Chiến hữu - Chương 20.1

Chương 20

háng Tám ấm và trong, và ngay cả trong tháng Chín, khí hậu vẫn còn như mùa hè --nhưng rồi, vào những ngày cuối, trời bắt đầu mưa. Suốt ngày, mây giăng chùng trên thành phố, mái hiên tí tách nước, rồi những trận bão bắt đầu và, một Chúa Nhật kia, khi dậy sớm, đến bên cửa sổ, tôi trông thấy những chấm lưu huỳnh vàng úa trên vòm lá ở nghĩa trang và những cành khô đầu tiên.
Tôi đứng bên cửa sổ thêm một lát. Thật lạ lùng, những ngày tháng sau khi chúng tôi từ chỗ nghĩ mát ở biển trở về; tôi luôn luôn, hàng giờ, ý thức rằng đến mùa thu Pat sẽ phải đi xa, thế nhưng tôi nghĩ đến chuyện ấy như người ta nghĩ đến nhiều thứ khác -- rằng ngày tháng trôi qua, rằng con người phải già đi, rằng con người không thể sống muôn đời. Hiện tại được coi trọng; lúc nào nó cũng đánh bại những ý nghĩ khác, và chừng nào Pat còn đây, chừng nào cây lá còn xanh, những từ ngữ như "mùa thu", "đi xa" và "chia ly" chẳng khác gì hơn cái bóng nhợt nhạt ở chân trời, khiến ta cảm thấy đậm đà thêm niềm vui vẫn được gần gụi, chung sống bên nhau.
Tôi nhìn xuống nghĩa trang ẩm thấp, đẫm nước, nhìn những mộ bia phủ đầy lá nâu bẩn thỉu.
Như một con quái vật kiệt máu, sương giá đêm qua đã hút cạn nhựa xanh của lá; chúng yếu ớt, mềm rũ, bám víu lên cành; mỗi cơn gió thoảng qua lại làm rơi rụng thêm vài chiếc bay bay trước gió --và bỗng dưng lần thứ nhất trong đời, tôi ý thức được nỗi đau nhức nhối của cuộc sinh ly sắp xảy ra, sắp trở thành hiện thực, và mùa thu đang len lén bò trên ngọn cây ngoài kia để lại dấu chân vàng vọt phía sau, cũng đã là hiện thực.
Tôi nghe ngóng phòng bên cạnh. Pat vẫn ngủ. Tôi đến cửa phòng, đứng đó một lát. Nàng ngủ yên, không ho. Trong thoáng chốc, một hy vọng bất thần nảy sinh: tôi vẽ ra trước mắt cảnh tượng hôm nay hay ngày mai hay vài ngày sắp tới, Jaffé sẽ gọi điện báo cho tôi biết, nàng không phải đi xa. Rồi tôi chợt nhớ đến những đêm nghe hơi thở lào xào của nàng, âm thanh đều đều, nghèn nghẹn, kẽo kẹt, đến rồi đi như một lưỡi cưa mỏng kéo nơi xa --và niềm hy vọng ấy lịm tắt cũng nhanh như khi bùng dậy.
Tôi quay lại cửa sổ và một lần nữa, nhìn mưa rơi. Rồi tôi ngồi xuống bàn, bắt đầu đếm tiền. Tôi tính toán xem số tiền đó sẽ kéo dài được bao lâu cho Pat, nhưng việc ấy làm tôi khổ sở, và tôi lại cất tiền đi.
Tôi nhìn đồng hồ. Gần bẩy giờ sáng. Ít nhất hai giờ nữa Pat mới thức dậy. Nên tôi vội mặc quần áo để ra khỏi nhà và lái một chút. Như thế còn hơn là ngồi rịt trong phòng, suy nghĩ vẩn vơ.
