Mật Mã Maya - Chương 19 - Part 02
Chương 19
Chacal phá luật, liếc mắt dòm sang bên phải. Cách chúng tôi bốn sải tay, một thằng bé trần truồng quỳ khom mình trên những cánh hoa với tư thế của kẻ cầu xin, miệng nhoẻn nụ cười sung sướng nhưng hơi đờ đẫn, tôi đoán là do tác dụng của các loại ma túy dùng trước lúc hiến sinh. Thằng bé ít tuổi hơn Chacal, mặc dù bộ tóc cho thấy nó đã qua giai đoạn vỡ lòng cuối cùng, nghĩa là chính thức ở cùng tầm tuổi với anh ta. Có lẽ nó có cùng ngày sinh hoặc cùng ngày đặt tên, tuổi tính theo ngày này còn quan trọng hơn tuổi thật. Khuôn mặt nó chỉ hơi giống tôi, tức là giống nét mặt mà tôi nhớ là của Chacal qua những gì đã thấm vào ký ức tôi. Tôi thậm chí hình dung không được rõ lắm vì ở đây gương soi rất hiếm, nước thì được coi là thế giới của người chết nên nhìn chằm chặp vào là rất nguy hiểm, và Chacal cũng chỉ nhìn thấy bóng mình có vài lần. Tuy nhiên, những hình xăm trên mặt thằng bé giống chúng tôi, cũng những chấm nhỏ xíu tạo thành hai đường xoắn ốc chạy từ khóe miệng lên má, và nó cũng có một vết sẹo mới ngay phía trên hông, đúng chỗ Chacal có một vết sẹo lớn do bóng hông đập vào.
Đúng cái mình cần - tôi nghĩ - một bộ óc để cấy ghép mới. Tôi đoán đây là một người thế mạng khác. Người đã chết thay cho tôi trong cuộc săn hươu chỉ là người thế mạng giả. Đây mới là người thế mạng thật. Sao cũng được.
- Đây là khu vườn của ngươi,
Sân trước của ngươi,
Bếp lò của ngươi,
Cái võng của ngươi,
Đây!
Tất cả chúng ta đều không kính trọng ngươi, ruồng bỏ ngươi…
- Ờ… này, Chacal này? - tôi nghĩ, - tôi thấy sự lựa chọn khá rõ ràng. Nào, họ đã đóng gói hết đồ cho cậu rồi đấy. Nghe theo đi, anh bạn.
Anh ta không trả lời, nhưng dường như anh ta phập phồng xúc động, như cái lỗ hổng được bịt tạm trên chiếc máy bay đang giảm dần áp suất. Sên Xanh 3 rập rình tiến lại và quỳ xuống bên tay trái tôi, nom y như một đứa trẻ sơ sinh nặng cả trăm pound. Lão đưa một chiếc bình thuôn thuôn hình ống đựng thứ gì đó kề vào miệng chúng tôi, hoặc vì chúng tôi còn khát khô, hoặc vì Chacal không thể không tuân theo, chúng tôi uống cạn cái bình. ụa. Tôi đã được thưởng thức vài loại cốc-tai khó nuốt ở đây, nhưng cái này mới thực sự tởm lợm. Lúc đầu, nó chỉ nhàn nhạt thôi, như nước luộc thịt có vị sắt gỉ nhẹ, thêm một ít vẩn giống như lá lách bê xay nhỏ, nhưng khi nó trôi qua cổ họng, tôi lại thấy dư vị khe khé, ngầy ngậy. Nó gợi tôi nhớ đến thứ gì đó… ô, phải rồi, tôi nhớ ra rồi. Nó giống thứ nước mà hồi còn đi học, chúng tôi pha để lỡm thằng khác uống, gọi là nước “tua vít”, trộn rượu vốt-ca với dung dịch ma-giê hy-đrô-xít. Và lúc này tôi cảm tưởng như trong dạ dày có một miếng bọt biển khô đang thấm nước và phình to lên bằng quả bóng đá… không… quả bóng rổ… không, quả bóng bãi biển. Tôi nhớ chỗ cặn trong bình có màu xanh tím ngắt. Nước mạch nha lấy từ ngô chăng? Tiếp đó, Sên Xanh 3, một tay cầm một mẩu xương sống cá đuối, tay kia cầm hai chiếc chén nhỏ bằng đất sét, cúi về phía trước. Tôi cảm thấy những ngón tay mỏng mọng của lão véo vào dái tai tôi. Lão xiên mẩu xương vào dái tai tôi và rút ra đánh xoẹt một cái.
