Không kịp nói yêu em - Phần II - Chương 22
Vì đã vào đông, chiến sự càng ngày càng cấp bách.
Thừa quân tuy đánh đến thành Càn Bình, nhưng vì chính phủ nước ngoài ra mặt,
nên không thể không tạm đình chiến, chỉ bao vây Càn Bình, cuộc điều đình do
chính phủ nước ngoài bắt đầu đàm phán. Vì nước bạn chuyển qua ủng hộ chính phủ
Xương Nghiệp, nên Mộ Dung Phong rất đau đầu, tình hình đàm phán cũng bị mắc ở
đó. Tuy Càn Bình đã nắm trong tay, nhưng vì chịu sự kìm hãm trong ngoài, Thừa
quân không thể động đậy được. Không chỉ tuyến Nam, chiến sự giữa tuyến Bắc và
nước Nga cũng vì có một số nước uy hiếp phải liên quân, không thể không kiêng
kỵ vài phần.
Cho nên không chỉ Mộ Dung Phong, ngay cả đám trợ lý
cũng rất sốt ruột, hôm đó sau khi cuộc họp kết thúc, các thư ký ai cũng bận
rộn, chỉ có Hà Tự An và Chu Cử Luân chưa đi. Mộ Dung Phong vốn không thích ngồi
lâu, lúc này nửa ngồi nửa nằm trên sofa, gác chân lên bàn trà hút thuốc, điếu
thuốc hút chưa được một nửa đã vứt đi, lúc sau lại châm một điếu khác, lúc sau
lại dúi vào chiếc gạt tàn thủy tinh, trong đó đã chứa đầy đầu mẩu thuốc lá.
Hà Tự An ho một tiếng nói: “Cậu Sáu, Tự An có mấy
câu, không biết nên nói hay không?”.
Mộ Dung Phong nói: “Tôi thấy mấy hôm nay cậu cứ ấp a
ấp úng, rốt cuộc có chuyện gì?”.
Hà Tự An nói: “Bây giờ tình hình tuy không xấu lắm,
nhưng cứ mắc kẹt thế này quả thật sẽ bất lợi cho chúng ta. Cho dù giành được
Càn Bình, đại cục vẫn phải nghe theo sự sắp đặt của chính phủ Xương Nghiệp, quả
thật rất vô vị.
Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, nói: “Nội các Xương
Nghiệp do Lý Trọng Niên nắm giữ, cái tên đó có thù với chúng ta đã lâu, bây giờ
chắc đang cười trên nỗi đau của người khác”. Trong lòng anh phiền não, cứ dùng
chân đá mấy cái chụp bằng sa tanh thêu hoa trắng trên bàn trà, đôi giày quân
đội bằng da trên chân anh đã bị sa tanh chà sáng bóng, đám chụp bằng sa tanh đã
bị nhuốm vết bẩn lớn, biến thành màu nâu đất. Chu Cử Luân là một người nghiện
thuốc, chỉ ngồi bên hút thuốc, không hề nói gì.
Hà Tự An nói: “Nội các tuy là của Lý Trọng Niên,
nhưng không nắm tiền và lương thực, hắn ta cũng khó mà đi được một bước. Nếu
Trình gia Ứng Nam chịu ủng hộ Cậu Sáu, không chỉ nguy cơ trước mắt được giải
quyết mà đại sự sau này càng xuôi chèo mát mái”.
Mộ Dung Phong vốn đã buồn phiền, đá mạnh vào bàn
trà, phát ra tiếng “lạch cạch”: “Đừng vòng vo, cậu có cách gì hả, thuyết phục
Trình Doãn Chi ủng hộ tôi?”.
Hà Tự An hơi nhướn người về phía trước, trong mắt
thấp thoáng tia nhìn kỳ lạ: “Cậu Sáu, Trình gia có một tiểu thư khuê nữ, nghe
nói tuy từ nhỏ lớn lên ở nước ngoài, nhưng nhân phẩm tướng mạo đều rất xuất sắc,
hơn nữa rất có tài, Trình gia có bốn anh em, Trình Doãn Chi gọi vị tiểu thư trẻ
tuổi tài năng này là Trình gia nhất kiệt...”.
