Từng Thề Ước (Tập 2) - Chương 04 - Phần 1
Chương 4:
Đường trắc trở, tự
mình tìm lối [1]
Thiên Hạo đứng bên
ngoài điện, đôi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.
Y ngoảnh đầu, bắt gặp
A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn
nhau, nhưng ánh mắt nàng lạnh buốt như băng giá.
[1] Trích trong bài
Cửu ca – Sơn quỹ của Khuất Nguyên. (ND)
Xi Vưu đưa A Hành về
đến tận Triêu Vân phong. Nàng lưu luyến nhìn theo bóng hắn mãi tới khi
khuất dạng mới ngoảnh lại, liền trông thấy Đại ca và Tứ ca đang đứng
ngay sau lưng mình.
Xương Ý hỏi thẳng:
“Muội nhớ ra Xi Vưu rồi ư?”
A Hành đỏ mặt lúng
túng, nói không nên lời.
Đến lượt Thanh Dương
hỏi: “Tìm muội khắp nơi không thấy, Thiếu Hạo sợ xảy ra chuyện gì
bất trắc nên đã quay về Cao Tân rồi, muội vẫn định về Cao Tân đấy
chứ?”
A Hành vội đáp:
“Phải về chứ, mai muội về luôn.”
Thanh Dương thở phào
nhẹ nhõm, định nói thêm gì đó nhưng lại thôi, Xương Ý liền chen vào
hỏi: “Vậy muội và Xi Vưu…”
A Hành cúi đầu: “Tứ
ca, muội tự biết chuyện của mình mà.”
Xương Ý nghe nói gật
đầu, ôn tồn bảo: “Muội đến dập đầu từ biệt mẹ đi.”
Sau khi từ biệt Luy
Tổ, A Hành đem theo Liệt Dương rời khỏi Triêu Vân phong. Nàng vẫn chưa
vội về Ngũ Thần sơn ngay, mà đi thẳng đến Ngu uyên trước.
Hơn hai trăm năm trước,
tuy chẳng cây cối chim thú nào sinh sôi được ở Ngu uyên, nhưng ngoại vi
Ngu uyên vẫn có sông ngòi hồ ao, cây cối rậm rì, vậy mà từ khi một
con yêu quái vừa giống hổ vừa giống cáo tới đây tu hành, cả miền
này đã biến thành vùng đất chết, không nhú nổi cọng cỏ.
Chẳng rõ ai trồng,
chỉ biết ngoại vi Ngu uyên có một rừng đào, quanh năm xanh tươi mơn
mởn, không bao giờ héo khô, còn xua tan nắng hạn cho cả vùng. Mỗi khi
đến mùa hoa đào nở, con yêu quái đó đều hú lên thê thiết suốt đêm,
khiến trăm họ Thụ Sa quốc phải dựng tế đàn trong rừng đào tôn nó
làm Tệ Quân, cầu xin nó đừng gieo hạn hán cho Thụ Sa quốc.
Tệ Quốc ở Ngu uyên
ngày ngày tu luyện, sớm đã nhập Ma đạo từ lâu. Nhưng vì đủ thứ
nguyên nhân, những người biết chuyện đều không hẹn mà cùng giấu giếm
việc ở gần Ngu uyên có một con yêu quái đã thành ma.
Một con chim trắng
khổng lồ lướt qua bầu trời đêm, xông qua màn khói đen vần vũ phía
trên Ngu uyên, lượn quanh mấy vòng rồi đậu xuống vách đá tối thui.
A Hành từ trên lưng
bạch điểu chậm rãi bước xuống, cười nói: “Cảm ơn Liệt Dương.”
Chỉ trong nháy mắt,
bạch điểu đã biến thành một cậu nhỏ áo trắng chừng mười một mười
hai tuổi, dung mạo đẹp như ngọc, hai mắt xanh biếc, mái tóc dài chấm
eo, trắng toát.
Vạn vật đều coi Ngu
uyên là nỗi kinh hoàng nhưng A Hành và Liệt Dương lại chẳng hề sợ
hãi, chỉ mải lắng nghe từng tràng tiếng hú thê thiết từ xa vẳng
lại.