Hai tai chảy rất nhiều máu, chưa đầy một phút sau, hai chiếc chén đã đầy. Hai gã hầu trang phục quỳ xuống, mỗi tên cầm lấy một chiếc chén, dùng những miếng giẻ để tô, hay đúng hơn là bôi lem nhem người thằng bé thế mạng bằng máu của tôi. Khi nó đã được bôi đỏ khắp người và máu bắt đầu khô, chuyển sang màu nâu, họ quay sang tôi. Chacal kêu lên không thành tiếng trong đầu tôi: “không, không, không, không”. Mày xong rồi, - tôi nghĩ, - mày thành dĩ vãng rồi, bước đi thôi.
Trong lúc đó, hai gã hầu trang phục vẫn bận rộn với tôi. Họ đắp bột cầm máu lên dái tai tôi, lau chỗ máu dây trên ngực. Họ tháo phiến đá trang sức và sợi xích đá bóng hông, tháo những cái vòng tay mà họ vừa mới đeo vào, cởi bỏ bộ trang phục đội đầu, lột cái khố, tháo những chiếc nhẫn đeo ngón chân, tất tần tật. Khi tôi đã trần trụi, họ đeo tất cả những thứ ấy lên người thằng bé bất hạnh. Nó lảo đảo dưới ngần ấy sức nặng. Họ quay lại và dùng da cá mập tẩy những vết xăm hình xoắn ốc tượng trưng cho gia tộc trên má tôi. Họ giũa sạch những vết chai nổi cục của dân chơi bóng hông trên đầu gối và khuỷu tay tôi. Tôi xin đánh cuộc rằng nếu mắt tôi có màu sắc khác lạ hay có bất kỳ đặc điểm nào nổi bật chứng tỏ tôi là Chacal thì họ cũng sẽ móc nó ra. Đau quá. Bề ngoài tôi đã đổi khác.
Lúc này, Sên Xanh 3 đang nói chuyện với người thế mạng, giả giọng cha mẹ, ông bà, cụ kỵ và cả tổ tiên sáng lập ra họ nhà Chacal, tất cả những người mà anh ta mang họ, tất cả những người được cho là đang trú ngụ đâu đó trong khóm ổi gai hoặc trong dãy núi phía sau. Cứ mỗi lần đóng vai một người, lão ta lại kêu gọi Chacal về với họ.
- Đổi chác thế này có vẻ hợp lý đấy, - tôi nghĩ với Chacal, - nếu là tôi, tôi sẽ biến khỏi cái xác cũ này và chui vào thằng bé kia ngay.
Tôi liếc mắt theo dõi những tên hầu trang phục lột một mảng da khỏi ngực thằng bé thế mạng, giống hệt mảng da họ đã khâu lên ngực tôi. Sên Xanh 3 đưa họ vật gì đó, miệng vẫn không ngừng bài khấn. Đó là mảng da có xăm chữ mà họ đã lột khỏi ngực tôi trong buổi chơi trò săn hươu. Nó đã được thuộc nên dẻo và trong suốt. Tôi hơi bối rối vì tôi tưởng họ đã dùng mảng da ấy cho người thế mạng thứ nhất. Có lẽ họ đã làm giả được một cái để thay thế và đánh tráo. Hoặc có thể miếng da đó không còn được treo lên để trưng bày nữa. Họ đã mang nó về. Sao cũng được. Nói tóm lại, họ bắt đầu khâu nó lên ngực của thằng bé thế mạng, dùng một sợi chỉ bằng ruột súc vật nối vào đầu một chiếc gai dùng làm kim.
- K’aanic teech chaban, - Sên Xanh 3 nói. Đại khái là: “Đây là cơ hội cuối cùng của ngươi. Lão đặt một chiếc bát miệng loe rộng xuống chiếu, giữa hai đầu gối tôi và cầm lên một cái que chọc nôn - hay nói cho khoa học một tí là dụng cụ gây nôn - bằng ngọc bích chạm khắc tinh vi. Hay quá đấy, - tôi nghĩ. Xin mời ngài Chacal thật nôn ra nào. Lão kéo hàm dưới của tôi xuống - tôi hơi giật mình hoảng sợ vì nghĩ lão sẽ xé toác nó ra - và dùng tay kia của mình thọc cái que vào họng tôi.
