Địa đồ di cốt -chương 14 part 2
“Anh phải cứu cô ta ra khỏi bọn chúng”
“Tôi đang làm việc theo hướng đó. Thế còn anh thì sao, anh có an toàn không?”
“Có vẻ như vậy,” anh ta nói “Chúng bảo tôi phải giữ mồm. Tôi làm như vậy, trở thành thằng câm. Tuy nhiên, các bác sĩ đã gọi cảnh sát địa phương. An ninh đã được thiết lập”
“Lúc này, cứ làm như chúng yêu cầu anh.” Ray nói. “Tôi sẽ cố đưa anh ra càng sớm càng tốt”
“Gray,” Monk nói, giọng rất căng thẳng. Gray nhận ra anh ta muốn truyền đạt điều gì đó, nhưng cũng biết rằng những kẻ khác đang nghe lỏm. “Chúng… chúng cho tôi đi”
Đường dây lại im lặng. Raoul trở lại đầu dây.
“Hết giờ rồi. Như mày thấy đấy, tụi tao tôn trọng lời hứa. Nếu như mày muốn con đàn bà đó được thả tự do, mày phải cầm chiếc chìa đến.”
“Hiều rồi, thế sau sao nữa”
“Tao sẽ có xe đợi mày ở ga Lausanne”
“Không.” Gray nói “Tao sẽ không tự nộp mình vào tròng của mày chừng nào chưa biết chắc rằng Rachel an toàn. Khi tao tới Lausanne, tao muốn được khẳng định rằng cô ta vẫn an toàn. Rồi tao với mày sẽ thu xếp với nhau.”
“Đừng dùng tay mày ép tao,” Raoul gào lên “Tao không thích lại phải chặt nó giống như bạn mày vậy. Chúng ta sẽ tiếp tục nói chuyện khi mày ở đây”
Đường dây chấm dứt.
Gray hạ máy xuống. Như vậy là Raoul ở Lausanne.
Anh chờ tàu hỏa. Đó là chuyến tàu cuối cùng. Trên sân ga cũng không đông khách lắm. Anh nhìn những khách đi tàu. Không thấy dấu hiệu gì của Seichan. Liệu còn có những tên gián điệp nào của Long Đình ở đây không?
Cuối cùng con tàu cũng tới, tiếng va đập vào đường raay. Nó rít lên rồi đỗ lại sau một hồi còi. Gray trèo vào khoang giữa, rồi vội vã lách qua các toa đi về phía cuối., cố gằng gạt được cái đuôi nào đó.
Tại chỗ nối giữa hai toa cuối Seichan chờ ở đó.
Cô không tìm cách nhận ra anh, chỉ đưa cho anh một giẻ lau bụi dài. Cô quay lại rồi bước ra phía cửa thoát hiểm ở phía bên kia đường tàu cách xa chỗ lên tàu.
Anh theo sau, nhảy xuống. Anh nhét cái giẻ đó vào áo rồi kéo cổ áo lên.
Seichan vội vã đi qua một đường tàu khác sang chỗ chờ tàu bên cạnh. Họ rời nhà ga và Gray thấy mình đang ở bên cạnh một bãi đậu xe.
Một chiếc mô tô BMW màu đen vàng đang đỗ gần đó.
“Trèo lên” Seichan nói “Anh lái xe đi. Vai của tôi” Cô ta đã phải vứt cái gạc đeo đi để lái từ chỗ mượn xe ra đây, nhưng còn năm mươi dặm nữa mới tới Lausanne.
Cô trèo lên ngồi sau anh rồi vòng cánh tay rắn chắc ôm chặt lấy anh.
Gray nổ máy. Anh đã nhớ đường từ đây đi Lausanne. Anh lao qua chỗ đỗ xe rồi lách qua các đường phố, rú ga vào đường cao tốc dẫn đi từ Geneva đến cac khu vực đồi núi.
Ánh đèn pha xa máy hướng về phía trước.
Anh leo theo ánh đèn, mỗi lúc mỗi nhanh hơn, gió đập mạnh vào áo khoác. Seichan dựa ngày càng sát vào người anh, tay ôm choàng quanh người, bàn tay luồn vào trong áo, những ngón tay bám chặt vào thắt lưng.
