04. Mất hồn
Mất hồn
Mất hồn, tục ngữ còn gọi là rơi mất hồn, việc này chỉ xảy ra
sau khi gặp chuyện gì quá kinh hãi. Cũng chính là muốn nói, con người sau khi gặp
phải chuyện kinh sợ, hoặc hồn lìa khỏi xác, hoặc ngẩn ngơ, hoặc hôn mê,... về mặt
y học thì cho rằng họ bị bệnh động kinh, còn dân gian thì lại cho rằng có
nguyên do khác, những người này bị như vậy là kết quả của việc mất hồn. Trong mắt
họ, linh hồn của con người giống như con ngựa bị động kinh, tuột dây cương nên
giằng chạy khỏi thể xác, và nhất thời không thể nào khôi phục được sự bình
tĩnh, chạy nhảy khắp nơi, không tìm được nơi về, thế là chỉ còn lại thể xác
không có linh hồn “đang ngờ nghệch” vì sợ hãi.
Nhưng đây chỉ là tình trạng hết sức bình thường, còn trong
những câu chuyện về thế giới u minh có rất nhiều những tình tiết không bình thường,
thậm chí là bất thường. Có câu chuyện kể rằng, con người mất linh hồn, thể xác
vẫn hoạt động bình thường, như trong U minh lục của Lưu Nghĩa Khánh đời
Nam Triều có ghi lại việc linh hồn của Thạch Thị Nữ bỏ nhà đến nhà tình nhân ở,
còn thể xác vẫn ở lại nhà cùng mẹ làm việc như mọi ngày, không có gì khác thường.
Cho đến khi hai người gặp nhau, linh hồn đột nhiên biến mất. Ghi chép trong Linh
quái Lục của Trương Tiến đời Đường, nội dung tương tự, thậm chí có phần
sinh động hơn:
Cuối năm Thiên Bảo, Trịnh Sinh ứng cử vào kinh, đi đến ngoại
ô phía tây của Trịnh Châu, ở trọ nhà một người, không ngờ người này lại chính
là bà cô họ của Trịnh Sinh. Hỏi ra mới biết Trịnh Sinh chưa lấy vợ, lão thái
thái nói: “Vừa hay cháu ngoại ta cũng đang ở đây, nó họ Liễu, cha hiện đang làm
huyện lệnh ở Hoài Dương. Ta thấy gia cảnh hai người rất môn đăng hộ đối.” Trịnh
Sinh không dám từ chối, tối hôm đó liền thành thân với Liễu Thị. Phu thê ân ái
qua mấy tháng, bà cô họ nói với Trịnh Sinh: “Cháu hãy đưa cô dâu mới của mình đến
Hoài Dương, nhận cha mẹ vợ đi.” Đến nhà họ Liễu ở Hoài Dương, Trịnh Sinh vừa
thông báo, cả nhà họ Liễu thất kinh, bởi con gái họ vẫn đang ở trong thâm khuê,
sao lại có thể đưa một chàng rể từ ngoài về được? Hai vợ chồng họ Liễu vội vàng
ra cửa xem sự tình, chỉ thấy cô nương ngồi trên xe giống hệt con gái mình. Cô
nương đó xuống xe, từ từ bước đến giữa đình, còn cô con gái trong đình nghe
tin, chỉ cười hi hi đi ra gặp mặt, hai cô gái gặp nhau giữa đình, liền hợp lại
thành một. Thì ra, lão thái thái là vong hồn ở dưới đất, ngôi nhà ở ngoại ô
phía tây Trịnh Châu là mộ của bà lão, người mà bà lão gả cho Trịnh Sinh chính
là linh hồn của cô cháu ngoại. Nhưng vị tiểu thư đang ngày đêm giam mình ở thâm
khuê, cũng vẫn sống bình thường, thiếu hồn nhưng cũng không có bộ dạng kỳ quái,
ngốc nghếch.
Nó giống như truyện Độc dị ký trong Vi Ẩn (quyển
358) Thái bình quảng ký (ngay sau Độc dị chí của Lý Cang)... Cũng
là sau khi hồn rời khỏi xác, mạnh ai nấy sống, cứ như có được thuật phân thân của
thần tiên vậy. Nhưng những câu chuyện này bỏ qua những kiến thức về việc hồn và
xác không thể tách rời, chỉ cần hai bên đều vui vẻ, lạ thì có lạ, nhưng thiếu
đi rất nhiều những tình tiết thú vị của các câu chuyện mất hồn, sau đời Đường
cũng không còn bắt gặp những câu chuyện kiểu này nữa.
