19. Di hồn - Phần 01
Di hồn
Di hồn và mượn xác hoàn hồn cũng gần giống nhau, đều là di
chuyển linh hồn của người này vào thể xác của người khác, nhưng sự khác biệt giữa
chúng chính là có sự phân chia về tà, chính. Mượn xác hoàn hồn chính là đem
linh hồn của một người đã chết gửi vào thể xác của một người khác cũng đã chết,
còn cái gọi là di hồn, tức là đưa linh hồn của một người còn sống di chuyển vào
thể xác của một người đã chết, hoặc là đổi thể xác của hai linh hồn người sống,
mà bên chiếm thế chủ động, lại mang động cơ không những được lợi về mình mà còn
rất tà ác.
Mượn xác hoàn hồn vẫn luôn khoác trên mình cái áo là do quan
phủ sắp xếp hoặc cho tặng hợp pháp, mặc dù kết quả cuối cùng chưa chắc đã được
sự chấp nhận của pháp luật trên nhân gian, nó vẫn luôn chỉ là một vở kịch vui,
kém nhất cũng vẫn có tính chất hài hước. Nhưng di hồn thì không giống thế, người
thao tác nó là thuật sĩ và phù thủy, dùng thủ đoạn bí ẩn và nguy hiểm không thể
nhìn thấy người thực hiện để tiến hành một cuộc lừa đảo ngoạn mục với mục đích
là tính mệnh và tài sản, quá trình của nó rất kinh dị, kết cục luôn luôn là bi
thương.
Nhìn từ góc độ kỹ thuật của thầy phù thủy thì là “di hồn”,
nhưng mục đích cuối cùng là khiến nhân vận chính “dị hình”, vì vậy, kiểu phép
thuật này còn được gọi là “dị hình pháp”, dễ nghe hơn một chút thì gọi là “thủ
pháp mượn hình”, ngoài ra còn có những cách gọi như “thiết ngưu pháp”, có điều
không biết tên này xuất phát từ đâu.
Trong bút ký tôi đọc được tài liệu sớm nhất về thuật dị
hình, là một truyện trong quyển hạ, biệt tập Quý tân tạp chí do Chu Mật
viết:
Có vị đạo nhân mạnh khỏe họ Trần, thường xuyên qua lại với
một người tên Kiệt Tác, uống rượu nói chuyện. Kiệt hỏi đạo nhân sẽ làm gì, đạo
nhân trả lời: “Ta đang tìm khoảng mười bảy, mười tám thi thể nam nhân cường
tráng.” Một đêm, đột nhiên có Lưu Thái úy dùng roi đánh chết tiểu đồng, Kiệt được
mời đến lo ma chay. Đạo nhân cho thi thể đó vào trong chum nước nóng, lại cho cả
quần áo của mình vào trong đó, Kiệt Tác ngồi một bên, đạo nhân bắt đầu kết hợp.
Cho đến sáng, thi thể của đạo nhân cùng thi thể tiểu đồng sống lại.
Kiệt Tác là người lo việc tang lễ, chôn cất, tin tức tình
báo về thi thể trong thành phố, vì vậy vị lão đạo này muốn tìm được thi thể vừa
ý thì phải kết giao với Kiệt Tác, người làm trong ngành. Quá trình di hồn hoán
hình rất ung dung nhàn nhã, trong bồn nước, hai người ngồi đối diện với nhau,
nhìn từ bên ngoài vào, rõ ràng là cảnh sư đồ truyền đạo. Thậm chí còn có thể lý
tưởng hóa quá trình này hơn nữa, ví dụ nói thành tiểu đồng “bị tự nguyện” cống
hiến toàn bộ “cơ quan” của mình cho lão đạo, nhưng cách nói này có chút giống với
kiểu “chuyên gia” thời nay, không thích hợp với khả năng lý giải của những dân
đen kiểu tôi.