Anh cố gắng kiềm chế không gạt tay cô ta ra. Khôn ngoan hay không thì anh cũng đã làm việc này rồi. Anh lại leo lên đường núi hẹp. Họ phải tới Lausanne trong vòng hai mươi phút, sớm hơn tàu hỏa. Liệu có kịp thời gian không?
Khi anh leo lên đỉnh núi nhìn xuống hồ, đầu óc Gray trở lại với cuộc chuyện trò với Monk. Anh ta định nói với anh điều gì? Chúng để tôi đi. Cái đó rất rõ ràng. Nhưng Monk còn ám chỉ điều gì?
Gray nhớ lại nhũng nhận định khi còn ở Ai Cập. Anh đã biết Long Đình sẽ thả Monk. Chuyện thả được thực hiện để bảo đảm và ép Gray hợp tác với chúng. Vả lại tên Raoul vẫn còn Rachel để mặc cả.
Chúng để tôi đi.
Liệu có cái gì đó hơn cả chuyện thả anh ta không? Tụi Long Đình rất man rợ. Chúng không bao giờ chịu nhả ra những miếng mồi ngon. Chúng đã dùng cách tra tấn Monk để buộc Rachel phải nói. Vậy vì sao chúng lại từ bỏ một món quý dễ dàng như vậy? Monk đã đúng. Trừ phi LongĐình đã nắm chặt được Rachel.
Vậy là cái gì?
2 giờ 2 phút sáng
Laussance Thụy Sĩ
Rachel ngồi trong xà lim, im lặng và mệt mỏi
Mỗi khi nhắm mắt lại, cô lại hình dung ra nổi hãi hung. Cô thấy chiếc rìu vung xuống. Người Monk nảy lên, bàn tay bị chặt đứt của anh văng ra bên trên boong tàu như con cá bị vứt trên cạn. Máu tuôn ra.
Alberto đã hét lớn lên với Raoul vì hành động của hắn. Không phải vì sự tàn bạo của hắn mà vì gã muốn người đàn ông đó sống. Raoul đã gạt đi nỗi lo lắng của gã. Chúng đã buộc ga-rô cầm máu. Alberto nói Raoul cho người kéo Monk lên khoang bên.
Sau đó, cô được một trong những người đàn bà của hiệp hội cho biết anh ta còn sống. Hai giờ sau, chiếc tàu cao tốc đã tới một hòn đảo trên Địa Trung Hải. Họ được chuyển đến một máy bay tư nhân nhỏ
Rachel nhìn thấy Monk, phờ phạc, cổ tay bị chặt được băng bó đến tận khuỷu đang nằm trên cán. Rồi cô bị nhốt vào khoang sau. Một mình, không có cửa số. Trong suốt chuyến bay kéo dài năm tiếng đồng hồ họ hạ cánh hai lần. Cuối cùng, cô được đưa ra.
Monk đã đi mất.
Raoul che cả mặt rồi bịt miệng cô lại. Cô bị chuyển sang một chiếc xe tải. Sau nửa giờ lái ngoằn nghèo họ tới điểm đến cuối cùng. Cô nghe tiếng bánh ô tô chạm vào những tấm gỗ. Một cái cầu. Chiếc xe phanh dừng lại.
Bị lôi ra ngoài, cô nghe thấy tiếng chó sủa gầm gừ, giọng rất đanh. Một con chó chăn cừu hay đại loại vậy.
Cô bị dẫn đi bằng khuỷu tay qua lối đi rồi xuống cầu thang. Cánh cửa đóng lại phía sau, không còn nghe tiếng chó sủa nữa. cô ngửi thấy mùi đá lạnh và ẩm ướt. Cô cũng cảm thấy áp lực tăng dần khi chiếc xe tải leo lên đây.
Vùng núi
Cuối cùng thì cô bị đầy xô về phía trước. Cô ngã sụp xuống cả hai chân hai tay
Raoul ôm lấy phía sau cô bằng cả hai tay rồi cười lớn “Đã muốn xin chuyện đó rồi à?”
Rachel nhảy lên, vai cô bị va phải một vật gì đó rất rắn. Mặt nạ rồi giẻ bịt miệng bị được lấy ra. Xoa xoa vai, cô nhìn quanh xà lim bằng đá chật hẹp. Lại không có cửa sổ, cảm giác về thời gian đã mất đi. Đồ đạc duy nhất là một cái giường bằng thép. Chiếc chiếu được cuộn tròn xếp đầu giường. Một chiếc gối ở trên, không có khăn trải giường.