Nguyên nhân cụ thể của việc mất hồn thì rất nhiều, cách thể
hiện cũng rất khác nhau, còn việc linh hồn thoát ra khỏi thể xác, chạy đi đâu,
làm những gì thì cũng có nhiều cách nói khác nhau, đồng thời cũng sản sinh ra rất
nhiều tình tiết kỳ quái làm đề tài bàn tán.
Chuyện thì kể rằng, có người sau khi ngã, cố gắng đứng dậy
được thì hồn đã rời khỏi xác. Trong Tử bất ngữ của Viên Mai, truyện Trang
Sinh, quyển mười lăm nói, Trang Sinh sau khi rời khỏi nhà Trần Thị, lúc đi
qua cầu trượt chân ngã, sau đó liền “vội vàng đứng dậy về nhà, gõ cửa thấy
không có ai trả lời, bèn quay lại nhà Trần Thị. Anh em Trần Thị vẫn đang vui vẻ,
thả bộ ở đình viện”. Những hành vi lúc này là của linh hồn rồi, còn thế giới mà
anh ta đang ngao du không còn giống ở nhân thế nữa. Anh ta nhìn thấy một vườn
hoa lớn, thì ra là vườn rau nhà chủ nhân. “Thấy một thai phụ đang ở cữ trong
đình nghỉ chân, gương mặt xinh đẹp, thì ra đấy là lợn mẹ đang sinh con trong
chuồng. Anh ta lại qua thư phòng, anh em Trần Thị đang đánh cờ, không để ý tới
anh ta, tự thấy buồn chán, liền tiến tới chêm vào vài câu, thấy mọi người lờ đi
như không nghe thấy, anh ta lại dùng tay vẽ lên bàn cờ, sắc mặt chủ nhân đột
nhiên hoảng hốt tột độ, như vừa nhìn thấy ma, vội vàng chạy vào phòng. Trang
Sinh cảm thấy buồn chán vô cùng, bèn quay về nhà. Đi đến đầu cầu, anh ta lại
trượt chân ngã. Đứng dậy, đi về nhà gõ cửa, người trong nhà nghe thấy ra mở cửa
cho anh ta. Thì ra, cú ngã sau là linh hồn anh ta ngã, cú ngã đó đã khiến linh
hồn quay về với thể xác, thể xác của anh ta khi ấy đang nằm hôn mê, bất tỉnh ở
đầu cầu. Khi Trang Sinh nhìn thấy thai phụ đang ở cữ, cũng may biết giữ lễ mà
rút lui, nếu anh ta lại gần nhìn trộm, có thể sẽ vô tình phải đầu thai thành lợn,
“rơi vào kiếp súc sinh.” Nhưng điều khiến người ta không hiểu là, anh ta đã
không quên lời thánh dạy “nam nữ thụ thụ bất thân”, cho thấy anh ta vẫn rất tỉnh
táo, nhưng sao có thể nhìn con lợn nái thành người đẹp được nhỉ?
Nhưng có người sau khi trượt chân, thân thể không những trở
thành thây ma mà linh hồn cũng rơi vào trạng thái hôn mê, không tìm được đường
về nhà.
Trong truyện Đa tiền phong, quyển bốn, Dạ đàm tùy
lục do Nhàn Trai Thị người đời Thanh viết, kể về Đa Nhị Gia, học cưỡi ngựa,
bắn cung ở bên ngoài thành Đông Trực Môn, do bất cẩn nên ngã ngựa, bị hôn mê bất
tỉnh, may có bạn dìu đỡ về nhà. “Về nhà ngay lập tức, không thấy bị thương chỗ
nào, nhưng mắc chứng tâm thần, không cười nói như bình thường được.” Thì ra
linh hồn của anh ta ở lại bên ngoài thành, không những bị mất phương hướng, thậm
chí còn không biết nhà mình ở đâu, đành đi đi lại lại ở nơi bị ngã, đợi người
nhà ra đón. Nhưng người nhà chỉ nghĩ rằng anh ta mắc một căn bệnh kỳ quái, vội
vàng hỏi thầy hỏi thuốc, chứ không nghĩ đến chuyện anh ta bị mất hồn. Cũng may,
con ma vì treo cổ mà chết là Vương Lão Tây, giờ nắm trong tay quyền cai quản trị
an vành đai thế giới u minh thấy Đa Nhị Gia đi vòng vòng ở đó, biết là không về
được nhà, con ma này kiếp trước chịu ơn huệ của Đa Nhị Gia, vội vàng chạy về
nhà họ Đa Lão, nhập vào người một bà lão trong nhà để báo tin. Thế là người nhà
mang theo thân thể của Đa Nhị Gia, đến nơi anh ta ngã ngựa, gọi tên thật để
chiêu hồn, cuối cùng cũng giúp anh ta tỉnh lại, nhưng linh hồn này loanh quanh
bên ngoài thành cũng phải hơn nửa tháng.
