Anne tóc đỏ làng Avonlea - chương 13

13. Một Buối Dã Ngoại Tuyệt Vời

Anne, trên đường đến dốc Vườn Quả, gặp Diana đang đi
đến Chái Nhà Xanh, nơi cây cầu gỗ cũ phủ rêu bắc ngang qua con suối ở phía dưới
rừng Ma Ám. Họ ngồi xuống bên bờ Bong Bóng Nữ Thần Rừng, nơi những cây dương xỉ
bé xíu vừa tỉnh dậy từ một giấc ngủ ngắn đang lúc lắc những mái đầu xanh xoăn
tít.

“Tớ đang trên đường sang nhờ cậu giúp tớ tổ chức
sinh nhật vào thứ Bảy này,” Anne nói.

“Sinh nhật cậu? Nhưng sinh nhật cậu vào tháng Ba
mà!”

“Đó không phải là lỗi của tớ,” Anne phá lên cười. “Nếu
bố mẹ tớ chịu hỏi ý tớ thì chuyện đó đã không bao giờ xảy ra. Tớ đương nhiên sẽ
chọn sinh vào mùa xuân rồi. Thật tuyệt vời khi tiến vào thế giới này cùng với
hoa tháng Năm và hoa violet. Cậu sẽ luôn cảm thấy chúng là em gái nuôi của cậu.
Nhưng vì tớ không sinh vào mùa xuân, điều tốt nhất có thể làm là kỷ niệm ngày
sinh của mình vào mùa xuân. Priscilla sẽ ghé thăm hôm thứ Bảy, và Jane sẽ về
nhà. Bốn người chúng ta sẽ đi vào rừng, dành một ngày tuyệt vời làm quen với
mùa xuân. Không ai trong chúng ta biết xuân là ai, nhưng chúng ta sẽ gặp gỡ
nàng ở đó, điều mà chúng ta không tài nào làm được ở nơi khác. Dù sao thì tớ
cũng muốn thám hiểm mọi cánh đồng và góc khuất. Tớ tin rằng có vô số góc khuất
tuyệt đẹp chưa từng được phát hiện mặc dù có thể đã được nhìn thấy. Chúng ta
cũng sẽ làm quen với gió, bầu trời và ánh nắng, rồi đem về mùa xuân trong trái
tim.”

“Nghe có vẻ hay khủng khiếp đấy,” Diana có đôi chút
thầm nghi ngờ những lời ma thuật của Anne. “Nhưng chẳng phải ở vài ba nơi còn rất
ẩm ướt hay sao?”

“Ồ, chúng ta sẽ mang ủng cao su chứ,” Anne lùi bước
trước thực tế. “Và tớ muốn cậu qua sớm vào sáng thứ Bảy giúp tớ chuẩn bị bữa
trưa. Tớ sẽ chuẩn bị những món thanh nhã nhất có thể... những món hợp với mùa
xuân, cậu hiểu mà... bánh tạc rau câu nhỏ, bánh lưỡi mèo, bánh quy bơ phủ kem
vàng và hồng, bánh mao lương. Và chúng ta cũng phải làm bánh mì kẹp, dẫu chúng
chẳng thi vị tí nào.”

Thứ Bảy chứng tỏ là một ngày dã ngoại tuyệt vời...
gió nhẹ, trời trong xanh, nắng ấm áp, làn gió nghịch ngợm lướt qua đồng cỏ và
vườn cây. Nơi nào có ánh nắng chiếu tới cũng ngập tràn màu xanh điểm những bông
hoa nhỏ li ti.

Ông Harrison đang cày ruộng ở cuối nông trại, cảm nhận
tác phẩm mê hoặc của nàng xuân lay động ngay trong bầu máu đứng tuổi nghiêm túc
của mình, thì nhìn thấy bốn cô gái giỏ trĩu nặng trong tay, dung dăng dung dẻ
đi qua phía cuối cánh đồng của ông, nơi giáp ranh với một rặng cây bạch dương
và linh sam. Giọng nói cười vui tươi của họ vọng lại đến tận tai ông.

