Gia đình Penderwick ở phố Gardam - Chương 10 - Đảo lộn

CHƯƠNG MƯỜI

Đảo lộn

Ngày hôm sau,
khi từ trường về, mấy chị em cố nghĩ ra thêm một người phụ nữ kinh khủng nhưng
chúng chẳng còn lòng dạ nào, nên đành hoãn cuộc thảo luận đáng ghét ấy cho đến
ngày hôm sau nữa. Nhưng đến hôm sau nữa thì lại là ngày thứ Bảy có trận bóng
đá, và đội Pizza Antonio đã chiến thắng cùng với việc Skye không lần nào mất
bình tĩnh, thế là không ai muốn phá hỏng không khí ăn mừng vui vẻ bằng cái đề
tài nẫu ruột ấy. Rồi đêm đó bắt đầu có sương muối đầu mùa, và đến sáng Chủ nhật thì mùa thu đã thực sự kéo về. Bầu trời xanh thẳm
không một gợn mây, không khí tĩnh lặng và khô ráo, những cây phong rực lên màu
đỏ, vàng và da cam huy hoàng, và khắp phố Gardam đâu đâu cũng thấy lũ sóc lăng
xăng chạy đi chạy lại vẻ tự đắc để chôn giấu các thứ hạt mình kiếm được vào
những chỗ khó tìm nhất. Các cô bé nhà Penderwick nhất trí rằng nếu triệu tập
một cuộc HMCCEP trang trọng giữa quang cảnh lộng lẫy tuyệt vời như vậy thì chẳng
khác nào phạm tội báng bổ, nên thay vào đó chúng tổ chức một cuộc xây đập trong
Rừng Quigley, rồi Batty bị rơi xuống suối sâu và được Tommy kéo lên, tuy nhiên
chỉ có mình Jane là nhớ cảm ơn cậu - Rosalind còn mải quấn chiếc áo len của
mình quanh người Batty và cấp tốc đưa bé về nhà tắm nước nóng.

Rồi tuần học lại
bắt đầu. Batty đã tự giao cho mình nhiệm vụ dạy bé Ben thêm nhiều từ mới nữa,
nhưng sau mấy buổi chiều ở nhà cô Iantha, bé vẫn chưa thể khiến cho Ben nói gì
thêm ngoài từ “vịt” và thỉnh thoảng là “xinh”. Jane đã viết xong Hai chị em và sự hi sinh rồi đem nó đến
chỗ Tảng đá Thần để cầu may trước khi đưa cho Skye. Skye đem nộp vở kịch mà
không thèm đọc qua lấy một trang, rồi cũng quên bẵng luôn. Hai bài kiểm tra
tiếng Latin của Rosalind được điểm cao chót vót, và để góp phần vào triển lãm
khoa học ở trường, em cùng Anna đã làm một chiếc máy bắn đá hóa ra lại trở
thành dụng cụ tuyệt hảo để ném những bánh quy chó cho Cún. Với nhiều chuyện như
vậy, cả tuần đã gần trôi qua rồi mà không ai nhắc đến hẹn hò hay mẹ kế gì nữa.
Nỗi lo của Rosalind chìm dần vào quên lãng. Em tự nhủ là dù sao thì người ta
chẳng thể suốt ngày lo lắng được, và hơn nữa, có lẽ em cũng nên học cách tin
vào định mệnh một chút.

Vừa vui vẻ ngâm
nga, Rosalind vừa lôi các nguyên liệu từ trên giá bếp xuống, đong đo cho đúng
lượng, trộn đều, rồi bỏ những thanh sôcôla đen vào chảo để nấu chảy. Em đang
làm bánh sôcôla, và em đã thuộc lòng công thức của nó.

“Thuộc lòng”, em nói.