Ặc…
Khoang họng mở, áp suất được giải phóng và tôi phun ra. Ba bãi nôn lỏng màu vàng chua lòm ọc ra qua cổ họng và trút xuống cái bát. Tôi tưởng mình bị lộn trái. Tôi đổ gục xuống chiếu. Mình toi rồi, - tôi nghĩ, - chúng giết cả mình nữa. Tôi liếc qua khóe mắt, thấy thằng bé thế mạng cầm cái bát và tu một hơi. Khi nó uống xong, họ đổ thêm một chén nước b’lache’ vào bát, khuấy đều và bắt nó uống tiếp. Bên kia suối, gã k’iik cao lớn đứng ở bìa rừng giơ một lưỡi rìu lớn đen sì bằng đá stê-a-tít, dọa chặt đổ gốc cây chứng sinh của Chacal.
- Tôi, Chacal dưới chân ngài, đang hạnh phúc trong dòng máu này, - thằng bé cất tiếng nghèn nghẹn ngay khi có thể nói được. Dĩ nhiên, nó đã được gà trước câu ấy, nhưng rõ ràng chính nó cũng rất tin tưởng. Đối với nó, đây là một vinh dự. Nói thế vẫn chưa thỏa đáng. Với nó, đây giống một lễ cưới hoàng gia và nó là công nương Diana Spencer.
Ừ, phải rồi, mày thật may mắn…
Khoan hẵng.
Chacal biến mất rồi.
Sự thực là thế. Tôi chỉ kịp nhận ra, anh ta đã biến mất.
Gã k’iik hạ lưỡi rìu xuống.
Tôi cảm thấy trống rỗng và trì độn, như thể, cùng với những thứ khác, tôi đã nôn ra vài mét ruột và hai phần ba số tế bào thần kinh trong não. Nhưng ít ra bây giờ nó cũng là cảm giác của chính tôi. Một tên hầu trang phục - bây giờ là một tên mới, không phải hạng tiện dân - thò tay vào một chiếc túi và bốc một nắm đầy lông trắng, tôi đoán là lông tơ đại bàng, rắc lên khắp cái xác ướt đẫm của tôi.
Năm vị khách danh dự, lần lượt từng người một tiến về phía Chacal mới, chào mừng anh ta rồi quay về chỗ. Sọ Đá Quý 2 là người cuối cùng. Ông ta chìa một bàn chân ra và Chacal mới chạm nhẹ vào phía dưới. Đó là một vinh dự đặc biệt. Sau khi quay về chiếu của mình, Sọ Đá Quý 2 cầm một chiếc vỏ ốc xà cừ chạm vân đỏ biểu tượng của thị tộc, đưa lên miệng thổi, dáng điệu hệt như Triton (vị thần sứ giả của đại dương trong thần thoại Hy Lạp). Âm thanh phát ra khe khẽ, ngập ngừng. Chúng tôi chờ đợi.
Có tiếng leng keng của những chiếc chuông đất nhỏ, tựa như lục lạc của thánh Lazarus (vị thánh bảo trợ cho những kẻ ăn mày. Họ thường dùng lục lạc để báo hiệu cho người đi đường về sự xuất hiện của mình, vì vậy “lục lạc của thánh Lazarus” là cách dùng để ám chỉ “lục lạc của ăn mày”), phía sau chúng tôi. Tôi không quay lại nhìn, nhưng gần như lập tức, một nacom Đại Bàng, tức là thầy tế chuyên lo việc dâng cúng của Sọ Đá Quý 2, xuất hiện, bước chân chậm rãi như thể hắn có toàn bộ thời gian trên đời. Da hắn bôi than đen nhẻm, hắn đội một vành khăn xếp đen, cắm mấy chiếc lông chim mèo (giống chim thuộc họ sẻ, gọi là chim mèo vì có tiếng kêu như mèo kêu) đen và chiếc mặt nạ hình mỏ chim khổng lồ cũng màu đen, tất cả khiến hắn nom như phiên bản độc ác của con vịt Daffy (nhân vật con vịt màu đen trong phim hoạt hình). Các tế bào thần kinh của Chacal không hề muốn nhìn thấy hay nghĩ đến hắn, nhưng tôi vẫn tìm được tên hắn: Kỳ Nhông 18. Hai thằng bé theo sau hắn - một cặp sinh đôi xấp xỉ tám hoặc chín tuổi, da cũng bôi than đen nhẻm như hắn.