Từ đó có thể thấy, thể xác không có linh hồn rõ ràng không ổn
lắm, linh hồn rời khỏi thể xác cũng chưa chắc giữ được sự sáng suốt. Thế là đột
nhiên nghĩ đến câu nói: “Suy nghĩ là linh hồn”, đột nhiên hốt hoảng. Sự lầm đường
lạc lối của linh hồn này là bởi nó không thể “suy nghĩ”, nếu suy nghĩ, chẳng phải
sẽ tìm được đường về nhà sao, cũng có thể sẽ không đi mất hoặc lạc mất. Giáo
viên môn chính trị năm đó nếu kể mấy câu chuyện mất hồn này thì chẳng phải mọi
người sẽ đều hiểu cả hay sao?
Còn một loại nữa, đó là câu nói mà chúng ta thường nghe thấy:
“Sợ tới mức hồn bay phách lạc.” Những câu chuyện loại này rất nhiều, tìm một
câu chuyện cực đoan nhất, là người bị áp giải đến pháp trường, đao phủ tay cầm
cây đao lớn, chuẩn bị chặt đầu anh ta, nỗi kinh sợ đó bất giác khiến linh hồn
con người phải thoát khỏi xác. Trong bút ký của những người đời Minh bàn đến một
“chuyện bị lãng quên” ở thời Thái tổ cao hoàng đế của họ, có thể thấy trước mặt
chủ nhân uy nghiêm, linh hồn của những kẻ tôi tớ thật yếu đuối biết bao.
Một viên thái giám bị thái tổ gia giáng chỉ, lôi ra ngoài chặt
đầu, tội danh là “quét nước rượu không theo phương pháp”, quét nước rượu dưới đất
lẽ nào còn có phương pháp này kia hay sao?
Có lẽ chắc vì thái tổ gia đang ngồi sau long án suy tính việc
quốc gia đại sự, nhất thời xuất thần, bị thái giám xuất hiện trước mắt làm cho
giật mình. Vị thái giám này đến “quần áo thái giám” cũng không kịp thay, đã bị
lôi ra giữa chợ Kim Lăng Thành, chuẩn bị chặt đầu. Người thành Nam Kinh thích
náo nhiệt, đặc biệt là khi nghe nói hoàng đế muốn giết chính nô tài của mình, họ
càng hứng thú. Nhưng khi họ chăm chăm nhìn, thì thấy trước mặt vị thái giám
đang quỳ chờ chết còn có một người nữa đang đứng, cách ăn mặc và hình dáng giống
hệt vị thái giám đang quỳ, ai nấy đều thấy lạ. Đúng lúc đó, thái tổ gia lại đột
ngột ra thánh chỉ, không giết nữa. Mọi người mới hiểu, vị đó chính là hồn của
người thái giám nọ, do sợ quá mà xuất ra ngoài! Đôi lúc thái tổ gia cũng hài hước
nói đùa: “Ngươi dọa ta một lần, ta cũng dọa ngươi một lần.”
Chuyện này có thể đọc được ở Đô công đàm toản của Đô
Mục và Canh dĩ biên của Lục Sán, cái được mô tả là đại thể tương đồng,
phiên bản này có hơi khác khi đọc Dã ký của Chúc Sung Minh, trong đó nói
rằng thái giám thụ hình sợ tới mức hồn bay lên nóc nhà, từ trên nhìn xuống thấy
chính mình đang bị quàng qua cổ trói giật khuỷu tay. Từ đó có thể biết, đến
pháp trường xem người ta thụ hình cũng là một trong những thú vui của cư dân
thành thị ngày đó, không những đứng tràn khắp đường khắp chợ, trần nhà cũng trở
thành khán đài quan sát. Còn về việc người bị giết là người nào, có phải đồng
loại, đồng đảng của mình không hình như không ảnh hưởng gì tới họ, chỉ cần hay
là được, cho dù người bị giết là mình có khi vẫn xem một cách rất thích thú. Sự
vô cảm và vô tâm của “khán khách” luôn luôn như vậy.