Chính vì nỗi
lòng của mình mà em đã học thuộc công thức ấy. Anh Cagney, chàng trai làm vườn,
đã tuyên bố anh rất mê món bánh sôcôla, vậy là mùa hè đó em đã nướng bánh
sôcôla cho anh không biết bao nhiêu lần, cho đến khi em thấy mình có thể làm
một mẻ bánh thậm chí cả trong giấc ngủ. Tất nhiên, chỗ bánh sôcôla này không phải
dành cho Cagney, vì anh đang ở Arundel xa xôi. Không, đây sẽ là món ăn nhẹ cho
buổi khiêu vũ của khối lớp tám - Lễ hội Phóng tác Mùa thu - vào cuối tuần tới.
Đã thành lệ, khối lớp bảy luôn tổ chức lễ Phóng tác, và đến mùa xuân khối lớp
tám sẽ tổ chức ngày hội Xôn xao Mùa xuân cho khối lớp bảy, và Anna với Rosalind
đã xung phong đảm nhận phần thức ăn nhẹ. Anna, sau khi cân nhắc kĩ càng, đã
quyết định sẽ chỉ thêm khoai tây rán, vì như em nói thì món bánh sôcôla của
Rosalind đã đủ ngon lành để bù cho cả hai đứa rồi.

Vừa khuấy
sôcôla, Rosalind tự hỏi không biết buổi khiêu vũ Xôn xao Mùa xuân sẽ như thế
nào. Em tưởng tượng ra hình ảnh chính mình - trong chiếc áo len màu xanh da
trời mà dì Claire đã tặng - cùng Anna bước vào phòng tập thể dục được trang
hoàng lộng lẫy. Em đoán sau đó chúng sẽ nhảy, nhưng có lẽ không nhảy với bọn
con trai, vì em không thể nghĩ ra được một cậu con trai lớp bảy nào mà em muốn
khiêu vũ cùng. Trong chốc lát, em thử tưởng tượng mình đang nhảy với Cagney
trong phòng tập thể dục, nhưng ý nghĩ ấy khiến em rùng mình. Chắc hẳn anh ấy sẽ
thấy tất cả chuyện đó mới trẻ con làm sao.

Giờ thì chỗ
sôcôla đã chảy hết và sẵn sàng để được đổ vào khuôn, nhưng đúng lúc Rosalind
nhấc chảo lên thì điện thoại reo vang. Em đặt chảo xuống và nhấc điện thoại.

“Rosy, cưng à,
dì Claire đây”.

Cả đời mình em
chưa bao giờ nghĩ rằng giọng dì Claire trên điện thoại lại có thể khiến em chau
mày. Nhưng chuyện đó đã xảy ra trước khi em kịp ngăn mình lại. Tuy nhiên đến
khi cuộc đàm thoại kết thúc và em đã gác máy, thì em mới biết mình chau mày là
đúng. Tuần nghỉ ngơi thảnh thơi của em - cái tuần mà em đã điên rồ chối bỏ sự
thật! - đã hết rồi, và một lần nữa mối hiểm nguy lại đang cận kề.

Tay run lẩy bẩy, Rosalind tắt bếp đi. Món bánh sôcôla sẽ
phải đợi thôi, vì em có việc cần làm, và làm thật nhanh, trước khi bố về. Em
nhìn đồng hồ. Các em còn bốn mươi lăm phút. Như thế là nhiều hơn mọi khi, vì
tối hôm đó ở trường tiểu học Rừng Hoang có buổi họp phụ huynh, và sau giờ làm
việc bố em sẽ ghé qua trường để gặp cả thầy Geballe lẫn cô Bunda. Nhưng ngay cả
bốn mươi lăm phút ấy liệu có đủ cho chúng không?

Phải triệu tập
đội quân thôi, Rosalind tự nhủ. Em lại nhấc điện thoại gọi Anna, bảo cô bạn đến
nhà em càng nhanh càng tốt. Giờ thì đến lượt mấy cô em gái. Skye và Jane đang ở
sân sau tập bóng, còn Batty - Batty đâu rồi? Trong một thoáng, Rosalind phát
hoảng. Và rồi - tất nhiên em biết Batty đang ở đâu chứ!