Hà Tự An còn chưa nói xong, đã thấy ánh mắt Mộ Dung
Phong sắc nhọn, như băng như tuyết phóng tới, anh ta không hề chần chừ, nói
tiếp: “Cậu Sáu, kết thông gia là cách nhanh gọn nhất hiện giờ, nếu kết thông
gia với Trình gia, thiên hạ này không phải đều thuộc về Cậu Sáu sao?”.
Khóe miệng Mộ Dung Phong hơi chùng xuống: “Nếu Mộ
Dung Phong tôi tiến thân nhờ phụ nữ, không phải sẽ khiến thiên hạ chê cười
sao?”.
Giọng điệu anh đã cực kỳ gay gắt, Hà Tự An không hề
do dự chút nào: “Đây là kế sách tạm thời, đại trượng phu thức thời mới là tuấn
kiệt, Cậu Sáu xưa nay không phải là người bảo thủ, hôm nay sao lại nói vậy?”.
Mộ Dung Phong im lặng một lúc, cười lạnh một tiếng:
“Kế sách tạm thời, không phải là cậu giấu đầu hở đuôi sao?”.
Hà Tự An nói: “Kẻ làm đại sự không câu nệ tiểu
tiết”.
Chỉ nghe “rầm” một tiếng, Mộ Dung Phong đá chiếc bàn
trà đi xa mấy tấc: “Đây là tiểu tiết sao, hôn nhân là chuyện đại sự, muốn tôi
lấy ra để giao dịch, không đời nào”.
Hà Tự An dù sao cũng trẻ tuổi, huống hồ xưa nay
chuyện công tư của Mộ Dung Phong đều hay tham gia, tuy thấy anh đang tức giận,
anh ta vẫn cứng đầu nói: “Cậu Sáu nói đây là giao dịch, không sai, là giao dịch
số một, cái đem ra giao dịch, chính là thiên hạ. Tình hình hiện nay tuy chúng
ta thắng chắc Dĩnh quân trận này, nhưng chiến tranh với Nga ở phía Bắc đã bị
siết chặt, chính phủ Xương Nghiệp của Lý Trọng Niên lại là chính phủ được quốc
tế công nhận hợp pháp. Cho dù giải quyết được chiến sự tuyến Bắc, Tống Thái Tổ
từng nói: “Cạnh giường của ta sao có thể để cho người khác ngủ?”. Chẳng lẽ Cậu
Sáu thật sự cam tâm chia giang sơn với chính phủ Xương Nghiệp? Nếu tiếp tục
dùng binh đối phó Xương Nghiệp, một là không có thời cơ mượn cớ hợp lý, khó
tránh khỏi miệng lưỡi bọn nước ngoài, có khi còn xảy ra biến cố. Hai là sau
trận chiến này, nhiều năm qua quân ta không đủ thực lực đối đầu với Xương
Nghiệp, về sau sao biết được cục diện thế nào? Ba là chiến tranh không tốt
lành, hiện nay trong và ngoài nước đều đang hô hào hòa bình, phản đối chiến
tranh, Cậu Sáu xưa nay yêu quân như con, có thể nhẫn tâm nhìn hàng vạn binh
lính lại lao vào biển lửa, chết ở sa trường sao?”. Hà Tự An nói một thôi một
hồi, dừng một lát lại nói: “Trình Doãn Chi là người thông minh, nhất định có
thể hiểu được nỗi khổ của Cậu Sáu. Cậu Sáu và Trình gia đều có thứ mình muốn,
làm sao Trình gia không chấp nhận chứ? Không mất một binh một tốt mà có thể
bình định Giang Nam, không gây chiến tranh, muôn dân thiên hạ còn gì may mắn
bằng?”
Mộ Dung Phong yên lặng không nói, Hà Tự An thấy anh
không nói gì, cảm thấy nắm chắc thêm mấy phần liền nói: “Trình tiểu thư xuất
thân cao quý, nhất định thông tình đạt lý, còn ở chỗ Doãn tiểu thư, thứ mất đi
chỉ là danh phận, sau này Cậu Sáu yêu thương cô ấy nhiều hơn một chút, Doãn
tiểu thư nhất định có thể hiểu được”.
Mộ Dung Phong cảm thấy huyệt Thái Dương giật giật,
càng lúc càng dữ dội, đầu đau như búa bổ, nói: “Tôi muốn nghỉ một lát”.