- Bề trên, xin hãy cho con trở lại trong sạch, hãy ban cho con cái chết, - người thế mạng, hay tôi nên gọi là Chacal mới lầm rầm. Hai đứa trẻ phụ lễ đỡ thằng bé nằm duỗi dài xuống chiếu, giữ lấy hai tay, hai chân trong lúc tên thầy tế rạch một đường ngang bụng nó. Bàn tay cầm dao của hắn thọc qua vết cắt vào dưới khung xương, luồn lên trên, cắt đứt các cơ hoành và tách quả tim ra khỏi động mạch và tĩnh mạch chủ. Hắn loay hoay mất gần hai mươi giây, nhưng cuối cùng cũng kéo được quả tim ra - để con dao lại thay thế vị trí của nó - và đặt nó vào một đĩa cháo ngô. Đáng ra tôi không được nhìn, nhưng vì mọi người hình như đều quên bẵng mất tôi nên tôi cứ vừa nằm trên chiếu vừa hé một mắt quan sát. Hóa ra tim có thể tiếp tục đập thêm một lúc sau khi bị cắt rời khỏi cơ thể, và quả tim này thậm chí còn phun ra những bọt máu đỏ thêm những mười lăm nhịp nữa, sau đó thì chỉ phụt ra hơi, phát ra những tiếng phì phì và lặng dần. Tôi quan sát hai đứa trẻ phụ lễ khiêng Chacal mới đặt vào một cái sọt lớn, để nó nằm cuộn tròn trong tư thế của một con chó đang ngủ, buộc lại bằng bốn nút thòng lọng thắt rất phức tạp, tạo thành hình ký tự đọc là “bốn trăm lần của bốn trăm”, tượng trưng cho sự vĩnh hằng. Rõ ràng họ không muốn nó quay về. Trước khi hai đứa trẻ xong việc, Sên Xanh 3 đã đứng sẵn cạnh tôi, mắt nheo lại vì mặt trời chiếu vào, những vệt đất sét xanh lam tô trên người chảy ra vì nóng. Lão yêu cầu tôi hứa không cho ai biết cái tên bí mật mới của tôi, tức là tên của uay mới của tôi. Tôi hứa. Nếu có ai đó biết được tên thật bí mật của anh, hắn có thể dùng nó để nguyền rủa và anh sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng của bất cứ con quỷ nào mà hắn dùng để săn đuổi anh. Lão cuối xuống, thì thầm cái tên vào tai tôi - nó hãy còn đang chảy máu - và bảo tôi nhắc lại. Tôi ráng sức tuân theo nhưng thật khó mà nói được với cái miệng đầy không biết là máu hay bãi nôn, vì thế, tôi cố nuốt đi một phần và tên hầu trang phục mới lau nốt chỗ bị tràn ra cằm. Chắc Sên Xanh 3 nghĩ tôi đang cố trì hoãn nên lão bèn dùng khớp ngón tay cốc một phát vào cạnh đầu tôi và đẩy tên hầu lui lại. Tôi thì thầm cái tên. Lão bắt tôi nhắc lại hai lần nữa rồi đứng dậy, thông báo tên gọi công khai, tức tên thường gọi của tôi. Giống như hầu hết những cái tên liên quan đến súc vật khác, nó chẳng dính dáng gì đến uay của tôi:
- Thằn Lằn Chân Lùn 10, - lão ta tuyên bố. - Kết thúc.
Đồ ăn mày, - tôi nghĩ bụng. Tôi lúc nào cũng nhận được những cái tên củ chuối nhất. Mẹ nó chứ.
Sau lưng tôi, ai đó châm lửa đốt cái túp sậy. Tôi đoán là nó chỉ là thứ đồ dùng một lần. Tôi nhấc đầu lên và nhìn thấy hai thằng bé phụ lễ nhấc cái sọt lên vai và lên đường, theo sau là tốp phu vác trên vai tất cả những thứ lỉnh kỉnh khác. Cha của Chacal và vị bô lão cũng theo họ đi xuôi con đường về làng, tay rung lục lạc để đuổi tà ma. Tôi thấy lạc lõng. Sọ Đá Quý 2 cởi xích cho con diều hâu. Ban đầu, nó cứ đứng yên, vì vậy, ông ta xùy nó cho đến khi nó bực bội đập cánh bay lên, rúc vào đám cây.