Rosalind chạy
sang nhà cô Iantha. Cún trung thành đang nằm duỗi dài trên bậc thềm trước cửa,
cố làm ra vẻ mình là một con chó bị ruồng bỏ, nhưng Rosalind thừa biết nó hoàn
toàn sung sướng được nằm đó đợi Batty. Hơn nữa, em đã thấy Asimov đang ngồi
trên ô cửa sổ bên cạnh, vừa đủ tầm cho nó có thể để mắt canh chừng Cún và ngược
lại, em biết cảm xúc của Cún còn vượt cả sự sung sướng, nó đang thích mê đi
rồi. Vì ít ra Batty đã nói đúng một điều - Cún có vẻ yêu chú mèo đó thật. Giờ
thì Rosalind nhìn thấy ở một ô cửa sổ khác có những kẻ cũng đang nhòm ra -
Batty, đeo chiếc kính râm cũ của Jane, và Ben, đeo chiếc kính bơi cũ của Batty.
Em bấm chuông, và hai cái đầu biến mất khỏi tầm mắt.

Cô Iantha
mở cửa, trên khuôn mặt là cái vẻ mà Jane gọi là ở-giữa-các-vì-sao, có nghĩa là
tiếng chuông cửa đã kéo cô rời khỏi công việc nghiên cứu của mình. Thật không
hiểu nổi tại sao cô có thể tập trung vào môn vật lí thiên thể khi trong nhà có
cả Batty lẫn Ben, nhưng lần nào Rosalind hỏi cô cũng đáp lại bằng cùng một câu
- Batty làm cho Ben vui, và đó mới là điều quan trọng.

“Cháu xin lỗi vì
đã làm phiền cô, cô Iantha, nhưng cháu cần đưa Batty về nhà ngay ạ”.

Cô Iantha
chưa kịp trả lời thì Batty đã hiện ra bên cạnh cô, với Ben lẽo đẽo theo sau.

“Em không về
được, chị Rosalind ạ. Ben với em đã thấy gã Người-Bọ lái xe qua, và bọn em phải
tiếp tục canh chừng”.

Suốt cả tuần nay
Batty đã thông báo là bé trông thấy Người-Bọ, và Rosalind đã chán ngấy gã rồi.
Khi còn nhỏ cả em, Skye, lẫn Jane đều từng có thời có một người bạn tưởng tượng
- nhưng Batty là đứa đầu tiên tưởng tượng ra một gã nửa-người-nửa-côn-trùng
rình rập trên phố Gardam.

“Không có em gã
Người-Bọ sẽ chẳng làm chuyện gì đâu”, em nói. “Về nhà thôi”.

“Nhưng mà…”.

“Batty!”.
Rosalind đưa mắt nhìn sang phía cô Iantha đang mỉm cười.

“Batyt tin là
phố Gardam cần được giám sát liên tục”, cô giải thích.

“Cả Ben cũng thế
ạ”, Batty phụ họa, mặc dù bé chẳng hiểu “giám sát” nghĩa là gì.

“Không cần đâu”,
Rosalind nói bằng cái giọng kết-thúc-vấn-đề của em. “Giờ thì cảm ơn cô Iantha
đã cho em sang chơi đi”.

“Cảm ơn cô, cô
Iantha”. Batty đành chịu thua, hôn tạm biệt Ben và thì thầm gì đó với em bé
trước khi lặng lẽ đi theo Rosalind. Cún, sau ánh mắt thân thương cuối cùng dành
cho Asimov, cũng chạy theo hai chị em.

“Em nói gì với
Ben thế?”, Rosalind hỏi khi cả lũ đi về sân nhà mình.

“Em bảo nó phải
tiếp tục đeo kính bơi”.