Tôi đến ga-ra, lấy chiếc tắc xi và lái chầm chậm. Đường thưa người. Trong khu vực lao động, những dãy chung cư xếp hàng, trọc lóc và tiêu điều, như những cô gái điếm già nua buồn bã, trong mưa. Mặt tiền xuống cấp và dơ bẩn, các cửa sổ tối tăm gương những cặp mắt u sầu dưới ánh sáng ban mai, và lớp vôi tường đã tróc lở nhiều chỗ để lộ những lỗ sâu, xám vàng như đậu mùa.
Tôi lái qua Phố Cổ, đến giáo đường. Tôi đậu xe gần cửa nhỏ và bước xuống. Qua lớp gỗ sồi dày, tiếng organ văng vẳng đưa ra. Đó là giờ cử hành lễ Misa buổi sáng, và tôi lắng nghe tiếng đàn, bắt đầu nghi thức dâng bánh -- nghĩa là ít nhất hai mươi phút nữa mới tan lễ và con chiên mới ra về.
Tôi đi vào vườn hoa nơi hành lang. Vườn nằm dưới vũng sáng xám lờ mờ. Những bụi hồng sũng nước, nhưng đa số vẫn nở hoa. Áo mưa của tôi khá rộng và tôi có thể dấu trong áo những chùm hoa mới cắt. Mặc dù Chúa Nhật, nhưng không ai lui tới, và tôi đem một ôm hoa hồng ra xe mà không trở ngại. Rồi tôi trở vào để hái thêm. Khi tôi vừa an toàn dấu chúng dưới áo, tôi nghe tiếng chân ai từ hành lang đi đến. Tôi kẹp hoa dưới nách và đứng im trước một trong những Chặng Đàng Thánh Giá, làm như say sưa cầu nguyện.
Tiếng chân đến gần hơn; chúng không qua luôn, mà dừng lại. Người tôi bắt đầu hực nóng. Tôi chăm chú ngắm bức phù điêu đá, ra vẻ mơ màng sâu lắng, tay làm dấu thánh giá, và từ từ bước qua bức phù điêu kế tiếp, gần cửa ra vào. Tiếng chân đi theo rồi cũng ngừng lại. Tôi không biết làm sao. Tôi không thể bỏ đi ngay, tôi cần đứng lại đủ lâu để đọc mười bài kinh Kính Mừng Đức Mẹ và một bài kinh Lạy Cha -- nếu không, tôi sẽ bại lộ mà thôi. Do đó tôi tiếp tục đứng im và thận trọng ngước lên để tìm hiểu sự tình, với bộ mặt bất mãn vì việc sùng kính bị quấy nhiễu.
Tôi nhìn thấy gương mặt tròn trịa, thân thiện của một linh mục, và tôi thở đều lại. Tôi biết ngài sẽ để yên cho tôi cầu nguyện, và tôi tưởng mình đã thoát khi tôi nhận thấy, chẳng may, tôi đã chọn Chặng Đàng cuối cùng. Dù cầu kinh rề rà tới đâu chăng nữa, chỉ trong vài phút tôi cũng phải xong, và rõ ràng là ngài chờ đợi giây phút đó. Không có lý do nào kéo dài hơn nữa. Vì thế, tôi chậm rãi bỏ đi và thản nhiên tiến ra cửa.
"Chào con," linh mục nói. "Sáng danh Thiên Chúa."
"Đời đời, amen," tôi đáp ứng. Đó là cách chào hỏi của bổn đạo.
"Thật hiếm gặp ai ở đây, vào giờ này," ngài hiền hòa nói, nhìn tôi với đôi mắt trẻ thơ, xanh lơ, sáng láng.
Tôi ấp úng trong họng.
"Chẳng may, ít có khi," ngài nói tiếp, hơi phiền muộn. "Đặc biệt là phái nam, chẳng mấy ai đến chiêm bái Các Chặng Đường. Vì lý do ấy, cha thật vui và cha muốn gợi chuyện với con. Cha tin là con có một lời khấn đặc biệt nào đó, nên con mới đi sớm trong thời tiết này."