Hà Tự An đứng dậy nói: “Vậy Tự An cáo từ trước”.
Trong phòng chỉ bật một chiếc đèn điện, chút ánh
sáng xanh chiếu trong căn phòng rộng lớn, ghế sofa màu tím, trải nệm gấm rất
dầy, chiếc nệm gấm đó cũng màu hồng thêu kim tuyến, dưới ánh đèn nhợt nhạt màu
tím giống như máu đọng, ngay cả hoa văn kim tuyến rực rỡ như thế cũng giống như
một lớp bụi. Mộ Dung Phong vốn phiền lòng, mở hộp thuốc bằng bạc “cạch” một
tiếng, sau đó đóng lại, một lúc sau lại “cạch” một tiếng mở ra. Chu Cử Luân nãy
giờ không nói gì, lúc này vẫn ung dung hút thuốc, Mộ Dung Phong cuối cùng không
chịu được, vứt hộp thuốc lên bàn trà, khoanh tay đi lại mấy bước trong phòng.
Chu Cử Luân giờ mới chậm rãi gõ chiếc tẩu thuốc hai lần, nói: “Thiên hạ đã nắm
trong tay, sao Cậu Sáu lại do dự chứ?”
Vẻ mặt Mộ Dung Phong phức tạp khó đoán, dừng chân
đứng đó, rất lâu sau chỉ thở dài một tiếng.
Tĩnh Uyển xưa nay ham ngủ, hai ngày nay vì tinh thần
mệt mỏi cho nên chưa tới mười giờ đã lên giường nghỉ ngơi. Cô đang ngủ rất say,
bỗng mơ hồ thấy đôi môi ấm nóng áp lên môi mình, hơi thở phả trên cổ ngưa ngứa,
liền co mình lại: ‘Đừng đùa”.
Anh cứ hôn triền miên không chịu thôi, cô chỉ mơ
màng mở mắt ra: “Sao tối nay về sớm thế?”.
Mộ Dung Phong “ừ” một tiếng, dịu dàng nói: “Mai anh
không có việc gì, đưa em đi xem lá đỏ nhé? Nghe nói lá đỏ ở núi Nguyệt Hoàn đã
đổ hết rồi”.
Tĩnh Uyển cười nói: “Không có việc gì tự dưng ân cần
thế?”.
Anh cười ha ha, ôm cô vào lòng qua một lần chăn:
“Vậy anh nhất định sẽ nghĩ việc gì đó”.
Cô ngủ rất ấm, hai má ửng hồng, tuy trừng mắt nhìn
anh, nhưng ánh mắt lại lấp lánh như ánh đuốc, anh hôn cô say sưa, trong môi
miệng chỉ có sự ngọt ngào của cô, hơi thở cô dần dần rối loạn, đưa tay ra nắm
lấy tà áo anh. Cuối cùng anh bỏ cô ra, anh đã thay quần áo ngủ, tóc cũng hơi
rối. Anh rất ít khi bình tĩnh ôn hòa như thế, khiến cô có cảm giác yên bình kỳ
lạ. Anh chống người chăm chú quan sát cô, giống như mấy ngày liền không gặp,
lại giống như muốn nhìn kỹ xem cô có gì khác ngày thường hay không.
Chăn bông quá ấm, cô hơi nóng, trách móc nói: “Sao
nhìn người ta thế, như là muốn ăn thịt ấy. Hiếm khi về sớm thế này, ngủ sớm thì
hơn”.
Mộ Dung Phong cười: “Anh không quen ngủ sớm”.
Tĩnh Uyển đẩy anh: “Dù sao cũng kệ anh, em phải ngủ
rồi”.
Mộ Dung Phong nói: “Vậy anh cũng ngủ”.
Tĩnh Uyển cuốn chăn, nhưng không giữ được bị anh kéo
ra, cô “hừ” một tiếng: “Anh đắp chăn của anh ấy...”.
Những lời phía sau đều bị vùi trong nụ hôn nóng
bỏng. Anh kẹp chặt lấy cô, dường như muốn ép cô vào bản thân mình, cô hơi khó
thở, anh cắn lấy da thịt mềm mại của cô, tình cảm dường như bộc phát không thể
khống chế, anh làm cô đau, cô khẽ rên một tiếng, anh lại coi như không biết,
chỉ điên cuồng muốn nuốt gọn cô.