Xà lim không có chấn song. Một bên tường là một tấm kính thủy tinh dầy chắc chắn, bên kia là cánh cửa đệm cao su và lỗ thông hơi bằng bàn tay. Ngay cả những lỗ thông hơi cũng có nắp có thể đóng sập lại từ bên ngoài để không nghe tiếng động hoặc từ từ cho tù nhân chết ngạt.
Cô bị bỏ mặc ở đó trong vòng một tiếng.
Không có ai gác. Tuy vậy, cô vẫn nghe thấy tiếng nói từ dưới sảnh, có thể là khoang cầu thang.
Có tiếng huyên náo bên ngoài. Cô ngửng mặt lên rồi đứng dậy. Cô nghe thấy giọng nói cộc lốc của Raoul, những mệnh lệnh phát ra. Cô đứng nép vào bức tường thủy tinh. Quần áo của cô đã được trả lại lúc ở trên thuyền nhưng cô không có vũ khí.
Raoul xuất hiện, có hai tên hộ tống hai bên.
Hắn trông không vui vẻ gì.
“Đi ra khỏi đây” Raoul làu bàu
Chìa khóa mở cửa, cô bị kéo ra ngoài.
“Đi theo lối này” Raoul nói. Hắn dẫn cô đi dọc theo sảnh.
Cô thấy những xà lim khác, có những cái bịt kín giống như cà lim của cô, một vài cái mở phía trước xếp đống vỏ chai vang.
Raoul đấy cô tới cầu thang rồi tới một cái sân tối đen chỉ thấy mờ mờ ánh trăng. Những bức tường bằng đá xung quanh. Một cái cổng vòm dưới đó là hai cánh cổng sắt lớn có thể nâng lên dẫn đến một cái cầu hẹp bắc ngang con mương.
Cô đang ở trong một lâu đài
Một hàng xe tải xếp dọc theo bức tường gần ngay lối vào lâu đài.
Dọc theo bức tường bên, một hàng dài gần hai chục cái chuồn có khóa. Những tiếng gầm gừ phát ra từ trong đó. Những cái bóng to lớn di chuyển trông thật gân guốc, gớm ghiếc.
Raoul chắc nhận thấy sự chú ý của cô. Hắn gật đầu một cách tự hào man rợ “Đây là những con chó chiến, có nòi từ TK XVIII. Giống thuần chủng, tuyệt vòi. Tất cả những bắp thịt, xương hàm và răng”
Rachel phân vân không biết liệu hắn có đang mô tả về mình không
Raoul dẫn cô đi tù cửa lâu đài vào thẳng khu vực giữa. Hai hàng cầu thang dẫn đến một cánh cửa dày gỗ sồi, được những bóng đèn tròn , giống những chiếc bánh nướng, thắp sáng vẻ rất mời mọc nhưng họ không đi vào lối đó. Một cánh cửa bên dẫn đến một tầng dưới cầu thang.
Ẩn vào một cái nút, hắn mở cánh cửa dưới.
Khi cánh cửa mở toang ra, Rachel đã thoáng thấy mùi thuốc khử trùng và mùi gì đó tối tăm, tởm lợm. Cô bị đẩy vào một căn phòng hình vuông, được thắp sáng rực rỡ bằng những bóng đèn huỳnh quang. Tường đá, nền lát bằng những tấm phủ. Một tên duy nhất đứng gác trước cửa ra vào.
Raoul đi ngang qua rồi đẩy cửa
Phía trước là một lối đi dài dẫn qua hàng loạt căn phòng. Cô liếc nhìn vào vài ba cái phòng khi côbị đưa đi dọc theo. Có phòng đầy những chuồng bằng thép không gỉ. Những dãy máy tính nối dọc với nhau chiếm một phòng khác. Trường điện tử, cô đoán chúng được sử dụng để thử nghiệm với các hợp chất ở trạng thái–m. Trong căn phòng thứ ba chỉ có một chiếc bàn bằng thép có chữ X. Đai buộc bằng da trên bàn cho thấy nó được dùng để trói người, nạn nhân phải dang thẳng tay chân ra. Một ngọn đèn phẩu thuật treo ở phía trên.