“Hạnh phúc trong một ngày thế này thật dễ dàng, phải
không?” Anne nói, trung thành với triết lý của Anne. “Hãy cố biến hôm nay thành
một ngày tuyệt vời thực sự, một ngày chúng ta luôn có thể nhớ lại đầy hứng thú.
Chúng ta đi tìm cái đẹp và cương quyết không nhìn thấy bất cứ gì khác. 'Những
thứ chán phèo, hãy coi chừng!' Jane, cậu lại đang nghĩ tới vấn đề gì đó xảy ra ở
trường hôm qua rồi.”

“Sao cậu biết?” Jane ồ lên ngạc nhiên.

“À, tớ biết rõ vẻ mặt đó... Tớ cảm thấy nó quá nhiều
lần trên mặt của mình mà. Nhưng bỏ nó ra khỏi tâm trí của cậu đi, ngoan đi mà.
Nó sẽ chờ được tới thứ Hai... nếu nó không chờ được thì càng tốt. ồ, các cô
gái, nhìn cụm hoa violet kia kìa! Lại có thêm một cái gì đó cho bộ sưu tập hình
ảnh trong trí nhớ của tớ. Khi tớ tám mươi tuổi... nếu tớ sống tới tuổi đó... tớ
sẽ nhắm mắt lại và nhìn thấy những đóa violet đó rõ ràng như tớ nhìn thấy bây
giờ. Đó là món quà tốt đẹp đầu tiên mà ngày hôm nay tặng cho chúng ta.”

“Nếu có thể nhìn thấy một nụ hôn, chắc nó sẽ trông
giống như đóa hoa violet,” Priscilla nói.

Anne như bừng sáng.

“Tớ rất vui khi cậu nói ra suy nghĩ đó, Priscilla ạ,
thay vì chỉ giữ riêng cho mình. Thế giới này sẽ thú vị hơn nhiều... dẫu rằng nó
vốn đã rất thú vị rồi... nếu mọi người chịu nói ra suy nghĩ thực sự của họ.”

“Khi đó một số người sẽ gặp rắc rối đây,” Jane khôn
ngoan nhận xét.

“Tớ cho rằng cũng có thể thế, nhưng đó là lỗi của họ
khi nghĩ những điều xấu xa. Dù sao thì hôm nay chúng ta có thể nói ra mọi suy
nghĩ của mình, bởi chúng ta sẽ chỉ có những suy nghĩ đẹp đẽ mà thôi. Mọi người
chỉ cần nói điều gì vừa hiện ra trong đầu. Đó mới là đối thoại thực sự. Ồ, đây
là một lối mòn tớ chưa thấy bao giờ. Chúng ta hãy khám phá nó nào.”

Lối đi quanh co, hẹp đến nỗi các cô gái phải đi nối
đuôi nhau, và những cành linh sam cứ quét qua mặt họ. Dưới hàng linh sam là lớp
đệm rêu mượt như nhung, và sau đó, khi cây cối bắt đầu nhỏ dần và thưa thớt, đủ
loại cây bụi xanh mọc đầy mặt đất.

“Ôi, nhiều cây tai voi quá,” Diana kêu lên. “Tớ sẽ
hái một bó to; chúng đẹp quá.”

“Sao một loại cây duyên dáng và mềm mại thế kia lại
có cái tên khủng khiếp như vậy nhỉ?” Priscilla hỏi.

“Bởi vì người đầu tiên đặt tên cho chúng chẳng có
chút trí tưởng tượng nào hoặc có quá nhiều trí tưởng tượng,” Anne nói. “ồ các
cô gái, nhìn kìa!”

“Kìa” là một cái hồ nông ở giữa một trảng rừng thưa
nằm cuối lối đi. Đến giữa mùa xuân, hồ sẽ cạn khô và đáy phủ đầy dương xỉ;
nhưng giờ thì nó như một tờ giấy phẳng lặng lấp lánh, tròn như cái đĩa và trong
suốt như pha lê. Một hàng bạch dương non mảnh mai bao lấy hồ và những cây dương
xỉ viền quanh nó.

“Ôi thật là đáng yêu!” Jane lên tiếng.

“Chúng ta hãy khiêu vũ vòng quanh nó như các nàng
tiên rừng đi,” Anne kêu lên, đặt giỏ xuống và chìa tay ra.

