Thiên Tỏa - Chương 08
Hắc
Lão Ngũ vén tay áo lên, cười khoái chí rồi vỗ vai tôi mà nói:
-
Được rồi, không có bản lĩnh thì sao làm được việc này, coi như mi chính là người
lập công đầu rồi. Cái khóa hút máu chết tiệt này giờ đã được mở ra, bên dưới chẳng
qua cũng chỉ là một cỗ máy thử lòng chúng ta mà thôi, Hắc Lão Ngũ ta thừa sức đối
phó với chúng, mi cứ dưỡng sức đi.
Thấy
thái độ cương quyết của lão, vả lại tôi cũng đã thấm mệt, nên cũng không giằng
co thêm nữa mà chỉ gật đầu nói:
-
Vâng, vậy Lão Ngũ giúp cháu nhé! – Rồi quay sang để chị Giai Tuệ giúp cầm máu,
nhưng nhất quyết không chịu băng lại, vì hai bàn tay này sẽ còn phải dùng nhiều
đến nó.
Hắc
Lão Ngũ vuốt vuốt chỏm râu, rồi chắp hai tay sau lưng, vặn vẹo một hồi sau đó
quay người lại, hai bàn tay lão nắm chặt vật gì đó tròn dẹt màu đen sậm, nhẵn
bóng, to chừng một phần tư lòng bàn tay. Tôi quan sát thấy vạt áo sau của Lão
Ngũ bị vén lên một chút, nhưng thực ra không kịp nhìn thấy lão hành động, nên
không hiểu bằng cách nào mà vật đó lại xuất hiện trong tay lão.
Lão
Ngũ cầm chắc vật đó trong tay, từ từ quỳ gối, ghé sát mặt xuống miệng lỗ mà lúc
trước đặt viên huyết ngọc, ngoẹo cổ sang một bên, nheo mắt nhìn vào bên trong,
rồi khẽ ậm ừ trong họng. Tay trái của lão hơi nhích lên phía trước thăm dò, năm
ngón tay liên tục xòe ra nắm lại vài lần rất nhanh, vật trong lòng bàn tay lão
lập tức tách làm đôi giống như vỏ sò, để lộ ra một tia sáng màu xanh biếc. Nhìn
kỹ hơn, tôi mới nhận ra mặt trong của nắp trên và nắp dưới của nó đều có khảm một
viên ngọc tự phát sáng màu xanh lục, bóng tối âm u trong căn phòng càng khiến
cho viên ngọc tỏa sáng lấp lánh, đẹp một cách lạ kỳ.
-
Gương Dạ Minh!
Bỗng
nhận ra đây là một bảo bối, tôi vội thốt lên. Có lần ông tôi đã kể cho tôi về bảo
bối của những tên trộm chuyên nghiệp, gương Dạ Minh chính là một trong số đó.
Nó được sử dụng trong hoàn cảnh cần ánh sáng vào ban đêm, so với các loại đèn
chuyên dụng thì khả năng chiếu sáng của loại gương này còn lớn hơn gấp cả trăm
lần.
Hắc
Lão Ngũ chỉ gật đầu mà không trả lời, rồi lão quay lại nhẹ nhàng đưa chiếc
gương kề sát miệng lỗ, tay không ngừng điều khiển góc chiếu của chiếc gương để
ánh sáng lọt vào bên trong lỗ. Lão chậm rãi nói:
-
Ta không thấy viên huyết ngọc đâu cả, bên trong chỉ có một cái móc giật, chắc
đây chính là… ái chà, chết tiệt, trên tường còn cắm hẳn năm lưỡi dao răng cưa,
định làm khó người mở chúng đây, nhưng khó nhằn thế nào ta cũng giải quyết được.
Nghe
đến việc có gươm đao đã khiến tôi sợ cứng người, liền quay sang hỏi lão liệu có
quá nguy hiểm không?