Cảnh tượng này làm cô lạnh cả người.
Căn phòng còn lại trải dài phía trước. Cô đã thấy quá đủ và chỉ mong được dừng lại một cánh cửa ở bức tường đối diện
Raoul gõ rồi đẩy cửa vào.
Rachel rất ngạc nhiên bởi sự tương phản. Giống như là bước vào một căn phòng của thế kỷ trước của một nhà khoa học hoàng gia nổi tiếng. Căn phòng này được trang bị với đồ đạc làm bằng gỗ sồi và gỗ dẻ. Dưới sàn là tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ dày cộp màu xanh ngọc và đỏ sẫm.
Những giá sách và tủ bày xếp dọc theo tường chứa đầy các văn bản mới được thu gọn lại. Phía sau tấm kính cô đọc thấy bản đầu tiên của cuốn Principia của Isac Newton, bên cạnh đó là tập Nguốn gốc các loài của Đacuyn. Cũng có cả một văn bản nổi tiếng của Ai Cập đang được mở ra ở một bên. Rachel đang phân vân đây có phải là cuốn sách đã ăn cắp ở bảo tang Cairo hay không , văn bản giả mạo với những khổ thơ bí ẩn đã dẫn đến toàn bộ vụ thám hiểm chết người này
Những gì cô nhìn thấy đều là những kiệt tác nghệ thuật. Các pho tượng La Mã và Trung Đông xếp trên các giá, có cả một con ngựa cao hai tấc từ Ba Tư, một cái đầu tượng, một kiệt tác ăn trộm từ Iran chục năm về trước, được cho là khuôn mẫu của con ngựa nổi tiếng của Alexander Đại Đế, có tên là Bucephalus. Những bức họa được xếp phía trên. Cô biết một bức là của Rambrandt còn bức kia là của Rapheal
Nhưng nằm ngay giữa phòng là một cái bàn lớn được chạm khắc. Nó được kê gần cái lò sửi lát đá cao từ sàn đến trần. Những ngọn lửa nhỏ đang bập bùng bên trong lò sưởi.
“Giáo sư” Raoul gọi, đóng cửa lại phía sau.
Qua một cánh cửa bên tới một căn phòng trong, tiến sĩ Alberto Menardi bước vào. Gã mặc bộ vét màu đen đắt tiền. Chắc gã vẫn còn giữ thói quen nên vẫn đeo cổ áo choàng linh mục trên chiếc sơ mi màu đen
Gã cầm một cuốn sách trong tay, chỉ về phía Rachel “Cô vẫn chưa thành thực với chúng ta”
Rachel thấy tim mình như đập mạnh. Hơi thở như nghẹn lại
Alberto quay lại Raoul “Nếu như anh làm tôi sao lãng việc cần chữa cổ tay cho thằng cha người Mỹ đó, tôi sẽ sóm phát hiện ra thôi. Hai người hãy tới đây”
Hắn tiến tới một cái bàn chứa đầy tài liệu.
Rachel để ý tấm bản đồ cô vẽ Địa Trung Hải trải rộng trên bàn. Đã thấy có những dòng kẻ mới, vòng tròn, kinh độ, vĩ độ. Những con số nhỏ bí ẩn được điền vào một bên bản đồ. Một cái la bàn và thước vuông nằm bên cạnh cùng với dụng cụ đo độ cao mặt trời. Rõ rang Alberto đang nghiên cứu về câu đố này, không mấy tin Rachel và hình dung ra cô và ông bác cô thật quá ngu đần.
Gã viện trưởng gõ vào tấm bản đồ “Rome không phải là điểm tiếp theo”
Rachel cố giữ không tỏ ra là mình sợ.
Alberto tiếp tục “Tất cả những điều này đều ám chỉ mọi hoạt động đều tiến lên phía trước. Ngay chiếc đồng hồ cát đây, một bộ phận để chỉ thời gian, mỗi lúc chỉ rơi một ít cho đến khi có sự chấm dứt không đảo ngược. Vì lý do này, biểu tượng của đồng hồ cát luôn đại diện cho cái chết, sự chấm dứt của thời gian. Vẽ đồng hồ cát ở đây chỉ có nghĩa một điều.
Cặp mắt của Raoul nheo lại, cho thấy hắn chẳng hiểu gì cả.