“Bởi vì…?”.

“Vì nếu em đeo
kính râm còn Ben đeo kính bơi thì Người-Bọ sẽ tưởng bọn em giống hắn ta và
không làm hại bọn em”.

Rosalind thoáng
nghĩ đến một bài giảng ngắn gọn về việc nhét nỗi sợ hãi vào đầu các em nhỏ.
Nhưng khi Batty còn quá nhỏ không thể tự vệ được, Skye và Jane vẫn chơi cả đống
trò giấu-em-bé-xa-khỏi-quái-vật, thế mà Batty vẫn lớn lên bình thường đấy thôi.
Rosalind quyết định em sẽ để vụ dạy bảo này lại sau. Ngay lúc này thì em phải
gọi Skye và Jane từ sân sau vào, bởi vì chỉ một phút nữa là Anna sẽ đến đây.

Chẳng mấy chốc
năm cô bé đã tụ tập lại trong bếp.

“Dì Claire vừa
gọi điện”, Rosalind mở đầu. “Mai dì sẽ đến chơi”.

“Hay quá”, Jane
reo lên.

“Dì ấy sẽ kiểm
tra xem chuyện hẹn hò của bố đã đi đến đâu rồi, và nếu không có tiến triển gì
thì dì ấy đã có một cuộc xem mặt tiềm năng cho bố”.

“Chẳng hay gì
cả”, Skye nói.

“Có khi vụ xem
mặt này cũng tệ như vụ đầu tiên ấy”, Anna bảo.

“Ngoại trừ việc
dì Claire nói cô ấy rất thông minh, vui tính và yêu trẻ con. Và…”, Rosalind hít
một hơi thật sâu, “… cô ấy dạy tiếng Latin ở trường trung học”.

Khắp bàn vang
lên tiếng rên rỉ.

“Thế còn chó thì
sao?”, Batty hỏi.

“Có khi chính cô
ấy cũng nuôi chó ấy chứ”, Skye cay đắng nói.

“Bị đe dọa bởi
bóng ma của những bà mẹ kế, các chị em tái xanh vì kinh hoàng”. Và quả là mặt
Jane trông hơi tái đi thật.

“Đợi một phút”,
Anna nói. “Các cậu bỏ cuộc sớm quá. Dì Claire nói là cuộc xem mặt tiềm năng mà, đúng không? Tức là mọi
chuyện vẫ chưa chính thức. Bọn mình chỉ phải tìm một cô kinh khủng khác cho bố
cậu hẹn hò trước khi dì ấy đến đây thôi. Bố cậu không thể có hai cuộc hẹn trong
cùng một kì nghỉ cuối tuần được, và như thế các cậu sẽ được an toàn một thời
gian”.

“Nhưng bọn tớ
biết tìm một người khác ở đâu bây giờ?”, Rosalind kêu lên. “Lần trước bọn mình
đã phải vắt óc nghĩ, nghĩ mãi, mà cuối cùng cũng chỉ nghĩ ra được cô giáo dạy
trượt băng của cậu”.

“Thế thì bọn
mình sẽ lại vắt óc nghĩ, nghĩ nữa”. Anna lấy một gói bánh quy mặn từ trên tủ
bếp xuống và đặt lên bàn. “Bụng rỗng thì không thể nghĩ ngợi gì được”.

Vậy là cả bọn
ngẫm nghĩ và ăn bánh quy mặn, ăn bánh quy mặn và ngẫm nghĩ, nhưng chẳng đứa nào
nghĩ ra được ý tưởng mới mẻ gì cho một buổi hẹn tồi tệ cả. Rosalind bắt đầu băn
khoăn tự hỏi không biết em có nên bỏ cuộc không. Thật ra, mọi chuyện có thể tệ
như thế nào nếu bố em hẹn hò với một người phụ nữ dễ chịu mà ông có thể chuyện
trò bằng tiếng Latin, rồi ông sẽ mời cô ấy đến nhà ăn tối… và rồi cô ấy sẽ nấu
bữa tối… rồi dọn dẹp lại nhà bếp… rồi cho bố lời khuyên về chuyện nuôi dạy các
cô gái… và rồi…

“Các cậu có
tuyệt vọng đến mức muốn thử cô bạn Valaria của mẹ tớ không?”, cuối cùng Anna
hỏi. “Các cậu biết đấy, cái cô từng là Mary Magdalene ấy?”.