Khói đen mờ mịt tràn
lan khắp Ngu uyên, mênh mông chẳng thấy bến bờ, không một sinh vật nào
sống nổi trong làn khói độc ấy, nhưng Tệ Quân vẫn sống ở đó suốt
bao năm nay.
A Hành rơm rớm nước
mắt, quay sang bảo đứa nhỏ: “Liệt Dương, gọi nó về đi.”
Liệt Dương liền rít
lên một tiếng the thé chói tai, ngược hẳn với vẻ ngoài thanh tú xinh
xẻo.
Tệ Quân đang bay lòng
vòng giữa màn khói đen mịt mù, nghe thấy Liệt Dương gọi liền bối
rối ngưng bặt tiếng kêu. Lần theo tiếng rít của Liệt Dương, nó bay
thẳng về phía Đông, một hồi lâu mới thấy hai bóng người giữa làn
khói đen đặc, tỏa ra khí thức vừa quen vừa lạ.
Tệ Quân chần chừ
giảm bớt tốc độ, khụt khịt mũi đánh hơi như để xác định thật giả,
thình lình nó hú lên mừng rỡ, toan nhào tới, nhưng rồi lại phân vân.
Sống giữa Ngu uyên bao năm nay, nó chẳng còn là chú hồ ly đẹp đẽ
đáng yêu thuở xưa nữa, giờ đây cả người nó đều hôi rình tanh tưởi,
nanh chìa ra lởm chởm, gương mặt trở nên méo mó đáng sợ vô cùng.
Thấy A Tệ định lẩn
đi, Liệt Dương liền nhào tới, biến nguyên hình rồi đậu xuống vai nó,
vừa quang quác mắng mỏ vừa dang cánh đập lia lịa vào đầu nó.
A Tệ bị đánh đến
choáng váng đầu óc, quên khuấy ý định lẩn tránh, bèn ngoan ngoãn bay
đến trước mặt A Hành. Chợt nó ngượng ngùng co rúm người lại, như sợ
máu mủ tanh hôi trên người mình dây sang A Hành, gương mặt hung ác đầy
vẻ bồn chồn hồi hộp.
A Hành liền ngồi
thụp xuống, ôm chầm lấy nó.
“Bất kể mày là tiểu
yêu tinh A Tệ hay là ma thú Tệ Quân, dù biến thành thứ gì, mày vẫn
là tiểu hồ ly biết bay của ta.”
Bao đau khổ và cô
quạnh suốt hai trăm năm đợi chờ đằng đẵng đều tan biến theo một lời
này.
A Tệ dụi đầu vào
lòng A Hành, nước mắt lã chã.
“Sao mày lại đợi ở
Ngu uyên? Ai cũng bảo Hồ tộc thông minh, thế mà mày chẳng thừa hưởng
được tí gì cả? Ngốc ạ!” A Hành vuốt ve những vết thương chi chít
trên mình A Tệ, khóc nức lên.
Tuy A Tệ đã nhập ma,
dáng vẻ hung ác nhưng tâm tư vẫn rất đơn thuần, thấy A Hành đau lòng,
nó liền nghiêng đầu nhìn nàng, híp mắt lại thành hai vành trăng nhỏ
cong cong, ve vẩy cái đuôi xù, định chọc nàng cười.
A Hành vẫn rầu rầu,
A Tệ cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng đầu gầm lên với Liệt
Dương, bày ra ma tướng cực kỳ đáng sợ.
Liệt Dương bị bất
ngờ, sợ đến nhảy dựng cả lên, mặt mày tái mét.
A Tệ lấy làm đắc ý,
tựa vào người A Hành vênh mặt cười hăng hắc, ha ha ha, Liệt Dương cũng
biết sợ nó rồi!
Bị A Tệ hù dọa,
Liệt Dương nổi giận rít lên một tiếng rồi xông tới, khạc ra cả chuỗi
cầu lửa tấn công A Tệ, A Tệ lập tức co giò bỏ chạy, Liệt Dương đuổi
sát sau lưng, cả hai lại chí chóe nhau, hệt như mấy trăm năm trước.
Thấy cảnh tượng ấy,
A Hành nín khóc phá ra cười, đợi chúng nó giỡn chán chê, nàng bèn
gọi: “Lại đây, mình về Cao Tân đi.”
Liệt Dương trợn mắt,
nó vốn chẳng có thiện cảm với Thiếu Hạo, cũng chán ghét Cao Tân.