Vâng, đó là, cha hãy biến mau cho con nhờ, tôi nghĩ, gật đầu và bớt lo. Dường như ngài vẫn không thấy chùm hoa dưới áo. Cần phải ứng đối nhanh chóng để ngài không nhận ra.
Ngài lại mỉm cười với tôi. "Cha sắp sửa dâng lễ Misa. Cha sẽ cầu nguyện cho con."
"Cảm ơn Cha," tôi nói, ngạc nhiên và xấu hổ.
"Cho linh hồn của một người vừa quá vãng, phải không?" ngài hỏi.
Tôi chầm chập nhìn ngài trong giây lát, và chùm hoa tuột dần xuống. "Không ạ," tôi nói nhanh, ép chặt tay vào thân áo khoác.
Đôi mắt xanh trong vắt của ngài ngây thơ, nhìn thẳng mặt tôi, cố tìm hiểu. Rõ ràng ngài muốn nghe một lời tâm sự. Nhưng ngay lúc ấy, tôi thấy không có điều gì thích hợp để kể cho ngài nghe, và ngoài ra, tôi không muốn nói dối với ngài, nếu không cần thiết. Nên tôi lặng thinh.
"Vậy Cha sẽ cầu nguyện cho một người nào đó đang cần giúp đỡ," cuối cùng ngài nói.
"Vâng ạ," tôi trả lời, "nếu Cha có thể làm điều ấy. Và con xin cám ơn Cha, thật nhiều."
Ngài mỉm cười. "Con không cần cám ơn Cha. Tất cả chúng ta đều nằm trong bàn tay Chúa." Ngài nhìn tôi một lát, đầu hơi nghiêng sang một bên, và như thể có một điều gì đó đang lướt qua mặt ngài. "Chỉ có sự phó thác," ngài nói. "Đức Thánh Cha sẽ cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp, dù cho đôi khi chúng ta không thể hiểu." Rồi ngài gật đầu với tôi và bỏ đi.
Tôi đưa mắt nhìn theo cho đến lúc tôi nghe tiếng cửa đóng sầm sau lưng ngài. Vâng, tôi nghĩ, nếu đơn giản có thế thì nói làm gì. Chúa cứu giúp. Ngài luôn luôn cứu giúp -- nhưng Ngài có cứu Bernhard Wiese không, khi anh ấy bị thương ở bụng, nắm kêu la ở cánh rừng Houthoulst? Ngài có cứu Katczinsky, đã gục ngã ở Handzaeme, để lại cô vợ bệnh hoạn và đứa con mà anh ấy chưa hề gặp mặt? Ngài có cứu thằng bé Friedmann và Jurgens và Berger và hàng triệu người nữa? Không, khốn nạn thật, đã có quá nhiều máu chảy trên thế gian vì thứ niềm tin như thế nơi Đức Thánh Cha.
Tôi mang hoa về nhà, rồi lái ra xưởng trả xe lại, đi bộ về. Mùi cà phê mới pha thơm ngào ngạt, và Frida lục đục trong bếp. Kỳ thật, nhưng mùi cà phê làm tôi khoan khoái hẳn lên. Tôi đã hiểu điều đó từ thời chiến tranh; một thứ có thể an ủi ta, không bao giờ to tát -- mà chính ra, nó thường là những điều nhỏ nhặt.
Tôi chưa kịp đóng cửa hành lang, Hasse đã ló ra khỏi phòng của anh. Mặt anh vàng và sưng, mắt đỏ quạch và có vẻ như anh đã để nguyên quần áo lên giường đêm qua. Khi thấy tôi, một nỗi thất vọng não nề hiện trên mặt anh.
"Ach, té ra là cậu," anh thì thào.
Tôi ngạc nhiên nhìn anh. "Giờ này mà anh trông ngóng ai vậy?"
"Vâng," anh nói khẻ, "nhà tôi. Cô ấy chưa về. Cậu có gặp nhà tôi ở đâu không?"
Tôi lắc đầu. "Tôi mới thức dậy chừng một giờ."