“Có khi bọn tớ
tuyệt vọng đến mức ấy thật”, Rosalind thở dài.

“Không, chưa
đâu”, Skye cãi.

“Gặp cô Valaria
có khi lại vui ấy chứ”, Jane nói. “Cô ấy có thể cho bọn mình biết rất nhiều về
lịch sử”.

Skye nhìn Batty
van vỉ, nhưng Batty chưa kịp biểu quyết ủng hộ hay phản đối cô Valaria
nhiều-kiếp-sống ấy thì một âm thanh vang lên khiến tất cả cứng đờ người.

“Bố về đây
rồi!”. Đó là ông Penderwick, trở về quá sớm từ buổi họp phụ huynh ở trường Rừng
Hoang. Ông bước vào bếp. “Cuộc họp thượng đỉnh hả?”.

“Không họp hành
gì đâu ạ”, Rosalind nói. “Ý con là, bọn con chỉ đang nói chuyện thôi”.

“Nhưng không
phải về bác đâu, bác Pen ạ”, Anna nói.

“Bác không hề
nghĩ là mấy đứa đang nói chuyện về bác, Anna ạ”.

“Tốt quá”. Nom
Anna như đang thầm ước mình có thể chui tọt xuống đất.

Ông ngồi xuống
giữa hai cô con thứ. “Có ai quan tâm đến nhận xét của các thầy cô giáo không
nào?”.

Giờ thì đến lượt
Jane trông như đang thầm ước là mình có thể chui xuống đất, vì gần như không
thể có chuyện cô Bunda nói bất kì điều gì tốt đẹp về em. Nhưng không, bố em
thông báo rằng cô Bunda rất khen ngợi những tiến bộ của Jane trong môn toán, và
còn khen ngợi nhiều hơn đối với bài luận khoa học của em.

“Bài luận về
thuốc kháng sinh, bố tin như vậy”, ông kết thúc.

“Con cũng nghĩ
thế ạ”, Jane nói. “Ý con là, tất nhiên rồi ạ, đấy là bài luận về thuốc kháng
sinh”.

“Skye này, bố
cũng đã gặp thầy Geballe. Thầy rất ấn tượng với vở kịch con viết về người Aztec
đấy”.

“Thầy ấy nói gì
ạ”, Jane háo hức hỏi trước khi Skye kịp giẫm lên chân em.

“Có vẻ là vở
kịch rất giàu trí tưởng tượng và sáng tạo, bình thường thầy Geballe không nghĩ
là con viết được như thế. Thầy ấy càng đặc biệt hài lòng vì con đã chối đây đẩy
bài tập này. Thực ra, thầy ấy hài lòng đến mức đã chọn nó làm vở kịch cho Hội
diễn Văn nghệ Khối lớp Sáu năm nay”.

“Cái gì ạ?”,
Skye kinh hoàng hỏi.

“Ái chà!”, Jane
hết sức phấn khích. Hội diễn Văn nghệ Khối lớp Sáu là sự kiện văn nghệ mùa thu
của trường Rừng Hoang. Thông thường họ sẽ chọn một vở kịch cũ rích chán ngắt
nào đó từ trong sách hướng dẫn của giáo viên. Nhưng năm nay thì sẽ là vở kịch
của em! Chỉ có điều, than ôi, sẽ chẳng ai biết được đó là vở kịch do em sáng
tác.