Đêm yên tĩnh đến cực điểm, có thể lờ mờ nghe thấy
tiếng bước chân cảnh vệ bên ngoài tường, xa xa vẳng lên một, hai tiếng chó sủa,
tiếng tích tắc nhỏ bên cạnh nghe quen thuộc mà gần gũi, lúc tỉnh dậy anh thẫn
thờ một lúc mới nhận ra, hóa ra là chiếc đồng hồ đó của mình. Sau khi đưa nó
cho cô, cô luôn đem theo bên người, cô đã quen đặt chiếc đồng hồ đó ở dưới gối,
anh muốn lấy ra xem giờ, nhưng lại chạm phải kim loại lạnh lẽo, hóa ra là khẩu
súng ngắn của mình. Anh đặt súng xuống dưới gối, đưa tay ra như thể vô tình
chạm vào tóc cô, trơn mượt mà thật dày, có mùi hoa nhài nhàn nhạt, là mùi hương
dầu gội đầu Paris.
Cô ngủ rất say, như một đứa trẻ vô tri, hơi thở đều
đều. Anh nhỏm người lên nhìn cô, chăn bông hơi tuột ra, lộ ra bờ vai trắng nõn,
mềm mại như ngọc. Anh chầm chậm hôn lên vai cô, cằm anh lún phún râu, chọc vào
khiến cô hơi động đậy, cô sợ ngứa nên sợ nhất là anh dùng râu chọc cô. Từ rất
xa truyền đến tiếng chim kêu lách chách, trời đã sắp sáng rồi.
Hôm nay anh không bận việc gì nên ngủ rất muộn mới
dậy, ăn trưa với Tĩnh Uyển xong liền đến núi Nguyệt Hoàn ngắm lá đỏ. Buổi sáng
trời vốn âm u, đến gần trưa màu trời vẫn ảm đạm như hoàng hôn. Trên núi chỉ có
một con đường đi, xe lái đến lưng chừng núi thì họ xuống xe. Gió trên núi rất
to, thổi thốc lông cổ chiếc áo da rái cá quét vào mặt cô, ngưa ngứa khiến cô
phải dùng tay để giữ. Cảnh vệ đã được bố trí vác súng đứng hai bên đường núi
ngoằn ngoèo, từ xa trông như những chấm đen nhạt nhòa.
Khắp núi lá đỏ đã chuyển sang màu đỏ ối, xung quanh
đều cháy lên như một ngọn lửa rực rỡ, lá cây phong và cây thích rơi đầy đất, lá
rụng tích thành một lớp dày trên mặt đường, giẫm lên êm ru, không phát ra tiếng
động. Anh nắm tay cô, hai người lặng lẽ đi về phía trước, các cảnh vệ đương
nhiên rất biết điều, chỉ theo sau từ xa. Một bên đường có một cây rẻ quạt rất
lớn, những chiếc lá rẻ quạt nhỏ, vàng rực rụng kín gốc cây, cô cúi xuống nhặt
một chiếc lá, cô ngẩng đầu lên nhìn ngọn cây chọc trời đó, xung quanh là một
trời lá đỏ, chỉ có mội cây rẻ quạt này lẻ loi lá vàng, bỗng nhiên ngẩn ngơ nói:
“Một cây to như vậy lại cô độc ở đây, thật đáng thương”.
Mộ Dung Phong vốn không cảm thấy gì, bỗng nghe cô
nói một câu như thế, chỉ thấy trong lòng như sóng động, anh quay mặt đi nhìn
lên núi: “Ở đó không phải có một ngôi miếu sao?”.
Tĩnh Uyển thấy một góc tường màu vàng nhạt ẩn hiện
sau thân cây, nói: “Hình như là một ngôi miếu, chúng ta đi xem xem”.
Tuy cô đi một đôi giày đế bằng nhưng đi một lúc đã
cảm thấy không nhấc nổi chân, cứ lê từng bước một, cảm thấy hai chân như nặng
ngàn cân. Anh thấy cô đi lại vất vả, nói: “Anh cõng em nhé”.
Cô quở trách nói: “Vậy ra cái gì chứ?”.
Anh cười nói: “Không phải Trư Bát Giới còn cõng cô
dâu sao?”.