Hắc
Lão Ngũ vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên trả lời:
-
Nó chỉ cứa được chân bọn cóc nhái chứ không làm được gì ta đâu, nhưng nếu để nó
cắt trúng thì sẽ đau lắm đấy. Nguy hiểm đến mức nào ta chưa biết được, nhưng
các ngươi chống mắt nhìn Lão Ngũ ta phá chúng đây! – Nói rồi, lão đặt vật màu
đen giống như vỏ sò lên mặt sàn, từ bên trong phát ra một tiếng động nhẹ, rồi
những mảnh vỡ nhỏ như móng tay thi nhau rơi xuống mặt sàn. Lão gom những mảnh vỡ
lại và khi nhấc tay lên thì chúng được xâu thành một chuỗi giống như chuỗi ngọc
trai.
Nào
là gương Dạ Minh, nào là chuỗi hạt kỳ lạ, chị Giai Tuệ cứ thế tròn mắt lên
nhìn, vẻ ngẩn ngơ không hiểu gì. Kể cũng lạ, chị ấy rõ ràng là một cảnh sát ưu
tú, đã từng xuất sắc phá được rất nhiều vụ án li kỳ, thế nhưng đối với những
mánh khóe của chúng tôi thì lại không hề biết tới, lần đầu tiên được chứng kiến
tận mắt nên không tránh khỏi lạ lẫm và ngạc nhiên.
Tôi
cũng lập tức nhận ra chuỗi hạt đó chính là chuỗi hạt Ô Kim, nó được đúc từ vàng
đen[1], thành những hạt hình cầu như ngọc trai, bên trong lõi hạt là những chiếc
móc gai nhỏ xíu móc vào sợi dây trong suốt xâu thành chuỗi, khi chụm lại chúng
sẽ tạo thành hình vỏ sò, chuỗi hạt này có thể mở được tất cả các loại khóa dạng
xích, đó cũng được coi là một trong những bảo bối của dân trộm chuyên nghiệp.
[1]
Chính là bạch kim đã qua tôi luyện chuyển sang màu đen, nhưng vẫn giữ được độ
sáng bóng, được coi là một loại hợp kim quý hơn cả bạch kim.
Hắc
Lão Ngũ đặt chiếc gương Dạ Minh sang bên cạnh, lách cách vài tiếng rồi cầm một
đầu chuỗi hạt, vừa thả mạnh chuỗi hạt xuống miệng lỗ vừa nheo mắt ngắm theo hướng
rơi của nó.
Điều
kinh khủng lập tức xảy ra, khi chúng tôi vừa nghe thấy tiếng của những hạt ngọc
va vào thành lỗ, thì trong cái lỗ tối đen như mực lập tức bắn ra năm lưỡi dao
hình răng cưa, mỗi lưỡi chỉ dài khoảng năm sáu phân, vô cùng sắc bén, chúng va
chạm với chuỗi hạt gây ra một tràng âm thanh đinh tai nhức óc. Không chỉ thế,
những lưỡi dao đó bay một vòng rồi lại liệng theo hình vòng cung quay trở lại với
tốc độ chóng mặt, giống như chiếc chong chóng với tiếng kim loại chát chúa.
Tôi
thè lưỡi ra, chỉ lắp bắp được mấy chữ “Quá nguy hiểm!”. Giả sử những người
không biết chiếc bẫy tinh vi này dại dột thò tay xuống dưới lỗ thì e rằng ngay
cả xương cũng bị nghiền nát, không để lại dấu vết.
Lão
Ngũ nheo đôi mắt lá răm mỏng dính lại, tập trung dõi theo hướng bay của những
lưỡi dao, tay trái lão tuốt một viên từ chuỗi hạt rồi đặt trên móng tay ngón giữa
của bàn tay phải, nhắm thật chuẩn vị trí rồi bắn mạnh vào bên trong lỗ, viên ngọc
nhanh như chớp lao thẳng vào bên trong.
Một
tia sáng lói vụt lóe kèm theo một chuỗi âm thanh chói tai dọi đến, ngay sau đó
là tiếng lưỡi dao rơi xuống đáy lỗ vọng lại, thì ra một lưỡi dao đã bị gẫy đôi,
một phần rơi xuống phía dưới.