Chỉ riêng A Tệ mừng rỡ chạy lại với A Hành, miễn là được sống cùng
với A Hành và Liệt Dương thì ở đâu cũng thế cả.
Cuối tháng Bảy,
chính đương độ nắng chiếu sen hồng thấm vị riêng[1]. Cao Tân nhiều hồ
nhiều sen, dân chúng rất chuộng hoa sen, đi đến đâu cũng thấy bát ngát
lá xanh, hương thơm ngan ngát. Đã hai trăm năm không tiếp xúc với thế
nhân, A Hành bèn dắt theo A Tệ và Liệt Dương thong thả tản bộ giữa
đêm thanh, vừa thưởng thức phong cảnh nhân gian vừa tìm hiểu tình hình
Cao Tân hiện tại.
[1] Câu thơ trích trong
bài Sáng sớm rời chùa Tịnh Từ tiễn Lâm Tử Phương của Dương Vạn Lý
(1127 – 1206). (ND)
Nàng về gần đến Ngũ
Thần sơn, Thiếu Hạo nhận được tin báo liền tự mình ra đón, y cũng
chẳng nhắc tới chuyện Xi Vưu, chỉ hỏi thăm nàng đi đường có được
bình an.
A Hành ôm A Tệ hỏi
thẳng: “Chàng có thể tìm cách giúp bọn thiếp vào Thang cốc được
không? Thiếp muốn trị những vết loét vì ma khí xâm thực trên người
nó, mấy hôm nay đã tìm hái được vài loại thảo dược trong núi rồi,
chỉ cần thêm nước của Thang cốc nữa thôi.” Thang cốc là thánh địa
của Cao Tân, không dễ vào được, hơn nữa hiện giờ A Tệ lại bị coi là
ma vật.
Thiếu Hạo mau mắn
đáp: “Không vấn đề gì, vừa khéo bây giờ ta đang phụ mệnh phụ vương
canh giữ Thang cốc.”
A Hành kinh ngạc vô
cùng, Thang cốc là nơi hoang vắng ở cùng trời cuối đất, canh giữ
Thang cốc có khác nào lưu đày? Nhưng thấy Thiếu Hạo không định giải
thích, nàng cũng chẳng vặn hỏi nguyên do.
Giữa đêm khuya thanh
vắng, A Hành dẫn A Tệ tới thẳng Thang cốc.
Thang cốc là chốn
mặt trời lên, nguồn nước ở đây có thể nói là tinh khiết nhất trong
thiên hạ. A Tệ vừa bị nhúng xuống nước đã run lẩy bẩy vì đau, A
Hành và Liệt Dương phải mỗi người một bên ôm chặt lấy nó, A Hành
vừa dịu dàng hát cho nó nghe như như dỗ trẻ nít vừa nhỏ nhẹ: “A Tệ
ngoan nào, gắng chịu một chút, một chút nữa thôi là được mà.”
Mãi đến hết một
tuần trà, nàng mới cho phép A Tệ lên bờ. A Tệ đau đến lả cả ra,
Liệt Dương nhìn nhỏ người nhưng rất khỏe, liền vác A Tệ lên “hòn
đảo” do chín gốc phù tang chụm lại.
Thấy A Tệ run cầm
cập vì đau, Thiếu Hạo bèn đặt tay lên trán nó, cơn đau trên mình A Tệ
được năng lượng thủy linh nhu hòa xoa dịu, nó ngủ thiếp đi.
Liệt Dương thấy A Tệ
đã ổn bèn biến lại nguyên hình, rúc vào giữa đám lá gà gật ngủ.
A Hành xách một xô
tướng ăm ắp thuốc vừa sắc lại, bắt đầu bôi thuốc cho A Tệ.
Thiếu Hạo ngồi dưới
bóng trăng, lặng lẽ gảy đàn. Tiếng đàn dịu dàng như ru, dẫn dắt linh
lực trong mình A Tệ hấp thụ dược tính.
Bôi xong thuốc, A Hành
rửa sạch tay rồi ngồi xuống bên Thiếu Hạo. Thiếu Hạo mỉm cười, tiếp
tục gảy đàn.