Chu Mật là người cuối thời Nam Tống và đầu thời Nguyên, trước
đó liệu có phải đã có những ghi chép về việc di hồn dị hình, chỉ giận là những
sách tôi đọc có hạn, còn chưa gặp được, nhưng không thể vì thế mà kết luận rằng
kiểu phép thuật này chưa từng xuất hiện sớm hơn. Nếu chúng ta mở rộng phạm vi lớn
hơn một chút, thì có thể coi Liệt tử là câu chuyện di chuyển trái tim
trong thời Ngụy - Tấn như một cách khác của di hồn dị hình. Bởi vì trái tim
trong đó đề cập đến bao gồm tất cả những gì mà linh hồn người này có, trên thực
tế thì là thông qua thủ đoạn y học để hoán hồn cho người ta. Liệt tử. Thang
vấn đại khái như sau:
Lỗ Công Hộ, Triệu Tề Anh, hai người này đều có bệnh, đồng thời
cùng đi mời Biển Thước[113] tới trị bệnh. Biển Thước chữa khỏi bệnh cho họ rồi,
lại nói với họ rằng: “Bệnh của hai vị là bệnh tạng phủ[114] từ ngoài xâm nhập
vào, dùng thuốc có thể chữa khỏi. Nhưng hai người vẫn mang bệnh tim bẩm sinh,
ngày một nặng hơn, và không có thuốc nào chữa được.” Sau đó nói tiếp: “Công Hộ
chí mạnh nhưng khí yếu, vì vậy có cơ mưu nhưng không dám quyết đoán. Tề Anh chí
yếu nhưng khí mạnh, vì vậy kém cỏi trong việc suy nghĩ nhưng lại quyết đoán. Nếu
hai người có thể đổi tim cho nhau, thì cả hai người ai cũng sẽ trở nên hoàn hảo
hơn.” Thế là Biển Thước cho hai người bọn họ uống rượu độc, mê man chết lâm
sàng ba ngày, phanh ngực tìm tim, đổi cho nhau, sau đó lại cho thần dược, hai
người sống lại như thường. Hai người bệnh cáo từ Biển Thước quay về, Công Hộ đi
thẳng đến nhà Tề Anh, coi vợ con Tề Anh như vợ con mình, nhưng bọn họ đương
nhiên không thể nào chấp nhận được một người lạ như thế. Ngược lại, Tề Anh cũng
vậy, coi nhà Công Hộ như nhà mình, và cũng bị đuổi ra ngoài. Hai nhà ồn ào một
trận, cuối cùng vẫn phải do Biển Thước đứng ra giải thích, mới coi là ổn thỏa.
Vợ của hai vị đó đành phải “đắc ý vong hình”, dần dần thích ứng với vị phu quân
lạ lẫm.
[113] Biển Thước được
mệnh danh là thần y của Trung Quốc. Tên thật là Tần Hoãn, tự Việt Nhân, vốn người
Châu Mạc, Bột Hải (nay là huyện Nhiệm Khâu, tỉnh Hà Bắc - thời Chiến Quốc thuộc
nước Triệu). Ông sinh khoảng năm 401 trước công nguyên, mất năm 310 trước công
nguyên, thọ hơn chín mươi tuổi.
[114] Tạng phủ: Đông y
gọi là vị (dạ dày), đảm (mật), đại tràng (ruột già), tiểu tràng (ruột non),
bàng quang (phủ).
Nhưng người cầm đao thực hiện thuật di hồn dị hình này không
phải là người trong cuộc muốn di hồn, thứ mà Biển Thước dùng cũng không phải là
tà thuật, chỉ là suy nghĩ của ông ấy với thuật di hồn dị hình xuất phát từ một
gốc như nhau mà thôi. Còn về việc câu chuyện này có phải xuất phát và được lưu
truyền trong nhân gian hay không, cũng không thể ngồi đó mà đoán mò được. Vấn đề
là ở chỗ, cho dù khi đó dân gian vẫn chưa có ma pháp di hồn, nhưng suy nghĩ tuyệt
vời của danh y Biển Thước và kinh nghiệm của việc mượn xác hoàn hồn, cũng có thể
là khởi nguồn của thuật phù thủy khai phá ma pháp này, càng quan trọng hơn là,
các hoàng đế Trung Quốc rất thích trải nghiệm những phương pháp để kéo dài tuổi
thọ, chỉ bằng cách luyện đan, bất luận là nội đan hay ngoại đan, thuốc gì cũng
dám uống, so sánh với phương pháp di hồn dị hình thì những phương pháp đó an
toàn hơn nhiều. Nhưng thiên cổ nhất đế cùng những người theo đuổi phương pháp
này không chịu thành lập dự án, kêu gọi sự hỗ trợ, ủng hộ, vẫn là vì thể xác của
những người quyền thế đó quá quan trọng đối với họ, đại diện cho địa vị của người
đứng trên hàng vạn vạn người, hai thứ quyền lợi và tiền bạc, thì ai cũng phải
công nhận đó là thứ quan trọng duy nhất trên thế giới. Bọn họ tuyệt đối không
dám mạo hiểm, thử nghĩ mà xem, nếu linh hồn của Sử Hoàng đế mà lại bị di chuyển
vào trong thể xác của Trần Thắng, Ngô Quảng, cho dù sống khỏe mạnh vạm vỡ,
nhưng Lý Tư, Triệu Cao còn có thể coi ông ta là hoàng đế hay không? Vì vậy, bọn
họ chỉ còn cách dùng bất tử đan, trường sinh dược, những thủ thuật trong phòng
the để duy trì sự “thanh xuân” cho vẻ bề ngoài, ít nhất là khiến người ta khi
nhìn cũng thấy thần sắc phơi phới, da dẻ hồng hào. Còn đối với những thuật sĩ
trên giang hồ, những đạo sĩ vườn mà nói, thì họ không phải lo lắng tới việc
này, thứ duy nhất mà họ mất chỉ là một lớp da cũ, còn họ lại có được tất cả những
gì họ muốn.