Tôi
giật nảy mình, quay sang nhìn lại đôi bàn tay xương xẩu như chân gà của lão, bỗng
chột dạ không hiểu tại sao đôi tay gầy gò của một lão già lại mang một sức mạnh
lớn đến như vậy, lại còn có thể bách phát bách trúng chuẩn xác như thế.
Hai
tay Lão Ngũ cứ thế không ngừng tuốt từng viên ra khỏi chuỗi hạt rồi bắn vào
phía trong miệng lỗ, bốn lưỡi dao còn lại cũng lần lượt bị bắn rơi, giờ chỉ còn
lại một phần của bốn lưỡi dao nhưng tốc độ đã yếu đi rất nhiều.
Đợi
một vài giây sau, Lão Ngũ lại tiếp tục dùng những hạt còn lại bắn vào phần gốc
của bốn lưỡi dao để đổi hướng quay của chúng, những tiếng lạch cạch nối tiếp
nhau vang lên rồi ngưng bặt. Một lúc sau, các lưỡi dao dừng quay thật, thì ra
chúng đã bị bắn trúng, cắm lỗ chỗ vào xung quanh tường. Thấy khuôn mặt lão giãn
ra, tôi đoán là lão đã giải quyết xong những lưỡi dao đó.
Lão
Ngũ lồm cồm đứng lên, cúi xuống nhặt lại bốn viên ngọc rơi trên mặt sàn, rồi
thò tay vào miệng lỗ gắp ra viên ngọc đầu tiên, đặt vào lòng bàn tay, ra sức ấn
hai tay thật mạnh vào nhau, “rắc, rắc” vài tiếng, những viên ngọc giờ đã lại hợp
thành một vật hình tròn dẹt màu đen trũi. Xong việc, Lão Ngũ nhanh tay cất chuỗi
Ô Kim và gương Dạ Minh vào trong áo rồi mới quay sang chúng tôi, cười khoái
chí:
-
Nhóc con, thấy tài nghệ của Lão Ngũ ta có điêu luyện không?
Tôi
và chị Giai Tuệ cùng giơ ngón tay cái ra hiệu bái phục và đồng thanh nói:
-
Lão Ngũ thật không ai sánh bằng!
Khuôn
mặt Lão Ngũ giãn ra tỏ vẻ vô cùng đắc ý, lão cười phá lên rồi không ngừng tấm tắc:
-
Cũng hay, cũng hay…
Chị
Giai Tuệ tủm tỉm hỏi lại lão:
-
Lão Ngũ sao không nói “hay đấy” mà lại đổi thành “cũng hay” rồi?
Tôi
vội nhanh miệng nói chen vào:
-
Em biết rồi, bởi vì sau màn cũng hay này nhất định sẽ là màn quá hay!
Nói
xong, ba người chúng tôi quay sang nhìn nhau, rồi cùng phá lên cười, cảm giác gần
gũi thân quen tăng lên rất nhiều.
Chị
Giai Tuệ dìu tôi bước tới miệng lỗ, quỳ gối xuống ngó vào bên trong, bốn phần
còn lại của lưỡi dao cắm vào các cạnh xung quanh, phần giữa của năm lưỡi dao đều
có gắn một hòn bi rỗng, được xỏ qua hai sợi dây mảnh màu xanh, nhờ đó mà lưỡi
dao mới có thể quay được.
Cả
cái lỗ sâu chừng hơn chục centimet, dưới đáy là một tấm kim loại màu vàng kim
có gắn một khuyên tròn màu xám bạc ở chính giữa, viên huyết ngọc không biết đã
lặn đi đâu.
Chị
Giai Tuệ giờ mới chịu lên tiếng:
-
Vị trí chiếc khuyên này ngay ở chính giữa, liệu nó có phải lại là một chiếc
khóa khác?
Tôi
nhìn kỹ lại lần nữa, do dự một lúc rồi nói:
-
Em không nghĩ là một chiếc khóa, hình như nó là một cái chốt thì phải. Hay là để
em kéo lên thử xem!
-
Đợi đã! – Chị Giai Tuệ bỗng kéo tay tôi lại. – Để chị. Hai người đã mệt suốt từ
nãy tới giờ rồi, việc này cứ giao cho chị.