Anh gật đầu. "Tôi cứ nghĩ -- biết đâu cậu đã gặp nhà tôi ở đâu đó."
Tôi nhún vai. "Có lẽ chị ấy sắp về. Chị ấy không gọi điện thoại sao?"
Anh nhìn tôi, hơi thẹn. "Tối qua, nhà tôi đến nhà mấy người bạn. Tôi không biết họ ở đâu."
"Vậy anh biết tên những người ấy không? Nếu biết, anh có thể gọi tổng đài."
"Tôi đã gọi. Họ không biết tên đó."
Trông anh tiu nghĩu như một con chó phải đòn. "Nhà tôi luôn luôn giữ bí mật về những người đó; và nếu tôi gặng hỏi, nhà tôi sẽ đùng đùng nổi giận. Vì thế tôi đành làm lơ. Nhà tôi có được chỗ để lui tới, là tôi vui rồi. Nhà tôi cứ luôn mồm nói thế, chứ tôi có tức tối gì đâu."
"Có lẽ chị ấy chưa về," tôi nói. "Thật tình, tôi nghĩ chị ấy sắp về. Anh có hỏi các bệnh viện hay là bót cảnh sát chưa? Không bao giờ biết được."
Anh gật đầu. "Đã gọi khắp nơi. Chẳng ai biết."
"Vậy, trong trường hợp này, anh không cần lo lắng thái quá. Có lẽ chị ấy không khỏe nên nghĩ qua đêm ở nhà bạn. Những chuyện như thế cũng hay xảy ra. Chừng một hay hai giờ nữa, chị ấy sẽ lại có mặt ở nhà."
"Cậu nghĩ thế ư?'
Cửa bếp mở và Frida xuất hiện, bưng một cái khay. "Khay của ai vậy?" tôi hỏi.
"Của Fraulein Hollmann," bà ta trả lời, hơi cáu vì cái liếc mắt của tôi.
"Cô ấy đã dậy rồi à?
"Tất nhiên cô ấy đã dậy," Frida bốp chát, "nếu không, cô ấy đã không gọi điện thoại bảo tôi dọn điểm tâm."
"Chúa ban phước lành cho chị," tôi trả lời. "Nhiều buổi sáng, chị là một thiên thần toàn hảo, Frida ạ. Chị nghĩ, chị có thể dọn cà phê cho tôi ngay bây giờ không?"
Bà ta càu nhàu một câu gì đó rồi sảii bước trên hành lang, cái bàn tọa lắc qua lắc lại một cách miệt thị. Bà ta rất giỏi làm như vậy. Tôi chưa bao giờ thấy ai diễn đạt được nhiều tình cảm trên đó cho bằng.
Hasse vẫn chờ. Tôi chợt xấu hổ khi quay lại, nhìn thấy anh bên cạnh, cam chịu và yên lặng.
"Trong vài giờ nữa, nỗi khổ của anh sẽ biến mất," tôi nói, chìa tay cho anh.
Anh không cầm nó, mà nhìn tôi lạ lẫm. "Cậu nghĩ, ta có thể đi tìm cô ấy không?" anh hỏi nhẹ nhàng.
"Nhưng anh nào có biết chị ấy ở đâu?"
"Đành vậy, nhưng có lẽ, ta vẫn có thể đi tìm," anh lập lại. "Nếu chúng ta lấy tắc xi của cậu --tôi sẽ trả mọi chi phí, dĩ nhiên," anh hấp tấp nói.
"Không phải thế," tôi trả lời. "Vô vọng mà thôi. Chúng ta lái đi đâu? Chị ấy sẽ không có mặt ngoài đường giờ này."
"Tôi không biết,"anh nói, càng nhỏ nhẹ hơn. "Tôi chỉ nghĩ rằng, ta có thể thử."
Frida trở lại với cái khay trống. "Tôi phải đi đây," tôi nói, "và tôi nghĩ rằng anh lo âu một cách không cần thiết. Tuy tôi sẳn sàng giúp anh, nhưng Fraulein Hollmann sắp sửa đi xa, và tôi muốn được ở bên cạnh cô ấy hôm nay. Có thể đây là Chúa Nhật cuối cùng của cô ấy nơi đây. Xin anh hiểu, anh nhé?"