Hoa phù tang đỏ rực
như từng ngọn đèn lồng lung linh đầy cành, Thiếu Hạo vận bạch y ngồi
dưới gốc cây, toát lên khí chất tao nhã vô song, đến nỗi ánh trăng
lạnh lẽo rọi xuống người y cũng trở nên ấm áp. Vậy mà con người
tài hoa xuất chúng, ý chí cao vời đó lại bị biếm đi tận cùng trời
cuối đất canh giữ Thang cốc.
A Hành khẽ hỏi:
“Thiếp nhớ hai trăm năm trước quan hệ giữa chàng và phụ vương đã có
phần dịu lại, sao giờ thành ra thế này? Chàng làm gì mà phụ vương
căm ghét chàng đến thế?”
Thiếu Hạo dừng tay
gảy đàn: “Sau khi nàng rớt xuống Ngu uyên, Hậu Thổ đánh Chúc Dung
trọng thương, Chúc Dung phải trốn vào cổ trận của Thần Nông. Dẹp
được chướng ngại vật lớn nhất, Xi Vưu bắt đầu thả sức làm theo ý
mình. Chắc nàng cũng nghe nói, hai trăm năm nay đã có mấy mươi gia tộc
bị hắn diệt môn chứ? Dưới chính sách tàn khốc của hắn, chế độ cũ
ở Thần Nông đã bị đánh đổ hoàn toàn. Thần Nông hiện giờ vô cùng
thịnh vượng, ai ai cũng phát huy được sở trường. Nhìn Thần Nông biến
đổi từng ngày, ta nhất thời nôn nóng, định dựa vào quân đội trong
tay, cưỡng chế thúc đẩy Cao Tân cải cách. Nào ngờ bọn Yến Long lại gièm
pha đơm đặt, khiến phụ vương đùng đùng nổi giận, cho rằng ta có lòng
soán vị, cấm ta can dự vào việc triều chính, còn sai đi trấn giữ
Thang cốc.”
“Chẳng phải Yến Long
đã mất một cánh tay rồi sao?”
“Hắn mất một cánh tay,
công lực suy giảm dần, nếu là người khác, hẳn cũng chẳng coi trọng
kẻ tàn phế quá nửa như vậy nữa, nhưng phụ vương ta xưa nay nặng tình,
lại càng thương Yến Long hơn cả khi xưa. Mấy năm gần đây, phụ vương
thường nói với chúng thần, ‘Trong tất cả các con, Yến Long giống ta
hồi trẻ nhất’, bọn họ hết thảy đều hiểu ý phụ vương.” Thiếu Hạo
thở dài, mặt buồn hiu hắt, “Tính tình phụ vương dịu dàng đa cảm,
thích xem mỹ nhân ca vũ, ham đọc thơ văn tài tử, quả thật ta không
giống với phụ vương, khiến ngài rất thất vọng. Thêm nữa, hẳn phụ
vương cũng biết Hiên Viên Bạt trong Thừa Hoa điện là giả nên chẳng coi
ta ra gì.”
“Chàng cam lòng trấn
giữ Thang cốc hoang vu này mãi mãi, đợi Yến Long đăng cơ ư?”
Thiếu Hạo khẽ cười,
“Đương nhiên không rồi, ngày Yến Long đăng cơ chẳng những là ngày chết
của ta, mà còn là ngày chết của cả Cao Tân tộc. Ta chết chỉ là
việc nhỏ, nhưng quyết không thể để Cao Tân diệt tộc được!”
“Vậy chàng tính…”
Nụ cười của Thiếu
Hạo thoáng vẻ lạnh lùng, “Ta định nhờ nàng giúp một việc.”
“Giúp việc gì cơ?”
“Cao Tân tộc đã có
lịch sử mấy vạn năm, trải qua Bàn Cổ đại đế đến giờ, chuyện tranh đấu
trong cung đình tiếp diễn liên miên nên thần khí nghiệm độc bao giờ
cũng sẵn, chẳng chất độc nào lọt lưới được. Có lẽ chỉ có Thần
Nông Thị nếm mọi loại cây cỏ, lấy thân thử độc mới có cách mà thôi.
Bởi vậy ta muốn nhờ nàng phối chế giùm ta một loại thuốc có thể
lọt qua mọi thần khí thẩm tra, không cần lấy mạng đối phương, chỉ
cần khiến hắn dần dần mệt mỏi ốm yếu, phải nằm liệt giường là
được.”