Tôi
và Lão Ngũ quan sát kỹ càng chiếc khóa lại một lần nữa, với những gì được tận mắt
thấy, chúng tôi thực sự không nhận ra dấu hiệu của cỗ máy nào ẩn giấu, nên quay
sang gật đầu đồng ý.
Chị
Giai Tuệ bỏ chiếc balô đang đeo trên lưng xuống, lấy ra hai chai nước lọc đưa
cho chúng tôi uống. Rồi chị đi tới bên chiếc khóa, cúi rạp người sát xuống miệng
lỗ, thò một tay xuống bên dưới, móc một ngón tay vào chiếc khuyên kim loại, hơi
nhấc lên rồi chị quay đầu nói với chúng tôi:
-
Có thể nhấc lên được rồi!
Nhận
thấy không có gì khác thường, chị nhấc cao cánh tay lên. Điều lạ ở chỗ, trong
chiếc lỗ đen thui đó không phát ra bất kì âm thanh nào, tôi đoán rằng, nhất định
chúng đã được phủ một lớp dầu bôi trơn.
Chiếc
khuyên kim loại dần dần được kéo lên khỏi miệng lỗ, đồng thời kéo theo cả một
đoạn dây xích với những vòng khuyên tròn nối lại với nhau. Lên khỏi miệng lỗ
khoảng năm phân, sợi dây xích bỗng khựng lại không sao kéo thêm được nữa. Chị
Giai Tuệ đặt chúng lên mặt sàn cạnh miệng lỗ, nhưng cũng không thấy chúng bị
kéo lại, đợi một lúc vẫn không thấy phản ứng gì.
Lão
Ngũ bước tới, cầm sợi dây xích lên, bực tức nói:
-
Cái trò chết tiệt gì thế này, mất cả ngày trời với nó mà vẫn chưa mở được là
sao?
Tôi
cũng cảm thấy hơi kỳ lạ, đang định mở lời thì mặt sàn dưới chân đột nhiên rung
lên bần bật, trong phút chốc chúng tôi như rơi tõm xuống hố sâu, mọi thứ trước
mắt trong nháy mắt đã phủ một màu đen ngòm.
Bất
ngờ trước hoàn cảnh, ba người chúng tôi đồng loạt lên tiếng, tôi thì “á” một tiếng,
Hắc Lão Ngũ chỉ một câu “mẹ kiếp!”, còn chị Giai Tuệ thì buột miệng kêu “ừm!”.
Đấy đều rất đúng với tính cách của từng người chúng tôi.
Nghe
thấy tiếng của hai người kia bên cạnh mình nên lòng tôi cũng yên tâm phần nào.
Mới đầu, tôi cứ nghĩ chúng tôi bị rơi xuống một cái hố sâu hoắm, tay chân vẫn đứng
vững trên sàn nhưng chỉ có điều mặt sàn không ngừng lún xuống dưới giống như
đang đứng trong thang máy vậy. Tôi không thấy mặt sàn rung chuyển nhiều nữa mà
chỉ nghe bên tai có tiếng ken két nhè nhẹ của kim loại cọ xát vào nhau.
Tôi
ngẩng đầu nhìn lên, trần nhà của điện Sùng Chính mỗi lúc một nhỏ lại, xem ra
chúng tôi đang tụt sâu xuống hầm nằm ngay dưới bục ngai vàng của hoàng đế.
“Tách!”
một tiếng, Hắc Lão Ngũ mở chiếc gương Dạ Minh, khiến khung cảnh xung quanh đột
ngột sáng bừng.
Tôi
ngó nghiêng quan sát bốn phía, xung quanh chúng tôi đều là bốn bức tường vuông
góc với nhau, nó giống như một đường ống thông gió, trên bốn bức tường đều ánh
lên màu kim loại.
Chị
Giai Tuệ bỗng giậm chân thình thích, chán nản thốt lên:
-
Chết rồi, cháu để quên đèn pin trên kia mất rồi!