Nhưng bài khiêu vũ không được thành công vì mặt đất
lầy lội và ủng cao su của Jane bị tuột ra.

“Cậu không thể là tiên rừng nếu phải mang ủng cao
su,” cô quyết định như vậy.

“Ồ, chúng ta phải đặt tên cho nơi này trước khi rời
đi,” Anne nói, chấp nhận sự thật hợp lý không thể chối cãi. “Mỗi người đề nghị
một tên và chúng ta sẽ rút thăm. Diana?”

“Hồ Bạch Dương,” Diana nói ngay.

“Hồ Pha Lê,”Jane lên tiếng.

Anne đứng đằng sau, dùng mắt van vỉ Priscilla đừng đặt
những cái tên tầm thường tương tự và Priscilla tỏa sáng với cái tên “Thủy Tinh
Lấp Lánh.” Anne chọn “Gương Tiên.”

Những cái tên được viết trên những mảnh vỏ bạch
dương bằng một cây bút chì do cô giáo làng Jane lấy ra, rồi những mảnh vỏ cây
này được đặt vào mũ Anne.

Sau đó Priscilla nhắm mắt rút ra một cái. “Hồ Pha
Lê,” Jane đắc thắng. Vậy là nó có tên hồ Pha Lê, và nếu Anne có nghĩ rằng số phận
đã chơi cái hồ một vố, cô cũng không nói ra miệng.

Len qua đám cây bụi, các cô gái đi ra khoảnh rừng
non khuất nẻo ở đằng sau đồng cỏ của ông Silas Sloane. Băng qua đó, họ phát hiện
ra lối dẫn vào một con đường xuyên rừng và quyết định sẽ thám hiểm nó. Cuộc
chinh phục của họ được tưởng thưởng hàng loạt những bất ngờ thú vị. Đầu tiên, ở
rìa đồng cỏ của ông Sloane là một cổng vòm toàn cây anh đào dại đang nở hoa.
Các cô gái hạ mũ mắc vào tay rồi lấy những đóa hoa mềm mại trắng nõn cài lên đầu.
Sau đó lối đi rẽ sang phải, đâm thẳng vào khoảnh rừng vân sam vừa rậm vừa tối,
họ đi trong ánh sáng lờ mờ như vào lúc chạng vạng, không nhìn thấy một mảnh trời
hay một tia sáng nào.

“Đây là nơi những yêu cây xấu sinh sống,” Anne thì
thầm. “Bọn chúng rất tinh quái và hiểm độc nhưng không thể làm hại chúng ta, vì
chúng không được làm điều ác trong mùa xuân. Vừa có một tên nhìn lén chúng ta từ
sau cây linh sam cong queo già cỗi kia, và các cậu có thấy một đám bọn chúng
trên cái nấm dù lốm đốm to đùng mà chúng ta vừa đi qua không? Tiên tốt thì luôn
sống ở những nơi ngập tràn ánh nắng.”

“Tớ ước gì tiên có thật,” Jane thốt. “Thật là tuyệt
nếu có ba điều ước... một điều cũng được, chẳng phải sao? Này các cô gái, các
cô sẽ ước gì nếu có một điều ước? Tớ ước sẽ giàu có, xinh đẹp và thông minh.”

“Tớ ước mình sẽ cao và thanh mảnh,” Diana nói.

“Tớ ước được nổi tiếng,” Priscilla nói. Anne nghĩ tới
mái tóc của mình và lập tức bác bỏ suy nghĩ tầm thường đó.

“Tớ ước gì lúc nào cũng là mùa xuân, trong trái tim
mỗi người và trong cuộc đời của chúng ta,” cô nói.

“Nhưng như vậy,” Priscilla nói, “chẳng khác gì ước cả
thế giới này giống như thiên đường.”

“Chỉ là một phần của thiên đường thôi, ở những nơi
khác sẽ có mùa hè và mùa thu... ừ thì cả một chút mùa đông nữa. Tớ nghĩ tớ muốn
có những cánh đồng lấp lánh tuyết và sương giá trắng muốt trên thiên đường, thỉnh
thoảng thôi. Cậu có muốn vậy không, Jane?