Anh gật đầu.
Anh làm tôi đau lòng, cách anh đứng đó, nhưng tôi nóng ruột muốn gặp Pat. "Nếu anh muốn đi ngay lúc này, dĩ nhiên anh có thể xuống nhà, gọi tắc xi," tôi nói tiếp, "nhưng tôi không khuyên anh làm vậy. Anh nên đợi thêm một lát --tôi sẽ gọi bạn tôi, Lenz, và cậu ấy sẽ đi tìm với anh."
Tôi có cảm giác là anh không nghe tôi.
"Sáng nay, cậu không thấy nhà tôi chứ?" anh thình lình hỏi.
"Không," tôi nói, hoang mang. "Nếu có, tôi đã nói cho anh biết tự nãy giờ."
Anh lại gật đầu và lơ đãng quay về phòng, không thốt một lời.
Pat đã vào phòng tôi và nhìn thấy chùm hoa. Nàng cười to khi trở lại. "Robby," nàng nói, "Nhưng mà, em vô tội. Frida vừa nói với em là hồng mới cắt, sáng sớm Chúa nhật, trong mùa này, phải có liên quan gì đó với chuyện trộm cắp. Bà ấy cũng bảo rằng các tiệm hoa trong vùng không có loại hồng này."
"Em muốn nghĩ sao thì nghĩ," tôi trả lời. "Điều chính yếu là chúng đem lại cho em một chút hạnh phúc."
"Hơn bao giờ hết, anh yêu. Anh phải mạo hiểm để lấy về cho em."
"Vâng, nguy hiểm lắm!" tôi nghĩ đến vị linh mục. "Nhưng sao em thức sớm thế?"
"Em không ngủ được nữa. Và ngoài ra, em nằm mơ. Chẳng tốt đẹp gì."
Tôi liếc nhìn nàng. Trông nàng mệt mỏi và quanh mắt xuất hiện những quầng thâm. "Em có mộng dữ từ khi nào?" tôi nói. "Anh tưởng đó mới là nghề của anh?"
Nàng lắc đầu. "Anh có thấy mùa thu đã về ngoài kia chăng?"
"Với chúng ta, cái đó gọi là hè muộn," tôi trả lời. "Sao vậy, hoa hồng vẫn nở. Anh chỉ thấy trời mưa."
"Trời mưa," nàng lập lại. "Mưa đã kéo dài quá lâu, anh yêu. Đôi khi thức giấc lúc nửa khuya, em cứ tưởng tượng rằng em bị chôn vùi dưới mưa."
"Ban đêm em phải qua phòng anh," tôi nói. "Rồi em sẽ không còn những ý nghĩ như thế. Ngược lại, thật dễ chịu khi ta có người bên cạnh và trời tối và mưa gió bên ngoài."
"Chắc thế," nàng trả lời, và dựa vào tôi.
"Anh lại thích mưa vào Chúa Nhật," tôi nói. "Như thế ta sẽ thấy ta may mắn biết bao. Chúng ta ở cạnh nhau, trong một căn phòng ấm cúng và có một ngày rỗi rảnh --theo anh như vậy là quá nhiều."
Nàng tươi nét mặt. "Vâng, chúng ta may mắn lắm, phải không?"
"Theo anh, chúng ta may mắn tuyệt trần. Khi anh nghĩ đến ngày xưa -- Chúa ơi! Anh không bao giờ nghĩ là anh sẽ có may mắn dường này."
"Anh thật đáng yêu khi nói thế. Vậy em cũng tin như anh. Anh cần nhắc lại nhiều lần."
"Anh không nói đủ hay sao?"
"Không."
"Có lẽ," tôi nói. "Anh tin là anh không đủ ngọt ngào âu yếm. Anh không biết tại sao, nhưng anh không thể. Tuy nhiên anh ước gì anh được như vậy."