Lão
Ngũ tặc lưỡi nói:
-
Sợ cái gì, ta dùng cái gương này cũng được chứ sao? – Nói rồi lão liền nắm chặt
lấy cổ tay tôi. – Mọi người phải nắm chặt tay nhau, nhất định không được tách
ra, có giời mới biết được bao giờ mới tới nơi. Phải rồi, chúng bay mau nhắm mắt
lại, lưỡi đặt lên hàm trên, hít vào bằng mũi thở ra bằng mồm, càng xuống dưới không
khí càng loãng sẽ khó thở hơn đấy.
Tôi
và chị Giai Tuệ vội thực hiện theo kinh nghiệm của tiền bối, ba người chúng tôi
nắm tay nhau tạo thành vòng tròn, nhắm mắt, điều chỉnh nhịp thở, im lặng chờ đợi
cho chiếc thang máy khổng lồ này chạm đất.
Mặt
sàn vẫn tiếp tục sâu xuống dưới, tôi bắt đầu thấy tim mình loạn nhịp, đã vài lần
hé trộm mắt để nhìn, tôi cảm thấy càng xuống sâu, bóng tối xung quanh như càng
dầy lên khiến cả đường dẫn giờ chìm vào một màu đen kịt, nhiệt độ mỗi lúc một
xuống thấp, đem lại cho con người ta một cảm giác mát mẻ sảng khoái. Tôi đang
không biết chúng tôi đã xuống dưới này bao lâu rồi, thì bỗng nhiên mặt sàn hơi
rung nhẹ, đầu óc tôi hơi choáng váng, bụng dạ cồn cào, hình như chúng tôi đã đến
nơi.
Tôi
vội vàng ngẩng đầu ngó lên, do chiếc đèn pin chị Giai Tuệ bật để trên miệng
hang nên tôi vẫn nhìn thấy đốm sáng từ xa xa, thế nhưng giờ nó chỉ như một ngôi
sao lấp lánh trên bầu trời.
Lão
Ngũ thả tay tôi ra, rồi bỗng “tách” một tiếng, cả đường ống dẫn giờ bừng lên
trong thứ ánh sáng xanh nhạt. Lão lôi chiếc gương Dạ Minh ra, lần lượt hướng về
phía chúng tôi kiểm tra.
-
Hai đứa đều không sao chứ?
-
Không sao ạ! – Chúng tôi ngó sang nhau rồi đồng thanh trả lời.
-
Không ngờ lại có một căn hầm to đến vậy, hay đấy, hay đấy. – Nói rồi lão đá chân
lên vòng xích, tiếng leng keng vọng khắp bốn bức tường vang lên. Lão bỗng cười
ha hả, ra chiều đắc chí:
-
Xem ra đây chính là chìa khóa của căn hầm này rồi, hay đấy, hay đây!
Chị
Giai Tuệ quan sát kỹ bốn phía rồi mới lên tiếng:
-
Những chuyên gia trắc địa khảo sát có nói rằng, bên dưới tấm bục này có một khoảng
không gian rất rộng, chắc chính là nơi này đây. Sở thúc cũng đã tìm ra con đường
này, nhưng sau khi xuống đây thì mất tích.
Nghe
thấy chị Giai Tuệ nhắc đến ông nội, tôi đột nhiên nhớ ra, ông nội tôi cũng xuống
tới đây rồi đi theo đường nào nhỉ? Tôi vội vàng giằng lấy chiếc gương Dạ Minh
trên tay Lão Ngũ, soi từng centimet bốn bức tường xung quanh để tìm dấu vết.
Tôi
không ngừng tìm kiếm, miết mạnh lên bức tường rồi lại vỗ lên đó để nghe âm
thanh phát ra, thế nhưng vẫn chỉ là bốn bức tường lạnh ngắt, tôi không tìm thấy
một manh mối nào vế cánh cửa hay một lối đi nào khác. Ông nội tôi rốt cuộc đã ở
đâu? Tôi hoang mang quay sang nhìn hai người bọn họ.