“Tớ... tớ không biết.” Jane cảm thấy bất an. Janelà
một cô gái ngoan, thành viên của nhà thờ, luôn có ý thức cố gắng sống xứng đáng
với nghề nghiệp đã chọn và tin vào những điều được dạy. Nhưng cô không bao giờ
nghĩ tới thiên đường nhiều hơn mức cô phải nghĩ, vì những điều nói trên.

“Một hôm Minne May hỏi tớ liệu chúng ta có thể mặc bộ
áo váy đẹp nhất mỗi ngày trên thiên đường không,” Diana phá lên cười.

“Thế cậu có nói với cô bé là được không?” Anne hỏi.

“Chúa rủ lòng thương, không đâu! Tớ nói với nó là
chúng ta sẽ không nghĩ gì đến váy áo ở trên đấy.”

“Ồ, tớ nghĩ chúng ta sẽ nghĩ tới đấy... chỉ một chút
thôi,” Anne hào hứng. “Chúng ta sẽ có rất nhiều thời gian trong vĩnh hằng để nghĩ
tới váy áo mà không bỏ bê những chuyện quan trọng hơn. Tớ tin là chúng ta sẽ đều
mặc những bộ váy xinh đẹp... hoặc tớ cho rằng dùng từy phục thì phù hợp hơn. Đầu
tiên, tớ sẽ muốn mặc màu hồng ít nhất là vài thế kỷ... tớ đoán phải lâu cỡ vậy
thì tớ mới chán màu hồng, tớ chắc thế đấy. Tớ thật sự yêu màu hồng, thế mà tớ
chẳng thể nào mặc nó trong cuộc đời này.”

Qua hàng vân sam, lối đi chúc xuống một khoảnh đất
nhỏ ngập nắng, nơi một nhịp cầu gỗ bắc ngang qua một dòng suối; và sau đó là một
rừng sồi dưới ánh nắng đẹp đến sững sờ, nơi không khí tựa như rượu vang vàng
óng trong suốt, vòm lá tươi mới xanh ngăn ngắt, nên rừng bên dưới chẳng khác gì
tranh ghép bởi những tia nắng mặt trời lung linh. Rồi thêm vài cây anh đào dại,
một thung lũng nhỏ đầy những cây linh sam uyển chuyển, rồi một ngọn đồi dốc đứng
đến mức mấy cô gái leo lên hết cả hơi; nhưng khi bọn họ lên đến đỉnh và bước ra
ngoài khoảng đất trống, sự bất ngờ thú vị nhất đang chờ đợi bọn họ.

Xa xa kia là cánh đồng phía sau của các trang trại,
trải rộng tới tận đường Carmody phía trên. Còn ngay trước mặt họ, được viền
quanh bởi sồi và linh sam và mở rộng về phía Nam là một góc khuất nhỏ, bên
trong có một khu vườn... hay nơi đã từng là một khu vườn. Một bức tường đá xiêu
vẹo rêu cỏ mọc đầy bao quanh khoảnh đất. Dọc theo sườn phía Đông là một hàng
anh đào trổ hoa trắng xóa như bông, vẫn còn lại dấu vết lờ mờ của những lối đi
cũ và một luống đôi toàn những bụi hồng ở chính giữa; nhưng phần còn lại đều phủ
đầy thủy tiên trắng và vàng nở rộ đang đong đưa một cách duyên dáng theo làn
gió nhẹ phía trên mặt cỏ xanh non.

“Ôi, thật là tuyệt vời quá!” ba cô gái kêu lên. Anne
chỉ giương mắt ngắm nhìn trong sự yên lặng còn hùng hồn hơn bao lời khen ngợi.

“Trời ơi, làm sao ở nơi này lại có một khu vườn cơ
chứ?” Priscilla ngạc nhiên.

“Chắc là khu vườn của Hester Gray đấy,” Diana nói.
“Tớ đã nghe mẹ tớ kể nhưng chưa từng thấy lần nào, và tớ cũng không đời nào ngờ
rằng khu vườn ấy vẫn còn tồn tại. Cậu đã nghe câu chuyện đó chưa hả Anne?”