Hiểu ý Thiếu Hạo
muốn ép Tuấn Đế thoái vị, A Hành làm thinh không nói.
Thiếu Hạo nói tiếp:
“Ngũ Thần quân của phụ vương suốt ngàn năm nhàn hạ quen thân, chỉ còn
cái vỏ bề ngoài, kỳ thực bên trong đã mục ruỗng từ lâu, chẳng có
gì đáng ngại. Tuy Yến Long nắm hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, nhưng
Thanh Long bộ huyết mạch của ta mới là bộ tộc thiện chiến nhất trong
bốn bộ, nhờ Nặc Nại giúp sức, Hy Hòa bộ cũng hoàn toàn quy thuận
ta rồi. Nếu muốn phát động binh biến không phải là không được, có
điều ta chẳng muốn động vũ lực, bởi một khi binh biến xảy ra, đôi bên
sẽ phải trở mặt sống mái với nhau cho tới khi một trong hai phe chết
sạch mới thôi, như vậy dù ta có chấp nhận, những tướng quân theo ta
mưu phản há yên lòng được ư? A Hành, ta không muốn làm hại phụ vương,
đây chính là phương pháp vẹn cả đôi đàng đấy!”
Thiếu Hạo khẽ gảy
mấy dây đàn, ánh mắt thăm thẳm bi thương: “Hơn hai ngàn năm nay, lúc
nào phụ vương cũng nơm nớp đề phòng ta soán vị. Thật ra ta chưa hề
nghĩ tới chuyện đó, chỉ một lòng một dạ muốn phò tá phụ vương,
muốn làm một đứa con ngoan ngoãn, nào ngờ cuối cùng lại đến ngày
này, tất cả trở thành sự thật! Có lẽ các sử quan đời sau sẽ ghi
chép rằng ta là kẻ lòng lang dạ sói, nuôi chí làm phản, ủ mưu bao
năm mới hành sự. Nếu sau này ta có con trai cũng chẳng biết phải
giải thích thế nào với nó, có lẽ nó cũng vĩnh viễn không thể thông
cảm cho ta. A Hành, thật lòng ta không muốn đi đến bước này, nhưng ta
đã bị ép vào đường cùng rồi! Bọn Yên Long đẩy ta đến Thang cốc rồi
vẫn chưa chịu buông tha, mấy năm nay chúng ngày đêm nghĩ cách làm tan
rã Thanh Long bộ, nếu ta còn khoanh tay ngồi nhìn, những người một
lòng một dạ đi theo ta sẽ bị Yến Long hại chết hết, sau cùng cả ta
cũng không tránh khỏi cái chết!”
Nếu Thanh Long bộ tan
rã thì dù Nặc Nại muốn giúp Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ chắc chắn sẽ
không ủng hộ một tên vương tử cầm chắc thất bại, để tự bảo vệ
mình, bọn họ ắt sẽ quy thuận Yến Long. A Hành ngẫm nghĩ hồi lâu rồi
dịu giọng: “Thiếp hiểu tình cảm của chàng mà, thôi, để thiếp giúp
chàng!”
Dù cả thiên hạ không
dung thứ, chỉ cần một người hiểu cho mình thôi cũng đủ. Nghe được câu
nói này, nỗi đau thương trong lòng Thiếu Hạo cũng vơi đi nhiều, y bất
giác nắm chặt tay nàng, “A Hành, đa tạ nàng! Ta thật lòng nghĩ…”
A Hành khẽ rút tay
ra: “Chàng cần gì phải khách khí? Lẽ nào chàng quên giao ước giữa
chúng ta lúc mới kết hôn rồi ư? Chúng ta là đồng minh, hôm nay thiếp
giúp chàng, ngày sau chàng cũng phải giữ lời hứa của mình đấy.”
Thiếu Hạo vô cùng
thông minh, vừa nghe liền phát hiện A Hành đã nhớ ra mọi chuyện, cũng
hiểu ngay ý nàng, lòng cảm thấy vô cùng khó tả, nhưng y vẫn gắng
giữ vẻ thản nhiên, thu tay vào trong áo, hờ hững hỏi: “Nàng nhớ ra
tất cả rồi sao?”
