, ai lại dám nói đến ông Hoàng bà Chúa, thật là phạm thượng...
- Không đâu ! Cửa Phật chẳng hẹp hòi đến thế. Thí chủ cứ kể.
Ðạo Khiêm cười mỉm khi nghe xong chuyện bà Chúa Tiên Dung lỡm Trãi, cái sách lược Tâm công bị đám nghĩa sĩ Lam Sơn bỏ cho bay theo hơi rượu, và cuộc tái ngộ bất ngờ với Viễn. Lim dim nhìn Trãi, sư rót trà. Nhấp một ngụm, sư thủng thẳng :
- Năm kia Viễn có ghé chùa thăm bần tăng. Ðược dăm ngày, Viễn nóng ruột đòi đi...
Nhắm mắt, Ðạo Khiêm hồi tưởng lại cánh rừng nằm dưới chân Phá Lũy. Buổi trưa hôm đó, Trãi ngủ mê mệt. Dựa lưng vào thân cây, Ðạo Khiêm tập trung thiền tịnh trong khi Viễn bỏ ra bờ con suối nhỏ róc rách đổ về xuôi. Khi hé mắt nhìn, Khiêm thấy Viễn tay xách xác một con rắn ra bỏ cạnh Trãi. Ngạc nhiên, Khiêm đứng dậy lẻn người sau một rặng cây. Không để ý, Viễn ngồi, mắt ngó trừng trừng vào xác rắn. Ngửng lên nhìn mặt trời đổ lửa, Viễn giơ cao cây gậy, mất kiên nhẫn há miệng thét cho Trãi choàng dậy. Lúc đó, Viễn thẳng cánh quật vào đầu rắn. Cái ơn cứu mạng Trãi thật ra là ngụy tạo bởi một thằng bé con. Khiêm rùng mình sởn gai ốc trong cái nóng hừng hực. Không biết động cơ nào thúc đẩy Viễn, Ðạo Khiêm niệm kinh Giải Oan rồi lẳng lặng lẩn đi để cho Trãi và Viễn lên đường.
Về chùa, câu chuyện xưa chìm vào quên lãng cho đến khi, mười năm sau, người gõ cổng chùa hỏi Ðạo Khiêm lại là Viễn. Nay Viễn đã trưởng thành chứ không phải cậu bé năm xưa dưới chân ải Phá Lũy. Chân tay kềnh càng, mắt ốc nhồi, da bắt nắng cháy đen màu đồng mun, râu ria Viễn lởm chởm nhìn bợm trợn như tướng cướp. Kể lể cảnh sống của mình ở Nhị Khê những năm qua, Viễn nói về Trãi bị giam lỏng ở Ðông Quan, và rồi khẩn khoản xin Khiêm giảng cho nghe. Khiêm hỏi ‘‘ Giảng gì ? ’’. Viễn chìa ra một cuốn sách đã mất bìa, lật đến đoạn ‘‘…Huyệt mộ có ‘‘con long ’’ từ xa chạy đến kết cục, chuyển vần lên xuống, gặp dòng nước sinh ra ‘‘con xà ’’ nhỏ như sợi khói, bỗng nổi lên ‘‘mộc tinh ’’ góc cạnh đầy đủ giữ gìn chân khí, bên tả lại có ngôi ‘‘ thể tinh ’’, trước có án, dưới án là một giải ‘‘sà chim ’’, chạy đến nơi ‘‘long hổ ’’ bày ra, khe nhỏ bọc lại, tả che hữu đỡ nhìn thì là quả ấn, cây gươm, cái mũ, quản bút đúng là ‘‘quý cách ’’, không thể sai được... ’’. Ðợi cho Khiêm đọc xong, Viễn thưa ‘‘ Bạch thầy, đằng sau huyệt mộ là một rặng đề. Rặng đề này bị trốc gốc. Nước khe dưới chân cũng bị lấp. Thế nghĩa là thế nào ? ’’. Lắc đầu, Ðạo Khiêm chậm rãi ‘‘ Bần tăng đi tu, không để tâm đến những chuyện này. Thí chủ nhầm người hỏi rồi ! ’’. Năn nỉ mãi, cuối cùng Khiêm mách ‘‘ Chuyện phong thủy thì phải tìm Vũ Lại. Nhưng ông ta là phương sĩ, rày đây mai đó. Bần tăng nghe ông ta thỉnh thoảng lại về núi La ở vùng Nghệ... ’’.
Kể cho Trãi nghe đến đó, Ðạo Khiêm ề à :
- Thế là hôm sau Viễn lên đường đi ngay. Bần tăng đoán là Viễn ra La Sơn, rồi bặt tin cho đến nay mới biết Viễn đã vào Lam Sơn tụ nghĩa ...
Báo cáo nội dung xấu