Cô tươi cười hớn hở: “Anh còn thích làm Trư Bát Giới
à, em không cần anh đâu”.
Anh cũng không kìm được: “Em là đồ xấu xa, không chú
ý nói một câu liền bị em bắt được”.
Anh đã quỳ xuống: “Nào”.
Cô do dự một lát, cảnh vệ phía trước đã lên miếu,
cảnh vệ phía sau còn ở con đường núi phía dưới, trong rừng chỉ có tiếng chim
muông véo von, xa xa lờ mờ hình bóng cảnh vệ lướt qua, cô vốn ham vui, cười dựa
vào lưng anh, ôm lấy cổ anh.
Anh cõng cô lên từng bậc, những bậc thang lát đá
xanh uốn lượn từ trong rừng đi lên cao, cô ôm chặt lấy cổ anh, trên đầu là
những cây lá đỏ đỏ rực, vừa giống như vô số ngọn lửa cháy giữa không trung, lại
vừa giống như hoa mùa xuân, nở rực rỡ tươi thắm. Màu trời ảm đạm âm u, trông
như sắp mưa, những đám mây xám xịt như sắp ập xuống. Anh đi từng bước lên bậc
thang, mỗi bước đều hơi lắc lư, nhưng vai anh rộng phẳng, có thể để cô dựa dẫm
như thế.
Cô hỏi: “Trước đây anh từng cõng ai chưa?”.
Anh nói: “Chưa, hôm nay là lần đầu đấy”.
Cô ôm anh càng chặt hơn: “Vậy anh phải cõng em cả
đời”.
Cô ở phía sau không nhìn được vẻ mặt anh, anh đi
từng bước trên bậc đá, chắc khó đi hơn, cho nên giọng nói hơi kỳ lạ: “Được, anh
cõng em cả đời”.
Trên núi có một ngôi miếu Quan m, không hề có người
xuất gia làm trụ trì, chỉ có người trong núi mỗi dịp lễ tết đến thắp hương mà
thôi. Các cảnh vệ đã kiểm tra trong và ngoài miếu xong liền lui ra xa, anh nắm
tay cô vào miếu, bên trong tượng Bồ Tát tôn nghiêm, tuy nước sơn vàng đã bị
bong ra nhưng khuôn mặt từ bi của Bồ Tát vẫn vậy. Cô tiện tay lấy một cây hương,
cắm vào trong lư hương đá, thành khẩn vái ba vái.
Anh nói: “Không ngờ em còn tin cái này?”.
Mặt cô chợt đỏ bừng: “Em vốn không tin, bây giờ bỗng
hơi tin rồi”.
Anh hỏi: “Vậy em nguyện ước điều gì, đến lúc đó anh
còn đưa em đi trả nguyện”.
Mặt cô lại hơi đỏ: “Em không nói cho anh biết”.
Anh “Ồ” một tiếng, nói: “Vậy anh biết rồi, em nhất
định là cầu xin Bồ Tát phù hộ cho hai chúng ta”.
Mặt cô đỏ rần rần, lườm anh trách móc “Vậy anh cũng
nên vái lạy đi”.
Anh nói: “Anh không tin cái này, vái làm gì?”.
Cô kéo nhẹ gấu áo anh: “Thấy Phật thì vái, cũng là
điều nên làm”.
Hôm nay anh thật sự không nỡ làm phật ý cô, thấy cô
nói vậy liền quỳ xuống chiếc đệm bụi bặm, vừa cúi đầu xuống, liền thấy cô cũng
cúi đầu xuống vái, giọng cầu khấn tuy nhỏ nhưng truyền đến tai anh rất rõ ràng:
“Mong Bồ Tát phù hộ con và Bái Lâm không bao giờ rời xa”.
Bụi trên đất xộc lên. anh ho một tiếng, đưa tay ra
nắm lấy tay cô, tay cô mềm mại ấm áp, cô hỏi: “Anh sao thế, tay lạnh vậy? Bảo
anh mặc áo khoác lại không chịu, nhất định vứt ở trên xe.”
Anh nói: “Anh không lạnh”. Anh lại cúi người xuống
phủi bụi trên chiếc sườn xám của cô, rồi dứng dậy nói: “Đi thôi”.