“Các thầy cô đã
bao giờ dùng kịch bản của học sinh đâu”, Skye nói. “Sao lại là năm nay chứ
không phải là năm nào khác?”.

“Thầy Geballe
nghĩ là con sẽ vui chứ”, bố em đáp lại. “Con không vui à?”.

“Nó sẽ tạo cho
con nhiều sức ép lắm”. Nhiều sức ép đến nỗi Skye những muốn nói toạc móng heo
ra rằng em không hề viết vở kịch ấy. Nhưng nếu em thú nhận việc này thì em sẽ
không bao giờ có cơ hội đổi bài tập về nhà với Jane nữa, và rồi ai sẽ viết hộ
em các bài văn hư cấu từ giờ cho đến tận lớp mười hai đây? Sau đó hai đứa có
thể từ bỏ cái trò lật lọng này và lấy lại danh dự của mình, bởi vì khi học đại
học thì Skye sẽ không cần viết cái gì hư cấu hết - em sẽ chỉ học toàn toán và
khoa học thôi. “Nhưng con đoán con có thể làm được”.

“Ờ, thế là được
rồi”. Ông Penderwick bế Batty vào lòng. “Bé cưng, sao con lại đeo kính râm vậy?”.

“Để do thám
Người-Bọ ạ. Bố ơi, cô Iantha thử làm bánh pudding cho con với cả em Ben, nhưng
cô ấy làm hỏng. Cô ấy nói cô ấy là một đầu bếp tồi kinh khủng”.

“Thế thì lại
càng đáng quý vì cô ấy đã cố gắng phải không nào? Ngày hôm nay của con thế nào,
Rosy?”.

“Ổn ạ”. Em bám
lấy mép bàn và nhìn sang Anna để lấy can đảm. “Bố, dì Claire vừa gọi điện. Mai
dì ấy sẽ đến chơi”.

“Dì ấy cũng gọi
cho bố rồi. Dì ấy có nhắc đến cuộc hẹn với cô giáo dạy tiếng Latin không? Bố đã
bảo dì ấy là khỏi cần”.

“Khỏi cần ấy ạ?”,
Rosalind nhắc lại, ngỡ mình đã nghe nhầm.

“Bởi vì cuối
tuần này bố đã có rồi”.

“Bố…”, Rosalind
nghẹn lời, không nói thêm được gì.

“… đã có hẹn
rồi, đúng thế. Thực ra là tối mai”.

Ông nói vẻ hết
sức thản nhiên, nhưng nếu ông tuyên bố mình sắp thành một chú hề trong rạp xiếc
thì chắc các cô con gái của ông còn đỡ choáng váng hơn.

Anna thốt ra câu
hỏi mà không đứa nào hỏi nổi. “Cô ấy là ai thế bác Pen?”.

“Một người phụ
nữ bác mới gặp. Bác thấy cô ấy khá thú vị, và đã quyết định dành thời gian tìm
hiểu cô ấy. Không có gì nghiêm trọng cả. Giờ thì tất cả đi đi để bố nấu bữa tối
nào”.

Không đứa nào
rời đi cả. Chúng không thể nhúc nhích. Chúng chỉ có thể ngồi đó, rầu rĩ và bối
rối, tự hỏi không biết có phải bố mình đã bị người ngoài hành tinh nhập xác không.

“Tên cô ấy là gì
ạ?”, cuối cùng Jane hỏi.

“Tên của cô ấy
ư?”.

“Tên cô ấy, bố ạ”.
Lần này là Skye.

Nomen, nominis (1)”, Rosalind thốt lên, có vẻ
sắp khóc đến nơi.

(1. Tiếng Latin,
nghĩa là: tên, tên tuổi (nominis
danh từ ngôi thứ 3 của nomen.)

Ông Penderwick
nhìn một lượt những khuôn mặt sững sờ quanh mình. “Tên cô ấy là Marianne”.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3