“Ừm.” A Hành đỏ bừng
mặt, áy náy do dự hồi lâu, như thể nghĩ ngợi gì đó, “Thiếp…” Thấy A
Hành lúng túng, Thiếu Hạo liền mỉm cười, ôn tồn cắt lời nàng: “Ta
sẽ giữ lời. Trời sáng đến nơi rồi, nàng ở đây lâu không tiện đâu, mau
về nghĩ đi, để ta đi xem A Tệ thế nào.”
A Hành đi được một
quãng, chợt quay lại nhìn, dưới ánh trăng, Thiếu Hạo ngồi xuống xếp
bằng giữa rợp bóng hoa phù tang đỏ rực, đối mặt với bao la sóng
biếc, bạch y phất phơ trong gió, tiếng đàn mạnh mẽ như đẽo vàng cắt
ngọc, đầy hùng tâm tráng chí của kẻ sắp bước lên ngôi trị vì thiên
hạ, nhưng cũng dằng dặc cô đơn lạc lõng.
Theo lời Thiếu Hạo,
vương thất Cao Tân trải qua mấy vạn năm đấu đá lẫn nhau trong cung đình
đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, quy trình kiểm soát dược tính
vô cùng chặt chẽ hoàn chỉnh, muốn chế ra một loại độc dược có thể
lọt qua cửa thẩm tra lại chỉ vừa đủ khiến cho người ta ốm liệt thật
chẳng dễ chút nào. A Hành lôi Thần Nông Bản Thảo Kinh ra đọc từ đầu
đến cuối, từ cuối lên đầu, cuối cùng chỉ chế ra được một loại
thuốc tương đối phù hợp với yêu cầu của Thiếu Hạo.
Nàng giao thuốc cho y,
căn dặn: “Thuốc này chỉ có thể tạm coi là phù hợp với yêu cầu của
chàng thôi, thành phần chủ yếu lấy từ máu A Tệ, nó sẽ hủy hoại
linh lực của người trong Thần tộc từng chút một, giống như Ngu uyên
vậy, khiến người ta dần dần bải hoải toàn thân, hành động bất
tiện.”
Thiếu Hạo hỏi: “Có
thuốc giải không?”
“Nó không phải là
thuốc độc nên cũng không có giải dược. Chỉ cần ngừng hạ độc, dần
dần thân thể sẽ tự hồi phục, người khỏe khoắn trở lại. Ta chế ra
hai lọ, theo ý chàng.”
Thiếu Hạo cẩn thận
cất thuốc đi: “Cảm ơn nàng.”
“Chúng ta là đồng
minh, chỉ cần chàng nhớ giữ lời thề của mình là được.”
“Ta nhất định sẽ
nhớ!”
Dưới sự sắp xếp của
Thiếu Hạo, “bệnh tình” của A Hành bắt đầu thuyên giảm, mỗi lần thầy
thuốc trong cung tới thăm mạch đều có lời chúc mừng hai người, theo
đó, tin Đại vương tử phi đang khá dần lên cũng lan truyền khắp trong
ngoài cung.
Tuy Thiếu Hạo thất
thế nhưng A Hành vẫn là vương cơ duy nhất của Hiên Viên tộc, từ sau khi
nàng khỏe lại, thiếp mời dự đủ các tiệc bắt đầu tới tấp theo nhau
bay đến.
Nghĩ tới việc “Hiên
Viên Bạt” trước đây đã nằm liệt giường hai trăm năm, A Hành cũng không
dám ra vẻ khỏe như vâm ngay, hầu hết tiệc tùng nàng đều lấy cớ thân
thể còn yếu để từ chối, nhưng có những buổi tiệc không thể không đi,
bởi nàng nhất định phải chứng minh mình là Hiên Viên Bạt thật sự.
Thấy Tuấn Hậu tuyên
triệu mình vào cung gặp mặt, A Hành hiểu ngay mình sắp bị kiểm
chứng thân phận.
Nàng bèn trang điểm
lộng lẫy, lên xe đi bái kiến Tuấn Hậu.