"Không cần phải thế, anh yêu. Em hiểu con người của anh. Chỉ có điều, đôi khi ta muốn được nghe hoài những câu trìu mến."
"Từ nay trở đi anh sẽ nói, mỗi khi có dịp. Cho dù anh thấy mình kỳ cục."
"Ach, kỳ cục." nàng trả lời. "Trong tình yêu, không có gì kỳ cục."
"Không ư, cảm ơn Chúa," tôi nói. "Nếu không, chắc sẽ khủng khiếp lắm, khi nghĩ tới tình yêu sẽ biến đổi mình thành cái quái gì."
Chúng tôi cùng ăn điểm tâm, rồi Pat lại lên giường nằm. Jaffé đã ra lệnh như vậy. "Anh ở lại đây chứ?" nàng hỏi, dấu mình trong chăn.
"Nếu em muốn," tôi nói.
"Dĩ nhiên em muốn; nhưng anh không cần phải --"
Tôi ngồi xuống giường, bên cạnh nàng. "Anh không có ý đó. Anh chỉ muốn nói, anh nhớ có lần em bảo em không thích người khác nhìn em ngủ."
"Có lần, vâng -- nhưng bây giờ đôi khi em lại kinh sợ, khi một mình."
"Anh cũng từng nghĩ giống như vậy. Trong bịnh viện, sau khi giải phẫu. Ban đêm trước khi ngủ, anh thường hoảng sợ. Anh cố thức khuya, đọc, và suy nghĩ về một điều gì đó, và chỉ chợp mắt khi trời sắp sáng. Nhưng thời kỳ ấy đã qua."
Nàng áp má lên tay tôi. "Ta sợ ta sẽ không trở lại, Robby."
"Vâng," tôi nói, "nhưng ta sẽ trở lại, và giai đoạn ấy sẽ qua. Anh là bằng chứng. Ta luôn luôn trở lại -- dù không hẳn cùng một chỗ."
"Đúng thế," nàng trả lời, đã hơi buồn ngủ, mắt ríu lại. "Em cũng sợ giống y vậy. Nhưng anh sẽ chăm lo cho em, phải không?"
Nàng thở sâu hơn và hơi nghiêng mình qua một bên. Chỉ một phút sau nàng đã ngủ vùi.
Tôi ngồi cạnh cửa sổ và lại nhìn mưa rơi bên ngoài. Những chùm nước mưa xám quật vào ô kính, và ngôi nhà như một hòn đảo nhỏ cô lập trong phong cảnh thê lương bát ngát. Tôi thấy bồn chồn, vì hiếm khi Pat lại xuống tinh thần và buồn nản vào buổi sáng. Nhưng rồi tôi nhớ, chỉ mới vài ngày trước đây, nàng vẫn sống động vui tươi, và có lẽ khi nàng tỉnh dậy, mọi việc sẽ đổi khác. Tôi biết nàng nghĩ nhiều về căn bệnh của nàng, và tôi cũng biết, từ Jaffé, rằng bệnh của nàng không tiến triển khả quan -- nhưng tôi đã nhìn thấy quá nhiều cái chết trong đời, cho nên, bệnh hoạn với tôi vẫn là cuộc sống và hy vọng. Tôi biết người ta có thể chết vì bị thương -- nhưng vì lý do đó, tôi không thể tin rằng một chứng bệnh mà ta trông vẫn lành lặn bên ngoài, lại có thể gây nguy hiểm cho tính mạng. Do đó, tôi thường nhanh chóng vượt qua những nỗi buồn sầu.
Có tiếng gõ nhẹ. Tôi đi ra và mở cửa. Hasse đứng đó. Tôi đặt ngón tay lên môi và bước ra ngoài hành lang.
"Xin lỗi cậu," anh lắp bắp.
"Qua phòng tôi nhé," tôi nói và mở cửa phòng mình.