37

Họ lôi tôi đi một chặng đường dài, lên dốc xuống đèo. Tôi vẫn còn yếu vì… hừ, vì tất cả mọi sự. Khi tôi ngủ thì họ khiêng tôi. Họ cho tôi uống nước ấm. Hun Xoc, người chỉ huy việc này, lấy từ tay nải riêng ra một tảng muối và cho tôi liếm. Lát sau, tôi nhận thấy người mình đang chuyển động theo lối hết sức kỳ cục. Mình đang đu đưa, - tôi nghĩ, - ở đầu một sợi dây, ý tôi là theo nghĩa đen ấy (Vì “ở đầu một sợi dây” còn có nghĩa bóng là “không thể chịu đựng được nữa”). Họ đang dòng dây thả tôi xuống ở tư thế nằm ngang như cái xà nhà, ra khỏi vùng ánh sáng, vào một khoảng không đầy những tiếng rì rầm và lách cách vang vọng, sực mùi sô-cô-la, mùi nước tiểu, mùi nhựa thông và mùi đá ẩm. Tối om. Những bàn tay đón lấy cái bọc, tháo sợi thừng ra, vác nó đi chừng bốn mươi bước, đặt xuống, lôi tôi từ trong đó ra và đặt nằm lên một đống vỏ bao ngô. Khi mắt đã quen với bóng tối, tôi phát hiện mình đang ở trong một cái hang rộng, sau tất cả những sự trói, buộc và nhốt mà tôi đã trải qua thì cái hang này lớn chẳng kém gì sân vận động Hyperbowl. Đống vỏ bao ngô nằm cạnh một cái hốc dùng làm nhà kho được chống bằng những cây gỗ tuyết tùng, bên trong chất hàng núi hạt ca-cao chưa tách vỏ, da hươu thuộc bốc mùi a-mô-ni-ắc tự nhiên, phía đối diện, cách rất xa, là một khoảng ánh sáng mặt trời màu xanh lục rọi xuống từ một khuôn cửa nham nhở rộng chừng ba mươi sải, dài năm mươi sải, chơm chởm những thứ mà thoạt nhiên tôi đoán là rễ cây trồi lên, nhưng sau mới biết là nhũ đá. Khoảng không trong hang chăng kín mít giàn giáo, cột chống, dây thừng, trụ tường và giá để phơi khô, nhưng đập vào mắt nhất là một cái thang dây, hẳn phải thuộc loại lớn nhất thế giới: khoảng sáu mươi súc gỗ, một chiều mười, một chiều hai mươi sải tay, được thắt chặt vào những sợi thừng bện dày. Cái thang được treo dựng đứng, nối từ phía bên này hang, nơi tôi đang nằm, lên mép xa của khuôn cửa. Năm người thợ gần như trần trụi leo trèo trên cái thang như thủy thủ trên dây cột buồm của một chiếc thuyền buồm thẳng đứng, chuyển xuống một cuộn da hươu chưa thuộc. Trong hang còn ít nhất ba mươi thợ khác, một vài người chắc đã nhìn tôi hết sức tò mò vì Hun Xoc - người vừa mới xuống tới nơi - quát họ quay trở lại làm việc. Họ xốc tôi đứng dậy, nhưng tôi vẫn phải cần hai người đỡ mới đi được, không phải vì tôi vẫn còn lẩy bẩy sau ngần ấy sự hành hạ vô ích, mà vì ý thức của Chacal đã biến mất nên tôi phải học lại cách điều khiển cơ thể mới này. Tệ hại nhất là tôi cứ quay sang phải mỗi lần muốn quay sang trái. Chúng tôi đi vòng qua một cái hõm hứng nước mưa tự nhiên dưới lòng hang, qua chỗ một tên đầu bếp vận quần áo đàn bà đang quăng bèn bẹt những chiếc bánh ngô dành cho bữa sáng lên ba phiến đá nhỏ trong bếp lò. Tôi đoán hắn là loại người mà các nhà nhân chủng học gọi là “berdache” (Thuật ngữ vay mược từ một từ trong tiếng Pháp có nghĩa là “đĩ đực”, mặc dù nó không được dùng với đúng nghĩa ấy.), một kẻ đồng tính có thể làm công việc của phụ nữ ở chỗ dành cho đàn ông. Một cái ống khói bằng đất sét nặn vươn lên từ nóc lò, chạy ngoằn nghoèo theo cạnh chiếc thang, dẫn ra ngoài khuôn cửa. Chúng tôi phải cúi khom người