Xe đến cửa điện thì
dừng lại, tên tùy tùng bên cạnh cười giải thích: “Vương tử phi vừa
khỏi bệnh, vốn dĩ nên cho xe thẳng tiến thẳng vào trong điện để vương
tử phi đỡ mệt, nhưng đây là quy củ, bề tôi đến cửa điện phải xuống
xe đi bộ, hiện giờ Tuấn Đế chỉ ban cho mình Nhị điện hạ được ngồi
xe vào tấn kiến thôi.”
Đám người hầu hạ
trong cung luôn là những kẻ giỏi xét mặt đón ý, mềm nắn rắn buông
nhất trên đời, A Hành lẽ nào không hiểu ý bọn chúng. Xem ra Tuấn Đế
rất căm ghét Thiếu Hạo, đến nỗi ghét lây sang cả con dâu. Nàng bèn
cười nhạt bước xuống xe: “Bao năm nay ta không đến thỉnh an mẫu hậu
được, quả thật chưa tròn đạo hiếu, xuống xe đi bộ vào là phải lẽ
thôi.”
Cả tòa cung điện
rộng mênh mông, choán gần hết ngọn núi, A Hành lại muốn chóng xong
nên rảo bước đi thật mau. Đến vườn Y Thanh, vẫn chưa thấy Tuấn Hậu ở
đó, chỉ nghe đám thị nữ bẩm: “Tuấn Hậu đang rửa mặt chải đầu, xin
vương tử phi đợi một lát.”
Cao Tân nằm về phía
Đông Nam, khí hậu ôn hòa, mùa đông ấm áp chẳng kém tiết xuân ở những
nước phương Bắc, còn mùa hạ lại nóng nực oi nồng. Tuy nhiên Ngũ Thần
sơn nằm giữa biển, gió biển thổi vào xua tan phần nào cái nóng nên
không tới nỗi nóng nực lắm, thêm vào đó, cung điện ở đây cũng được
thiết kế theo phong cách kiến trúc Cao Tân để tránh nóng.
Phỏng theo lối thiết
kế đó, khắp nơi trong vườn Y Thanh đều xum xuê cây cối, nhan nhản ao
hồ, hoặc thác nước, hoặc khe suối, quanh co uốn lượn, lăn tăn dập
dềnh, nhỏ thì không tới một thước, lớn thì đủ để chèo thuyền.
A Hành đợi đến phát
chán, trong thấy trong vườn không có ai, bèn men theo dòng suối lững
thững đi vào.
Càng đi sâu vào trong,
phong cảnh càng thêm đẹp, hai bên là suối chảy róc rách, thế núi uốn
lượn, trúc xanh tùng biếc, cây cối um tùm, dăm ba cánh hạc tiên lội
dưới suối kiếm ăn, dáng dấp tiêu sái, nhìn thấy A Hành cũng chẳng
hề hoảng hốt.
Sâu trong bờ nước là
một rừng trúc xanh biêng biếc, trùng trùng điệp điệp, thấp thoáng
bóng nam tử bạch y nửa nằm nửa ngồi tựa lưng vào tảng đá say sưa
ngủ, cuốn sách lụa phủ trên mặt. Dưới con suối cách đó không xa, hai
cặp uyên ương đang bơi qua bơi lại giỡn nước, quấn quýt sánh đôi, nhởn
nhơ thoải mái.
A Hành toan trở gót
quay lui nhưng chẳng kịp, nam tử kia đã tỉnh giấc nhỏm người dậy,
cuốn sách trên mặt rơi xuống để lộ dung mạo thanh nhã, khí độ xuất
trần, dưới bóng trúc mờ mờ, quang âm dào dạt, chẳng khác nào ẩn
giả trong núi.
Nhận ra Thiếu Hạo, A
Hành tươi cười tiến lại.
Nam tử kia lơ mơ hé
mắt nhìn, vẻ mặt bực bội ra mặt vì mất giấc mộng đẹp. Nhìn nghiêng
người này giống Thiếu Hạo như đúc, nhưng A Hành lập tức nhận ra ông
ta không phải Thiếu Hạo! Thiếu Hạo chưa bao giờ giận ra mặt, nhất
định cũng chẳng bao giờ bực bội vì những chuyện nhỏ thế này.
Nghe tiếng bước chân,
nam tử kia liền quay lại, tuy dung mạo người đó rất giống Thiếu Hạo
nhưng khí chất đôi bên khác hẳn nhau, nam tử này chỉ có vẻ dịu dàng
tình tứ như nước, thiếu nét cứng rắn trầm ổn tựa như núi của Thiếu
Hạo.