Sau miếu là một khoảng sân lát đá xanh, mấy căn
phòng cho tăng ni đã xiêu vẹo từ lâu, vô cùng đổ nát, có một cây hoa cúc dại
trong khe hở dưới bậc thang đá, nở ra mấy bông hoa màu vàng nho nhỏ, lay động
trong gió, khiến người ta thấy thương xót. Vì gió lớn cô kéo chặt áo khoác, anh
ôm chặt lấy eo cô, chỉ nghe thấy gió ào ào, khí lạnh thấu xương. Cô không kìm
được dựa vào anh, anh ôm cô trong lòng, mùi tóc cô nhàn nhạt, lẩn vào áo anh.
Anh nói nhỏ: “Tĩnh Uyển, có một việc anh muốn thương lượng với em”.
Cô ngẩng đầu lên nhìn anh: “Việc gì thế”. Cảm thấy
hơi lạnh trên mặt, những bông tuyết đang lác đác rơi xuống, cô “a” lên một
tiếng: “Tuyết rơi rồi”.
Những bông tuyết lác đác bị gió cuốn đi tạt vào
người, anh khẽ hôn lên tóc cô, gió trong núi thổi mạnh, môi anh cũng lạnh buốt.
Anh nói: “Tình hình không tốt, đánh xong với Dĩnh quân, anh định tuyên chiến
với Xương Nghiệp”.
Cô “hả” một tiếng nho nhỏ, anh nói: “Em đừng lo, tuy
không nắm chắc nhưng anh rất có lòng tin, chỉ cần tuyến Bắc ổn định lại, Xương
Nghiệp chỉ là vấn đề sớm muộn”.
Cô biết rõ hoài bão của anh, tuy rất lo lắng, nhưng
không khuyên can, chỉ quay mặt đi nhìn tuyết lặng lẽ rơi xuống. Anh nói: “Trận
chiến này với Xương Nghiệp... Tĩnh Uyển... Anh muốn đưa em ra nước ngoài, đợi
tình hình ổn định lại, rồi đón em về”.
Cô không nghĩ ngợi gì nhiều: “Em không đi, em muốn ở
bên cạnh anh”.
Tay anh lạnh lẽo, gần như không chút ấm áp: “Tĩnh
Uyển, anh biết ý của em, nhưng anh không yên tâm. Em ở bên anh đương nhiên là
tốt, nhưng anh hy vọng em để anh yên tâm”.
Tuyết rơi dày thành tiếng, rơi càng lúc càng nhiều
trên cành lá cây, rơi vào mặt hơi đau đau, anh bỗng ôm lấy cô thật chặt. “Tĩnh
Uyển, em đồng ý với anh, cho anh chút thời gian, đợi tình hình ổn định lại, anh
lập tức đón em về”.
Trong lòng cô vạn phần không nỡ, biết rõ sự nguy
hiểm anh phải đối mặt sau này, nhưng có lẽ đúng như anh nói, mình ở trong quân
đội luôn khiến anh nhớ nhung, khi cô bình yên rồi, có lẽ sẽ khiến anh yên tâm.
Huống hồ... mặt cô lại hơi đỏ lên, nói: “Được rồi, vậy em về nhà”.
Anh mới hiểu ra “nhà” cô nói là chỉ nhà mình ở Thừa
Châu, thấy đôi mắt như nước hồ thu của cô đang nhìn mình, sự chân thật nồng
cháy trong ánh mắt như một con dao, chậm rãi từ từ róc anh ra, từng nhát, từng
nhát một. Anh gần như muốn trốn tránh ánh mắt đó: “Tĩnh Uyển, em về Thừa Châu
không tiện lắm... dù sao cũng chưa chính thức cưới hỏi, tình hình trong nhà em
cũng biết, anh không muốn em chịu ấm ức. Anh cho người đưa em đến Nhật Bản, đợi
tình hình ổn định, anh lập tức đi đón em về”.
Cô biết Mộ Dung phủ là gia đình kiểu cũ, quy tắc
nhiều thị phi cũng lắm, bản thân mình chưa chính thức cưới gả, đến Thừa Châu dù
sao cũng không tiện. Nếu sống ở bên ngoài thị phi càng nhiều, có lẽ tránh ở
nước ngoài lại tốt hơn. Nghĩ đi nghĩ lại, thấy anh chăm chú nhìn mình với vẻ
thương yêu vô hạn, dáng vẻ đó tham lam gần như muốn dùng ánh mắt khắc cô lại,
cô bản tính dịu dàng, không nỡ làm khó anh nữa, nói: ‘‘Được rồi, nhưng anh phải
đồng ý với em một việc”.