“Chưa, nhưng cái tên nghe có vẻ quen quen.”

“Ồ, chắc cậu đã nhìn thấy trong nghĩa trang. Cô ấy
được chôn ở đó trong góc cây dương. Cậu biết bia mộ nâu nhỏ có khắc cánh cửa
đang mở và dòng chữ ‘Tưởng nhớ tới Hester Gray, hai mươi hai tuổi’ chứ. Jordan
Gray được chôn ngay bên cạnh cô ấy, nhưng không có bia mộ. Thật lạ khi bác
Marilla không kể cho cậu nghe, Anne ạ. Đương nhiên, chuyện xảy ra ba mươi năm rồi,
và mọi người đều đã lãng quên.”

“Ồ, nếu có một câu chuyện thì chúng ta nhất định phải
nghe,” Anne nói. “Hãy ngồi xuống ngay đây giữa những đóa thủy tiên và Diana sẽ
kể chúng ta nghe, ôi, các cô gái, có hàng trăm đóa thủy tiên... chúng che phủ mọi
thứ. Cứ như khu vườn được trải một lớp thảm làm từ ánh trăng và ánh mặt trời kết
hợp lại. Đây là một khám phá đáng ghi nhớ. Nghĩ xem, tớ sống cách nơi này chưa
tới một dặm suốt sáu năm trời mà chưa từng nhìn thấy nó lần nào! Giờ thì kể đi,
Diana.”

“Lâu lắm rồi,” Diana bắt đầu, “trang trại này thuộc
về ông lăo David Gray. Ông ấy không sống ở đây... mà sống ở nơi Silas Soane
đang ở. Ông ấy có một đứa con trai tên là Jordan, một mùa đông nọ; anh ta đến
Boston làm việc, và ở đó anh đem lòng yêu một cô gái tên Hester Murray. Cô ấy
làm ở một cửa hàng và căm ghét công việc của mình. Cô lớn lên ở vùng quê và
luôn muốn quay trở về đó. Khi Jordan cầu hôn, cô ấy nói sẽ đồng ý nếu anh chịu
đưa cô tới một nơi nào yên tĩnh mà cô chỉ thấy toàn đồng ruộng và cây cối. Thế
là anh ấy dẫn cô tới Avonlea. Bà Lynde nói anh ấy quá sức mạo hiếm khi cưới một
người Yankee, và rõ ràng là Hester khá yếu ớt và chẳng giỏi tề gia nội trợ,
nhưng mẹ tớ nói cô ấy rất xinh đẹp và dịu dàng, Jordan tôn thờ cô ấy. À, ông
Gray cho Jordan nông trại này, anh ấy xây một căn nhà nhỏ ở đây và sống cùng
Hester ở đó suốt bốn năm. Cô ấy chẳng hay ra ngoài và hầu như chẳng có ai đến
thăm ngoại trừ mẹ tớ và bà Lynde. Jordan làm khu vườn này cho cô ấy, cô ấy mê
tít và dành phần lớn thời gian của mình cho nó. Cô ấy không giỏi nội trợ nhưng
đặc biệt mát tay trồng hoa. Rồi sau đó cô ấy bị bệnh. Mẹ tớ cho rằng cô ấy bị
lao phổi từ trước khi đến đây. Cô ấy chưa bao giờ thực sự nằm liệt giường mà chỉ
mỗi ngày một yếu hơn. Jordan không nhờ bất cứ ai chăm sóc cô ấy. Anh ấy tự làm
mọi chuyện và mẹ nói rằng anh ấy dịu dàng chu đáo như một phụ nữ. Mỗi ngày anh ấy
lại quấn cô trong tấm khăn choàng để đưa cô ấy ra vườn và cô ấy vui vẻ nằm ngả
người trên một băng ghế. Nghe đồn cô ấy từng yêu cầu Jordan quỳ xuống bên cô mỗi
sáng và mỗi tối, cùng cầu nguyện với cô để cô có thể nhắm mắt trong vườn khi thời
điểm định mệnh ấy đến. Và lời cầu nguyện của cô đã được chấp thuận. Một ngày nọ,
Jordan ẵm cô ra băng ghế, rồi hái tất cả hoa hồng vừa nở chất đầy trên người
cô; và cô ấy mỉm cười với chồng... rồi nhắm mắt... và,” Diana khe khẽ kết luận,
“đó là kết thúc.”