A Hành vội quỳ xuống
thỉnh an, “Phụ vương.”
Tuấn Đế nhìn nàng,
trầm ngâm một thoáng mới nhận ra, “Sao con lại đến đây?”
A Hành không biết
Tuấn Hậu triệu mình vào cung có việc gì nên chẳng dám nói bừa: “Nhi
thần tiến cung bái kiến mẫu hậu nhưng người đang bận việc, thấy phong
cảnh bên suối đẹp quá, nhi thần bèn tản bộ ngắm cảnh, nào ngờ lại
kinh động phụ vương, xin phụ vương xá tội.”
Tuấn Đế hỏi: “Cảnh
đẹp ư? Đẹp thế nào? Nếu con trả lời được thì miễn tội, bằng không
ta cũng trị luôn Thiếu Hạo tội bất kính, cùng với con.”
A Hành cười đáp: “Tâu
phụ vương, vườn này tên Y Thanh, chỉ riêng cái tên đã lột tả hết vẻ
đẹp của cảnh sắc nơi đây rồi. Quả là ‘gió nhẹ mưa phùn nào rát mặt,
ấm mềm vạt áo lúc oi nồng.’”
Tuấn Đế điềm đạm
nói: “Tên vườn này do ta đặt, con đã thích nơi này, ta sẽ dẫn con đi
dạo một vòng. Bốn chữ ‘gió nhẹ mưa phùn’ thoạt nghe rất đơn giản
nhưng người thật sự hiểu được chẳng có mấy ai, con người ta có khi
nào chịu bình thản tĩnh tâm mà thưởng thức cảnh sắc đâu.”
A Hành theo Tuấn Đế
cùng tản bộ ngắm cảnh, vừa đi Tuấn Đế vừa chỉ cảnh trí, giảng
giải cho nàng nghe hết lai lịch từng hòn đá khóm hoa nơi đây. Từ nhỏ,
nàng lớn lên cùng vị Tứ ca thông hiểu thơ từ ca múa, chim cá lá hoa,
nên mấy thú chơi đó nàng cũng chẳng kém ai, về sau lại học được
Thần Nông Bản Thảo Kinh, cực kỳ tinh thông các loại hoa thơm cỏ lạ,
đôi bên càng thảo luận, nàng càng hợp chuyện với Tuấn Đế, khiến ông
mừng như bắt được tri âm.
Đột nhiên Tuấn Đế
bất ngờ hỏi: “Sao con bệnh suốt hai trăm năm thế?”
Vấn đề này Thiếu
Hạo đã dặn nàng kỹ cách trả lời, nhưng giờ đây, đối diện với con
người ôn tồn hòa nhã, chẳng hề giống một vị đế vương, A Hành lại
không sao nói nên câu được. Im lặng càng lâu, nàng càng lúng túng
chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải, lý do mà Thiếu Hạo
sắp sẵn cũng không thể áp dụng được nữa, A Hành cứ bồn chồn bứt
rứt nghĩ cách đến nỗi lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.
Thấy nàng không trả
lời, Tuấn Đế chẳng những không bắt lỗi mà ngược lại còn tỏ ra vui
mừng, mỉm cười nói: “Cũng nực cười thật, vương thất Cao Tân xưa nay
xem trọng lễ nghi, ưa thích những thứ đẹp đẽ thanh tao, ta lại là nhân
tài kiệt xuất trong số đó, từ nhỏ đã lấy làm tự phụ về dung mạo
tài hoa của mình, bất luận một khóm hoa hay một người con gái đều
yêu cầu phải thật hoàn mỹ, thậm chí còn xem mặt đặt tên quần thần,
ưu ái những kẻ bề ngoài xuất chúng, lời nói lịch thiệp. Trong tất
cả các con trai, ngoại hình Thiếu Hạo giống ta nhất, vừa ra đời lại
mất mẹ nên ta luôn yêu thương nó, giữ nó bên mình, gần như cầm tay chỉ
dạy cho nó mọi thứ, tiếc rằng càng lớn nó càng trở nên xa lạ. Con
với nó…” Tuấn Đế lắc đầu, “không hợp nhau chút nào.”