-
Cũng không đúng! – Lão Ngũ bỗng lên tiếng, tay xoa cằm vẻ đăm chiêu. – Nếu như
lão Sở cũng qua con đường này, rồi mất tích ở đây, vậy thì chắc chắn lão cũng
phải phá được những cửa ải vừa xong. Viên ngọc hút máu thì không nói làm gì rồi,
nhưng mọi người đều tận mắt chứng kiến, năm lưỡi dao kia là có thật. Giai Tuệ,
vậy lúc phát hiện ra lão Sở mất tích, mọi người có thấy dấu vết của những lưỡi
dao đó văng ra không?
Chị
Giai Tuệ “ồ” lên một tiếng, ngẩng mặt lên nhìn quanh bốn phía, suy ngẫm một hồi
rồi trả lời:
-
Đúng thật là không có, lẽ nào Sở thúc đã mở cánh cửa khác, mà không phải phá
năm lưỡi dao kia? Hoặc là, Sở thúc không hề qua con đường này mà tìm ra một con
đường hoàn toàn khác.
Lão
Ngũ chăm chú nghe lời nhận xét của chị Giai Tuệ rồi gật gù nói:
-
Ừ, có lý, có lý! – Lão trầm ngâm vuốt vuốt mấy sợi râu lưa thưa dưới cằm. – Lão
Sở chắc chắn đã đi qua lối đó, nhưng không thể nào đoán ra lão đã làm cách nào
bỏ qua năm lưỡi dao kia, xem ra đúng là còn có một cánh cửa khác thật.
Dừng
lại một lúc, lão quay sang nhìn tôi, vỗ vỗ lên bức tường kim loại bên cạnh, cười
xòa rồi nói:
-
Chúng ta cứ thử tìm xem thế nào, xem xem làm thế nào để đi tiếp, khéo Lão Sở lại
đang ngồi ở đâu đó đợi chúng ta đến uống rượu cùng cũng nên. Ha ha. Hay đây,
hay đấy!
Tôi
thở dài, nghĩ bụng Lão Ngũ chỉ là đang an ủi mà thôi, thế nhưng tôi vẫn nuôi hi
vọng điều đó là sự thật, mong rằng ông nội đang bình an ở một nơi nào đó đợi
chúng tôi.
Lão
Ngũ chỉnh lại góc chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh cho rộng hơn, rồi đặt ở một
góc khiến cho đường địa đạo giờ giống như một chiếc đèn lồng lớn với ánh sáng hết
sức rực rỡ.
Dưới
ánh sáng từ chiếc gương Dạ Minh, ba người chúng tôi đều căng mắt, miết tay lên
bức tường kim loại, cố gắng tìm cho ra cỗ máy đang được cất giấu.
Mặt
tường nhẵn mịn một cách lạ thường, không thấy bất kỳ một dấu vết lồi lõm, chúng
dường như phẳng lì từ trên xuống dưới, cũng không biết được nó làm bằng chất liệu
gì, sau khi đã xem xét kĩ đến từng milimet cũng không tìm ra được một dấu hiệu
khả quan, dù chỉ là một vết nứt. Tôi bắt đầu thấy sốt ruột, giậm chân cau có,
chẳng nhẽ lại chịu chết dí ở đây hay sao?
Chị
Giai Tuệ nắm lấy tay tôi, khẽ bóp nhẹ, rồi cúi đầu nhìn xuống sợi dây xích dưới
chân và lưỡng lự nói:
-
Chúng ta… có nên… hay là thử kiểm tra sợi xích này xem sao?
Lão
Ngũ “ừ” nhẹ một tiếng, gật gật đầu tỏ vẻ tán đồng.
-
Cũng có thể. – Nói rồi lão cúi gập người xuống với lấy sợi xích rồi giật mạnh
lên, nhưng vẫn không có chút phản ứng gì. Lão liền ném sợi xích đánh phịch xuống
đất, nói tiếp. – Không phải, không phải, nó không hề nhúc nhích!
Thấy
hình dạng của sợi xích hơi lạ thường, trong đầu tôi bỗng vụt lên một ý nghĩ mơ
hồ, tôi vội vàng quỳ gối ngồi xuống, cầm sợi xích lên tay quan sát tỉ mỉ. Sợi
dây xích dài khoảng bảy tám phân, móc xích to chừng đầu ngón tay, tôi đếm tổng
cộng gồm có ba mươi sáu mắt xích kim loại được mài giũa hết sức tinh vi, chúng
xâu lại với nhau tạo thành một chuỗi dài.