Trong Chí quái lục của Chúc Duẫn Minh người thời Minh
có ghi chép lại một câu chuyện xảy ra ở những năm cuối của thời Nguyên, đã trở
thành một phần khiến người thực hiện phép di hồn phải sợ hãi. Một người tên là
Diệp Tống Khả, đang trên đường đi đến Hoài Dương, gặp họa binh đao, thây chết đầy
đường. Trời đã tối, anh ta nghe thấy phía trước có tiếng động, không dám đi tiếp,
mà nằm bò dưới đất, trà trộn vào đám thi thể. Dưới ánh sáng của trăng chỉ thấy
có người đi lại gần, là một đạo sĩ, bên cạnh có một tiểu đồng cầm đuốc, quan
sát đám thi thể.
Phàm là đàn bà, người già, trẻ con, người ốm yếu bệnh tật
đều bị bỏ qua, dùng tay xách lên để ước lượng, sau đó lại đặt xuống như thả một
chiếc lá. Một người đàn ông tráng kiện chết vì đói, nằm đó. Đạo sĩ nhìn thấy liền
vui mừng, lập tức cởi áo ra, ôm thi thể đó trong lòng, miệng kề miệng hà khí
vào trong thi thể. Một lúc lâu sau, khí của đạo sĩ yếu dần, còn thi thể bắt đầu
cử động. Người chết đói đó, lại mở mắt ra, thản nhiên đứng dậy, mang theo tên
tiểu đồng cầm đuốc đi về phía trước, không biết đi đâu.
Giữa đêm khuya thanh vắng, nơi đồng không mông quạnh, nằm bò
lên trên thi thể, miệng đối miệng hà hơi không ngừng, cảnh tượng này không chỉ
khiến người ta phải nổi da gà, mà hình tượng xem ra cũng không được đẹp đẽ cho
lắm. Chuyện này sau đó đươc làm mới lại trong truyện Dị hình ở cuốn Trâm
Vân lâu tạp thuyết do Trần Thượng Cổ người đời Thanh viết, địa điểm đổi
thành huyện Gia Hưng, Sùng Đức ở tỉnh Chiết Giang, đạo sĩ biến thành người già,
và quá trình “dị hình” cũng được đổi từ thế nằm sang thế đứng.
Lật đi lật lại đám thi thể đó, những kẻ mất đầu bị bỏ
qua. Chỉ có một thi thể duy nhất là trông khá to lớn, ông già cởi trần, vực thi
thể đó đứng dậy, áp miệng mình vào miệng thi thể, sau một lúc hà hơi, ông lão dần
dần kiệt sức ngã xuống đất, thi thể từ từ có phản ứng, đột nhiên đứng thẳng
lên, áo mũ chỉnh tề, đi tiếp.
Đấy là một loại hình, dùng thi thể vẫn còn tươi mới để đổi
cho đối tượng, miệng người và miệng thi thể áp sát vào nhau, chính là dùng miệng
làm đường di chuyển linh hồn. Nhưng Trần Thượng Cổ còn kể về một loại hình
khác, tức là hai người sống đổi linh hồn cho nhau.