“Ôi, đúng là một câu chuyện cảm động,” Anne thở dài
lau nước mắt.

“Chuyện gì xảy ra với Jordan?” Priscilla hỏi.

“Anh ấy bán nông trại sau khi Hester mất rồi quay lại
Boston. Ông Jabez Sloane mua nông trại và chuyển căn nhà nhỏ ra sát mép đường.
Jordan chết mười năm sau đó, anh ấy được đưa về nhà chôn cất bên cạnh Hester.”

“Tớ không hiểu nổi vì sao cô ấy lại muốn sống ở tít
nơi này, cách xa mọi thứ,” Jane nói.

“Ồ, tớ có thể dễ dàng hiểu được lý do.” Anne trầm
ngâm “Bản thân tớ thì không muốn mãi sống như vậy, bởi vì dẫu yêu đồng ruộng và
cây cối, tớ cũng yêu con người nữa. Nhưng tớ có thể hiểu được quyết định của
Hester. Cô ấy đã chán tiếng ồn ào nơi thành phố lớn và đám người đông đúc hết đến
rồi đi mà chẳng quan tâm gì đến mình. Cô ấy chỉ muốn thoát khỏi tất cả, đến một
nơi yên tĩnh, xanh tươi và thân thiện để nghỉ ngơi. Và cô có được đúng điều
mình mong muốn, chẳng mấy người được như thế đâu, tớ biết mà. Cô ấy có bốn năm
tuyệt đẹp trước khi chết... bốn năm hạnh phúc hoàn hảo, nên tớ nghĩ rằng nên
ghen tị chứ không nên thương hại cô ấy. Và rồi có thể nhắm mắt ngủ giữa những
đóa hồng, với người chồng yêu nhất trên đời đang mỉm cười với mình... ồ, tớ cho
rằng điều đó thật tuyệt!”

“Cô ấy trồng những cây anh đào đằng kia.” Diana nói.
“Cô ấy nói với mẹ tớ rằng cô ấy sẽ chẳng sống đến khi chúng kết quả, nhưng cô ấy
muốn nghĩ rằng những thứ mình trồng sẽ tiếp tục sống và tô điểm cho thế gian
ngay cả sau khi cô ấy qua đời.”

“Tớ thật vui vì chúng ta đã đi lối này.” Anne mắt
long lanh. “Hôm nay là ngày tớ được nhận nuôi, các cậu biết đấy, và khu vườn
này và câu chuyện về nó là món quà sinh nhật dành cho tớ. Mẹ cậu có bao giờ nói
với cậu Hester Gray trông thế nào không, Diana?”

“Không... chỉ nói là cô ấy xinh đẹp.”

“Tớ lại khá thích như vậy, vì tớ có thể tưởng tượng
ra vẻ ngoài của cô ấy mà không bị sự thật cản trở. Tớ cho rằng cô ấy nhỏ con và
rất mảnh dẻ, với mái tóc đen loăn xoăn mềm mại, đôi mắt to màu nâu ngọt ngào dịu
dàng và khuôn mặt nhỏ nhợt nhạt đăm chiêu.”

Mấy cô gái để giỏ lại trong khu vườn của Hester để
đi lang thang trong rừng và những cánh đồng bao quanh suốt buổi chiều, phát hiện
ra rất nhiều lối đi và góc khuất lãng mạn. Khi đói bụng, bọn họ ngồi ăn trưa ở
nơi đẹp nhất... trên bờ dốc của một dòng suối róc rách, nơi những cây bạch
dương trắng vươn lên khỏi lớp cỏ mềm mại. Các cô gái ngồi lên rễ cây và tận
tình thưởng thức những món ăn kiểu cách của Anne, ngay cả món bánh mì kẹp chẳng
chút thi vị cũng được ủng hộ nhiệt tình bởi cơn đói sau khi thưởng thức không
khí trong lành và những chuyến thám hiểm vất vả. Anne có mang theo ly và nước
chanh cho các vị khách mời, còn phần cô chỉ uống nước suối mát lạnh trong chiếc
cốc làm bằng vỏ cây bạch dương. Chiếc cốc bị rò, và nước có mùi đất ẩm, nước suối
thường có mùi vị như vậy vào mùa xuân, nhưng Anne cảm thấy thứ thức uống đó hợp
với hoàn cảnh hơn là món nước chanh.