Tôi
mân mê sợi xích trên tay, nhấc hai mắt xích lên ghép lại với nhau. Bỗng phát hiện
ra tại mỗi điểm nối của mắt xích đều có một sợi dây kim loại rất mảnh, màu xám
bạc xuyên qua. Tôi dùng móng tay út khều nhẹ lên, nó là một sợi kim loại vô
cùng mềm mại và dẻo dai. Tôi chuyển sang quan sát những mắt xích khác, chúng đều
có cấu tạo y hệt như vậy, vậy là đã rõ, sợi kim loại mảnh màu xám bạc này dùng
để nối hai mắt xích lại với nhau.
Quan
sát đến đây, tôi dần dần hiểu ra vấn đề, cảm thấy trong lòng đã có một hướng đi
nhất định. Tôi liền bảo chị Giai Tuệ cầm chiếc gương Dạ Minh tới soi cho thật kỹ.
Giờ thì tôi đã quan sát được kỹ hơn, thì ra sợi dây kim loại đó lại do hai sợi
kim loại vô cùng mảnh khác vê thành, giống như sợi tóc của tôi vậy, chúng xoắn
lại với nhau khít tới mức khó nhìn thấy bằng mắt thường.
Tôi
rút chiếc kính chuyên dụng của mình ra, quan sát kỹ hơn bề mặt của mắt xích, và
tôi phát hiện ra mặt trong của mỗi mắt xích đều có khắc một dấu thập, chúng thậm
chí còn nhỏ hơn hạt vừng, nếu không để ý sẽ không nhìn thấy. Đúng là bảo bối, bụng
nghĩ như vậy, nên tôi không thể không tỉ mỉ quan sát nó.
Thấy
tôi có vẻ đã tìm ra manh mối, Hắc Lão Ngũ liền nhào tới, hỏi tôi xem có phải đã
tìm ra điều gì đó không. Tôi khẽ đặt chiếc khóa xích xuống ngẩng lên nhìn lão,
rồi nói:
-
Sợi dây xích này chính là một chiếc khóa, nó được gọi là Khóa tơ Thiên Cương ba
mươi sáu vòng.
Khóa
tơ Thiên Cương ba mươi sáu vòng, quả đúng như tên gọi, sợi dây xích được kết từ
ba mươi sáu vòng xích đúc bằng thép không gỉ, là một trong những dạng chuỗi.
Ông nội tôi kể rằng, loại khóa này được chế tạo vào thời Nam Đường, đó là khoảng
thời gian mà kỹ thuật đúc lúc bấy giờ rất phát triển. Cấu tạo của những mắt
xích này rất phức tạp, chúng đều rỗng ở giữa với lõi khóa bằng đồng có thể xoay
tròn, hai mắt xích được nối với nhau bằng hai sợi dây mảnh làm từ hợp kim đồng.
Nếu như mỗi mắt xích là một ổ khóa thì ba mươi sáu mắt xích nối lại với nhau sẽ
tạo thành một chuỗi khóa biến hóa khôn lường.
Khi
nghe xong những lời giải thích của tôi, chị Giai Tuệ liền thở dài và nói:
-
Không ngờ rằng sợi dây xích ngắn vậy mà lại là một chiếc khóa phức tạp đến thế.
Lan Lan, em nghĩ chiếc khóa này có dễ mở không?
Tôi
lại nhấc đoạn xích lên, cầm đoạn nối giữa hai mắt xích, chỉ cho chị thấy sợi
dây mảnh bằng hợp kim đồng nối giữa chúng, rồi nói:
-
Em nghĩ rằng sẽ không khó lắm nhưng sẽ rất tốn sức. Đừng xem thường, sợi dây mỏng
manh là thế nhưng thực ra nó lại là mấu chốt quan trọng của cả chiếc khóa. Khi
mở được một móc xích, sợi dây này sẽ tự động co rút lại, kéo sang móc xích tiếp
theo, cứ thế từng cái từng cái nối lại, cho đến cái móc thứ ba mươi sáu thì sức
kéo của sợi dây này tới mức nào thì cũng khó có thể đoán biết được.