Tim anh thắt lại, buột miệng hỏi: “Việc gì?”.
Cô mỉm cười nói: “Hôm nay anh phải hát một bài cho
em nghe”.
Khóe miệng anh hơi cong lên, dáng vẻ đó giống như
mỉm cười, nhưng trong mắt lại ánh lên vẻ thê lương: “Anh không biết hát”.
Nơi mềm yếu nhất trong tim cô hơi đau đớn. Một con
người mạnh mẽ như anh, lại không che giấu được sự vô vọng của ly biệt trước
mắt, sau này vạn trùng hiểm nguy, việc bản thân cô có thể làm, cũng chỉ là để
anh yên tâm.
Cô gượng cười, lắc nhẹ cánh tay anh: “Em mặc kệ, hôm
nay anh phải hát một bài cho em nghe”.
Anh nghe tiếng tuyết rơi rả rích như gõ vào trong
tim mình. Chỉ thấy đôi mắt đen láy trong sáng của cô phản chiếu hình bóng của
mình, trong nụ cười tràn ngập sự say đắm, khiến anh nhớ đến rất lâu rất lâu
trước đây, vào cuối xuân cả vườn đều là cánh hoa bay, giống như tuyết, bệnh của
mẹ rất nghiêm trọng. Anh đi thăm bà, hôm đó tinh thần bà còn tốt, dưới cửa sổ
phía Nam vô số cánh hoa bay qua, từng bông từng đám tình cờ bay vào trong cửa
sổ, trong phòng sực mùi thuốc, chỉ nghe thấy mẹ ho vài tiếng, lúc đó bà đã rất
gầy, những ngón tay khẳng khiu, bà dịu dàng hỏi anh vài chuyện. Anh học được
một khúc nhạc từ mấy người cảnh vệ, hát cho bà nghe, bà tựa trên chiếc gối lớn,
cuời nghe anh hát hết bài, ai ngờ, đó là lần đầu tiên mẹ nghe anh hát, và cũng
là lần cuối cùng.
Đã nhiều năm như vậy anh không còn hát cho người
khác nghe nữa, anh nói: “Anh thật sự không biết hát”, cô lại không chịu buông
tha: “Em sắp đi rồi, ngay cả chút việc nhỏ này anh cũng không chịu đồng ý với
em?”.
Anh thấy cô tuy cười nhưng trong mắt vẫn là sự hoảng
hốt bất lực, cuối cùng anh mềm lòng, cười nói: “Em muốn anh hát, vậy anh sẽ
hát”.
Tuyết rơi càng lúc càng dày, trắng xóa như rắc muối,
bồng bềnh bồng bềnh, gió đem theo bông tuyết đập vào hai người. Anh ôm chặt lấy
cô, dường như muốn dùng hơi ấm của mình để che chắn gió lạnh cho cô, hát nhỏ
bên tai cô: “Ra khỏi Nghi Sơn có một con đường nhỏ, cây đào trồng đối diện cây
liễu. Chàng trồng cây đào nàng trồng liễu, cô gái nhỏ, cây đào không nở hoa cây
liễu nở hoa”.
Gió lạnh ù ù, xộc thẳng vào trong miệng, giọng anh
tan đi trong gió: “Nước sông dâng nhấn chìm mỏm đá, đứng trên đài cao trên đỉnh
mỏm đá. Đứng trên đài cao trông xa, cô gái nhỏ, cô gái nhỏ sao nàng không
đến...”
Trong tiếng gió, vô số bông tuyết đang rơi, như kết
thành một tấm rèm tuyết giữa trời đất, giọng anh dần dần nhỏ đi, anh cứ ôm chặt
lấy cô như thế, trong mắt Tĩnh Uyển ngấn lệ, cô nói: “Anh nhất định phải sớm
sai người đi đón em... đến lúc đó em...”. Câu nói nghẹn trong miệng, cuối cùng
không nỡ để anh lưu luyến hơn trước khi đi, cô chỉ nói: “Em đợi anh đến đón
em”.