Hasse dừng lại ở ngạch cửa. Mặt anh teo tóp. Trắng như vôi. "Tôi chỉ muốn nói với cậu là không cần phải đi tìm nữa," anh nói, môi hầu như bất động.
"Được mà, mời anh vào," tôi nói. "Fraulein Hollmann đang ngủ, tôi có thì giờ."
Anh cầm trên tay một lá thư, trông anh như người bị trúng đạn nhưng cứ tưởng chỉ bị đánh mà thôi. "Cậu đọc đi, nếu cậu không ngại," anh nói, và đưa cho tôi lá thư.
"Anh uống cà phê chưa?" tôi hỏi.
Anh lắc đầu. "Đọc thư đi --"
Tôi ra khỏi phòng, yêu cầu Frida pha cà phê. Rồi tôi đọc thư. Thư của Frau Hasse, chỉ vỏn vẹn vài giòng. Thư báo cho anh biết là bà ta vẫn muốn hưởng thụ một chút gì của cuộc đời, cho nên sẽ không về nữa. Có một người hiểu bà ta nhiều hơn Hasse. Đừng nên làm điều gì cả, vô ích mà thôi; bà sẽ không trở lại trong bất cứ tình huống nào. Có lẽ như thế sẽ tốt hơn cho Hasse. Anh sẽ không phải lo lắng tiền lương thiếu đủ hay không. Bà ta đã đem theo vài món tư trang -- số còn lại, khi nào thuận tiện sẽ có người đến lấy.
Đó là một lá thư lời lẽ dứt khoát, lạnh nhạt như thư bàn chuyện làm ăn. Tôi gấp lá thư, trả lại Hasse. Anh nhìn tôi như thể mọi thứ đều phụ thuộc vào tôi.
"Tôi nên làm gì đây?" anh hỏi.
"Trước hết, uống cạn ly này rồi ăn một chút," tôi nói. "Chẳng ích gì nếu anh chạy đôn chạy đáo và hành hạ bản thân. Rồi ta sẽ suy nghĩ. Anh phải cố gắng giữ bình tĩnh, sau đó anh sẽ có quyết định đúng đắn nhất."
Anh ngoan ngoãn uống cạn ly. Tay anh run lẫy bẫy và anh không nuốt được một miếng thức ăn nào. "Tôi nên làm gì đây?"
"Chẳng làm gì," tôi nói. "Chờ thôi."
Anh làm một cử động.
"Vậy, anh muốn làm gì chứ?" tôi hỏi.
"Tôi không biết. Tôi không hiểu."
Tôi không nói. Rất khó nói gì với anh. Ta chỉ có thể an ủi; những việc còn lại, anh phải tự tìm tòi. Anh không yêu người đàn bà đó nữa, rõ ràng là thế-- nhưng anh đã quen sống với bà ta, và với một kế toán viên, thói quen có nhiều ý nghĩa còn hơn tình yêu.
Một lúc sau anh bắt đầu nói, rối rắm, lộn xộn, chúng tỏ anh đã xúc động biết bao. Rồi anh bắt đầu tự trách móc. Anh không đá động gì tới người vợ. Anh chỉ cố chứng minh rằng, tất cả tội lỗi là của anh.
"Hasse," tôi nói, "tất cả những gì anh nói đều vô lý. Trong những chuyện thế này, không ai có tội, cũng như không ai vô tội. Chị ấy bỏ anh, chứ anh có bỏ chị ấy đâu. Anh không cần tự oán trách."
"Ô, cần chứ," anh trả lời và nhìn đôi tay. "Tôi đã chẳng chu toàn."
"Cái gì?"
"Tôi chẳng chu toàn. Đáng trách, không chu toàn."
Tôi ngạc nhiên nhìn cái hình hài bé nhỏ tội nghiệp, ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành nhung đỏ.
"Hasse," tôi nói, khẽ khàng, "đó có thể là một lý do, nếu anh muốn, nhưng không phải là một lý do để phiền trách. Dù sao đi nữa, anh cũng đã chu cấp đầy đủ cho đến ngày hôm nay."