“Này, các cậu có nhìn thấy bài thơ đó không?” cô đột
nhiên chỉ tay ra.

“Ở đâu?” Jane và Diana dõi theo như hy vọng sẽ nhìn
thấy những vần thơ chữ cố ngoằn ngoèo trên những thân cây bạch dương.

“Ở kia... dưới dòng suối... nước luồn lách qua khúc
gỗ mục đầy rêu xanh tạo thành gợn sóng mượt mà cứ như dùng lược để chải, và tia
nắng cô đơn chiếu xiên qua khúc gỗ sâu xuống lòng hồ. ôi, đó là bài thơ đẹp nhất
mà tớ từng thấy.”

“Gọi nó là một bức tranh thì đúng hơn.” Jane thốt.
“Một bài thơ thì phải có chữ và vần.”

“Ôi trời ơi, không phải.” Anne lúc lắc mái đâu cài
vòng hoa anh đào dại mềm mại. “Chữ và vần chỉ là lớp áo bên ngoài một bài thơ,
và chẳng thể nào nói diềm đăng ten và viền ren kia là cậu, Jane ạ. Bài thơ thực
sự là linh hồn bên trong... và khúc gỗ mục đẹp đẽ kia chính là linh hồn của một
bài thơ chưa được viết nên. Không phải ngày nào cũng có dịp nhìn thấy một linh
hồn, dẫu đó là linh hồn của một bài thơ.”

“Tớ tự hỏi một linh hồn... linh hồn của con người...
sẽ trông thế nào,” Priscilla mơ màng.

“Tớ nghĩ giống như thế này này.” Anne chỉ vào một vệt
nắng rực rỡ chiếu xiên qua một cây bạch dương. “Đương nhiên là có hình dạng và
màu sắc nữa. Tớ thích tưởng tượng linh hồn được tạo thành từ ánh sáng. Và một số
thì nhìn xuyên qua được với những vệt loang màu hồng run rẩy... một số lấp lánh
dịu dàng như ánh trăng trên biển... một số thì nhạt màu và trong suốt như sương
mờ bình minh.”

“Tớ từng đọc ở đâu đó nói rằng linh hồn giống như
hoa vậy,” Priscilla nói.

“Vậy thì linh hồn của cậu là một đóa thủy tiên vàng
óng,” Anne nói, “còn của Diana thì giống như một đóa hồng đỏ thầm. Jane là một
đóa hoa táo màu hồng, trong trẻo và ngọt ngào.”

“Còn linh hồn của cậu là một đóa violet trắng, với
những vệt tím gân trong nhụy,” Priscilla tiếp lời.

Jane thì thào với Diana là cô thật chẳng hiểu hai
người kia đang nói chuyện gì. Cô có thể hiểu được sao?

Các cô gái về nhà trong ánh chiều vàng óng bình yên,
giỏ chất đầy những đóa thủy tiên từ vườn của Hester, ngày hôm sau Anne đem vài
đóa đến nghĩa trang đặt lên mộ Hester. Những chú chim cổ đỏ hát rong đang huýt
sáo trong vòm linh sam, những chú ếch đang đồng ca trên đầm lầy. Những chỗ
trũng dọc theo các ngọn đồi đều lấp lánh ánh sáng hoàng ngọc và lục ngọc.

“Ôi, chúng ta đã thực sự có một khoảng thời gian thú
vị,” Diana nói cứ như cô chẳng trông đợi được như thế khi khởi hành.

“Hôm nay đúng là một ngày thực sự tuyệt vời,”
Priscilla lên tiếng.

“Bản thân tớ cũng rất thích rừng cây,” Jane nói.

Anne chẳng nói gì. Cô dõi nhìn xa xăm vào bầu trời
phía Tây và nghĩ tới Hester Gray bé nhỏ.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3