Đấy là chuyện xảy ra ở huyện Đông An, phủ Hoài An thời Sùng
Trinh. Trong một ngôi miếu, có một vị hòa thượng và đồ đệ của ông ta. Sư phụ
năm nay hơn năm mươi tuổi, còn đồ đệ mới chỉ hai mươi. Sư phụ có việc phải đến
Hải Dương, để đồ đệ ở lại trông miếu. Hôm ấy có một lão hòa thượng tới xin nghỉ
chân, tuổi tầm ngoài bảy mươi. Ngày hôm sau, lão hòa thượng bỏ tiền ra mời tiểu
hòa thượng ăn một bữa, sau đó nói: “Muốn tìm sư huynh mượn đồ, không biết ngươi
có đồng ý không?” Tiểu hòa thượng đáp: “Vậy thì phải đợi sư phụ tôi về hãy
hay.” Lại thêm một ngày nữa trôi qua, lão hòa thượng lại bày ra một bàn tiệc, tỏ
vẻ thành khẩn nài nỉ, tiểu hòa thượng nghĩ một lát, đại khái cảm thấy trong miếu
cũng chẳng có thứ đồ gì đáng tiền, cũng không hỏi kỹ, liền đồng ý, nhưng rốt cuộc
lão hòa thượng muốn mượn đồ gì, lão hòa thượng cũng không nói rõ. Đêm hôm đó,
hai người nằm cùng phòng, tiểu hòa thượng nghe thấy lão hòa thượng mở cửa đi ra
ngoài, cũng không quay lại, nên thấy rất lạ. Sáng sớm hôm sau, tiểu hòa thượng
vừa tỉnh dậy đã đi hỏi hàng xóm, không ngờ khi mọi người nhìn thấy hắn ta thì vẻ
mặt như chưa từng quen biết, hỏi: “Lão sư phụ từ đâu tới đây? Tới đây từ lúc
nào?” Tiểu hòa thượng đáp: “Tiểu tăng vốn là người ở miếu này”, mọi người đều
thất kinh kêu lên: “Không ngờ mới chỉ là một thiếu niên nhỏ, mà giờ đã thành ra
già nua thế này.” Tiểu hòa thượng vội vàng quay vào miếu soi gương, không ngờ
mình lại biến thành hình dạng của lão hòa thượng hơn bảy mươi tuổi. Cuối cùng
cũng không thắng nổi sinh lão bệnh tử, vài năm sau buồn sầu đau khổ mà chết.
Trong quyển mười một Chỉ vấn lục do Dung Nột - cư sĩ
người đời Thanh viết có truyện Đổi xác, tình tiết đại để cũng tương tự,
có điều địa điểm được rời đến Cám Châu, Giang Tây. Nhưng đoạn cuối cùng là, tiểu
hòa thượng phát hiện mình trở thành lão hòa thượng, trong lòng mặc dù biết rõ
chuyện gì đã xảy ra, nhưng ngoài miệng lại rất khó để nói cho rõ ràng, đành nhờ
người khác giúp hắn ta đi bắt lão hòa thượng kia. Người đó nói: “Chẳng phải ông
là lão hòa thượng hay sao?” Hắn đáp: “Không phải vậy. Lão hòa thượng tối qua
nói muốn nằm nhờ ở phòng tôi, tôi đồng ý, nhưng không ngờ ông ta không chỉ mượn
phòng, mà còn mượn cả cơ thể tôi. Giờ ông ta mang theo cơ thể tôi chạy mất, còn
vứt lại thân thể già nua của mình cho tôi. Tôi muốn tìm lại thân thể của mình,
và trả lại ông ta thân thể hiện tại.” Tất cả những vị hòa thượng khác càng nghe
càng thấy khó hiểu, đều cho rằng vì ông ta già quá nên hồ đồ. Vị hòa thượng này
cuối cùng đành đi cáo quan, huyện thái xuất thân từ tiến sĩ nên năng lực lý giải
cũng tốt hơn, sau khi nghe chuyện, lại nói là trên thế giới này làm gì có chuyện
kỳ lạ như thế, nếu ngươi còn ăn nói hồ đồ nữa, ta sẽ phán ngươi tội tuyên truyền
những lời mê tín dị đoan.