Anh lắc đầu quầy quậy. "Không, không, tôi đã làm cho nhà tôi phát điên vì nỗi sợ hãi bất tận của tôi trước viễn ảnh thất nghiệp. Và tôi chưa bao giờ chu cấp đầy đủ. Tôi đã cho cô ấy được cái gì? Không gì cả --"
Anh chìm lắng trong suy tư. Tôi đứng lên, lấy một chai cognac.
"Chúng ta uống với nhau nhé," tôi nói. "Đâu đã mất mát chi."
Anh ngẫng đầu.
"Đâu đã mất mát chi," tôi lập lại. "Chỉ mất mát nếu người ta chết."
Anh hấp tấp gật đầu và với tay đón ly rượu. Nhưng anh không uống mà đặt ly xuống bàn.
"Hôm qua, tôi được đề bạt lên chức thơ ký trưởng," anh nói nhẹ nhàng, "Kế toán trưởng kiêm thơ ký trưởng. Xếp báo cho tôi biết từ tối hôm qua. Tôi được thăng chức vì tôi đã làm việc quá giờ suốt mấy tháng nay. Họ sát nhập hai văn phòng. Người thư ký trưởng kia đã bị thôi việc. Tôi được lãnh thêm năm mươi marks." Anh nhìn tôi, tuyệt vọng. "Cậu có nghĩ là nhà tôi sẽ ở lại nếu biết tin này?"
"Không," tôi nói.
"Thêm năm mươi marks. Tôi có thể đưa số tiền ấy cho nhà tôi. Cô ấy có thể sắm sửa gì đó cho riêng mình. Tôi cũng có một ngàn hai trăm marks trong trương mục tiết kiệm. Dành dụm để làm gì đây? Tôi muốn để dành cho cô ấy, nhỡ khi có chuyện không may xảy ra với chúng tôi. Vậy mà bây giờ cô ấy lại bỏ đi, chỉ vì tôi quá tằn tiện."
Anh lại đăm đăm nhìn về trước. "Hasse," tôi nói, "tôi tin là chuyện ấy không ảnh hưởng như anh tưởng. Anh đừng nghĩ ngợi nhiều, chỉ thế thôi. Vài hôm nữa, anh sẽ bớt buồn. Khi ấy anh sẽ biết anh cần phải làm gì. Không chừng chị ấy sẽ trở về, tối nay hay sáng mai. Hẳn chị ấy cũng đang suy nghĩ nhiều như anh."
"Nhà tôi sẽ không bao giờ trở lại," anh trả lời.
"Làm sao anh biết."
"Giá như tôi có thể nói với cô ấy rằng tôi được lên lương và chúng tôi sẽ nghĩ hè và du lịch với tiền tiết kiệm --"
"Anh có thể nói với chị ấy được chứ. Làm sao chị ấy lại có thể đành đoạn không gặp anh một lần nữa."
Tôi ngạc nhiên vì dường như anh không nhận biết vai trò của người đàn ông kia trong tấn tuồng. Rõ ràng anh chưa đạt đến mức độ ấy, anh chỉ biết vợ anh bỏ đi -- những chuyện khác còn ẩn nấp sau một lớp sương mù. Tôi muốn nói với anh, trong một hai tuần nữa, không chừng anh lại vui hơn vì không còn vợ -- nhưng nếu bây giờ nói ra, khi anh đang đau đớn, tôi nghĩ, là tàn nhẫn một cách không cần thiết. Sự thật lúc nào cũng nghiệt ngã, làm sao vết thương lòng nào chịu được.
Tôi trò chuyện với anh một lúc -- chỉ một mình anh nói. Tôi không thể làm gì -- anh cứ quanh đi trở lại trong một vòng cùng quẫn, nhưng tôi có cảm giác anh đã bình tĩnh hơn một ít. Và anh uống một ly cognac. Rồi tôi nghe tiếng Pat gọi, từ phòng bên.

 

Báo cáo nội dung xấu