Thấy
hai người vẫn có vẻ mơ hồ về độ co rút của loại kim loại này, tôi mới giảng giải
chi tiết hơn, ba mươi sáu vòng Thiên Cương đại diện cho ba mươi sáu vì sao trên
trời, nó ngầm ứng với ba trăm sáu mươi độ, lấy dãy số Thiên Cương để chỉ số độ
Trái đất quay quanh Mặt trời một vòng, là một dạng lực khó ước tính được. Tuy sợi
dây xích này trông có vẻ rất mảnh, thế nhưng mỗi móc xích lại có một lực rất lớn,
e rằng đến một chiếc xe ô tô cũng không thể kéo đứt được nó.
Tôi
quay lại quan sát đoạn dây xích một lần nữa, suy nghĩ hồi lâu rồi nói với Hắc
Lão Ngũ:
-
Lão Ngũ, với sức lực hiện tại của cháu chắc chỉ có thể tháo được ba mươi mắt,
chỗ còn lại chắc phải để lão ra tay rồi.
Lão
Ngũ lập tức đồng ý, không chút suy tính.
-
Được, vậy mi thực hiện trước đi, để ta quan sát cách mở trước, khi nào mệt lập
tức chuyển cho ta.
Tôi
gật đầu, rồi rút bọc da hươu trong túi ra, ngắm lại lỗ khóa rồi chọn ra một chiếc
kim móc phù hợp nhất, từ từ tra kim vào lỗ khóa.
Lỗ
khóa vừa nhỏ lại vừa ngắn, trục khóa thì nhỏ tới mức không thể tưởng tượng nổi.
Tôi phải dùng đầu ngón tay cảm nhận để mở khóa, giọng Lão Ngũ vọng lại bên tai:
-
Bên trong đó là hai trục khóa hình chữ thập, bị gắn chặt bởi một sợi dây hợp
kim đồng, chỉ khi nào di chuyển cho hai trục đó nằm sát lại với nhau thì sợi
dây kim loại kia mới tự động bung ra, thít chặt trục khóa của mắt xích tiếp
theo…
Một
tiếng “tách” nhẹ vang lên, vậy là mắt khóa thứ nhất đã được mở, sợi dây hợp kim
đồng nhanh chóng tuột ra, co về cố thủ trong lõi khóa mắt xích thứ hai.
Tôi
đặt mắt xích đầu tiên lên mặt sàn, rồi tiếp tục mở sang mắt xích thứ hai. Lần
này lực tác động trên đầu ngón tay tôi đã mạnh hơn chút xíu, nhưng vẫn chưa lớn
lắm, tôi vẫn dễ dàng mở được nó.
Cứ
như vậy, tôi tháo từng cái rồi từng cái một, cho đến chi tháo tới mắt xích thứ
tám, lực kéo của sợi dây đã rất lớn, khiến tôi có cảm giác như đang giằng kéo sợi
dây xích cổ của một con chó đang lên cơn dại. Tôi có cảm giác mình hơi đuối sức,
đầu ngón tay cầm kim móc giờ đã tê dại đến mức mất cảm giác, trục khóa giờ giống
như đã bị hàn cứng lại, càng lúc càng khó di chuyển nó.
Lão
Ngũ nhìn chăm chú những động tác của đôi bàn tay tôi đang thao tác, thấy tôi đã
có vẻ lỏng tay, lão vội vàng nói:
-
Nhóc con, dừng tay nghỉ chút đi, để ta làm tiếp cho!
Tay
tôi không dám ngừng lại dù chỉ trong giây lát, tôi thở hổn hển, giọng đứt quãng
vì mệt:
-
Vẫn… vẫn còn có thể cố thêm vài cái nữa. Phải… phải nhớ rằng, khi… đổi tay, nhất…
nhất định không được lỏng tay, nếu không… nếu không sợi dây này… sẽ càng co chặt
hơn.