chui qua một cái giá trên phơi một đôi cò nhiệt đới mới làm thịt bị buộc túm cổ lại với nhau, cùng một xâu ngan Muscovy (Loài ngan có bướu ở mũi.) mới làm lông - bất chấp cái tên, chúng không hề đến từ Muscovy (Tức công quốc Muscovy, một công quốc thời trung cổ, đặt trung tâm tại Moscow, thủ đô nước Nga ngày nay.). Tôi nhớ ra là mình vẫn đang rất đói. Qua khu nhà bếp, đến một bục gỗ xây cao, nơi hai lão kế toán Đại Bàng già khọm, đầu quấn dải băng, đang ngồi đếm những hạt giống ngô và chuyển chúng cho mấy gã phụ việc, những người này bỏ chúng vào những chiếc túi làm bằng vỏ bao ngô và thắt chặt lại bằng chỉ màu. Những cuộn vải tráng cao su, những điếu xì gà to như quả thủy lôi năm mươi li được bó lại thành từng bó nằm chất đống trên các giá đựng hàng đan bằng liễu gai, cách xa các bức tường nhưng được cái ngoài tầm mưa hắt. Chả trách nhà Đại Bàng đã cai trị đô thị này được đến ba trăm năm, - tôi nghĩ, - những kẻ suốt ngày lo tích cóp và dự phòng.
Họ dẫn tôi ra khỏi phòng lớn, vào một con hẻm tối tăm, chạy chéo dẫn tới một hành lang phụ, nửa tự nhiên, nửa được đẽo gọt, với những cây nhũ đá nhọn hoắt được mài bớt sao cho vừa cách đầu người một khoảng và con đường dưới chân mấp mô, dốc lên chừng ba mươi độ. Trước khi ánh sáng hoàn toàn biến mất, những người dẫn đường cho tôi dừng lại giữa một căn phòng dạng như phòng chờ và gọi người hầu mang trang phục đến. Chúng tôi chờ đợi. Những gã hầu trang phục trình diện và chỉnh trang lại cho tôi. Ở đây, ít nhất anh cũng không phải tự làm vệ sinh. Hồi còn đi học, tôi đã từng hẹn hò một thời gian với một người phụ nữ Ấn Độ - cô ta từng là hoa hậu Ấn Độ, mặc dù tôi không mong các bạn tin điều này - và tôi hết sức kinh ngạc khi phát hiện ra cô ta chưa từng tự gội đầu lấy một lần trong đời. Và té ra, ở Ấn Độ, việc những người hầu có người hầu, và người hầu của người hầu cũng có người hầu không phải là chuyện gì hiếm gặp. Vì thế, ở đây, ngay cả một kẻ ra tù vào tội như tôi cũng có người phục sức riêng. Xong xuôi, họ xốc tôi đứng dậy và chúng tôi bước vào bóng tối hoàn toàn, mò đường đi nhờ một cái rãnh đục vào sàn đá vôi. Chúng tôi đi vòng vèo vào sâu trong núi. Quãng này kém thoáng khí hơn và mùi cũng khó chịu hơn. Tôi cảm giác bằng bàn chân rằng lối đi được đắp đất sét cho bằng phẳng. Con đường mở rộng ra thành một căn phòng hình chữ “L”, ánh sáng mặt trời chiếu vào nhờ nhờ. Bốn vách tường được đẽo thành các ngăn kệ, xếp kín những chiếc bình mộc, phía trên là hàng dãy tượng tổ tiên bằng đất sét, nom xấu xí và có vẻ như được nặn tùy hứng. Trên một ngăn kệ bày một dãy tượng phồn thực đẽo bằng gỗ, mô tả những lão già đầu thú sờ soạng các cô gái trẻ. Hình sau dâm dục hơn hình trước. Ái dà, ra là ở đây các vị cũng hư hỏng gớm nhỉ. Không phải mọi thứ thuộc về quá khứ đều vĩ đại. Người ta nghĩ thế chẳng qua vì hầu như chỉ có những điều tốt đẹp được lưu truyền lại, và chỉ khi có dịp tình cờ tất cả được “đóng gói” lại cùng một lúc, như ở Pompeii chẳng hạn, thì người ta mới nhận ra rằng gần như toàn bộ những gì thuộc về quá khứ đều rặt là một đống đồng nát. Và đây đúng là một thành phố dung tục. Một câu lạc bộ ban đêm của thời cổ…