Lục Dung người đời Đường có ghi chép lại chuyện một người
lúc chuẩn bị thụ hình thì được tha bổng trong quyển ba Thục viên tạp ký,
trong đó, một vị tiên sinh rất có tố chất của một ký giả cho mục giải trí đã đặt
câu hỏi với người đàn ông may mắn còn chưa kịp hoàn hồn kia: “Khi chờ đao chém
xuống, giây phút ấy anh có suy nghĩ gì? Tình cảm gì và nguyện vọng gì? Nói ra
cho chúng tôi nghe xem.” Người đàn ông đó trả lời: “Lúc ấy sợ hãi tới muốn xỉu,
làm gì có cảm nghĩ với nguyện vọng! Chỉ là sau đó, đang lúc hoảng hốt, ngồi
trên nóc nhà bên cạnh pháp trường, nhìn thấy giữa pháp trường một người đang bị
trói, đó chắc chắn là người sẽ bị chém, tôi thấy rất buồn, vợ con tôi, họ hàng
thân thích, bạn bè của tôi vây quanh anh ta để làm gì?”
Số linh hồn vì sợ hãi mà xuất ra khỏi thể xác ở pháp trường
là bao nhiêu thì không rõ, nhưng có một điều không cần phải nghi ngờ, đó là đại
đa số những linh hồn đó không thể quay lại với thể xác. Khi họ xuống ghế khán
giả, cuối cùng cũng hiểu ra người sắp bị rơi đầu kia có liên quan tới mình, có
lẽ trong đầu có rất nhiều cảm nghĩ, đáng tiếc là không có phóng viên nào kịp tới
đó để phỏng vấn. Nhưng vẫn còn một vài chuyện kỳ quái có thể làm tư liệu, một
vài linh hồn cá biệt sau khi rời khỏi thể xác lại không nghiêm túc đứng bên
theo dõi, trong lòng biết mình may mắn, phải chạy khỏi kiếp nạn này ngay.
Quyển mười lăm Đồng kỳ giác trong Tử bất ngữ của
Viên Mai ghi chép về nhân vật Lý Tư, một tên chuyên đào trộm mộ, cầm xẻng chống
lại người thi hành công vụ, liên tiếp đả thương hai người, phải ra pháp trường
chịu án chém đầu. Khi bị trói đưa đến cửa chợ, hắn ta ra sức giằng co và chạy
thoát. Có một người tên là Phó Cửu, ra khỏi Chính Dương Môn đi về phía tây, vừa
đi qua một cầu cảng nhỏ, nhìn thấy có người chạy thục mạng từ phía trước lại,
không kịp tránh nên đã tông vào nhau, và hợp thành một. Thì ra, người chạy tới
chính là linh hồn của Lý Tư, nhưng lại nhập vào thể xác của Phó Cửu. Còn về thể
xác của anh ta, sớm đã bị chém rồi. Phó Cửu đáng thương rơi vào cảnh chim khách
bị tu hú chiếm tổ, linh hồn của mình vất vưởng, lang thang không có chỗ trú
chân tạm thời không nói, mà thể xác của anh ta cũng phải chịu sự giày vò. Đầu
tiên là “đột nhiên có cảm giác cơ thể như bị giội nước, liên tục rùng mình”, rồi
chạy đến một cửa hàng bán lụa, ngồi xuống, đột nhiên hét lớn: “Ngươi cản đường
ta, đáng ghét, đáng ghét!”, thế là ra sức tát vào miệng mình, giật râu mình...
Rõ ràng là do linh hồn của Lý Tư tác quái, nhưng nhìn thấy thể xác của mình bị
linh hồn kẻ khác thao túng là một điều bất hạnh biết bao!
Quyển năm, Sinh hồn vong tử trong Dực quynh bại
biên của Thang Dụng, gần như cải biên lại từ quyển hai, Quỷ hồn tụ phụ
trong Vọng vọng lục, nhưng địa điểm thì từ Phúc Kiến chuyển đến Bắc
Kinh: “Có một kẻ vì thuê người giết người khác mà bị xử tội chém đầu. Kẻ này lại
quen biết đao phủ, dùng tiền để đút lót, nói: “Xuống đao nhanh một chút để ta
không phải chịu nhiều đau đớn.” Đao phủ nhận lời. Khi hành hình, đao phủ lên tiếng
nhắc khẽ: “Sắp xuống đao rồi, mau đi đi!” Kẻ này ra sức vùng vẫy, linh hồn liền
rời khỏi thể xác, thoát khỏi pháp trường, một hơi chạy xa trăm dặm, đến đất huyện
Hà Bắc Hùng, tìm một quán ăn xin hùn vốn làm chung. Trước kia anh ta vốn mở
quán rượu, chỉ cần thể hiện tay nghề của người thành phố, chủ tiệm đã vui mừng
như bắt được vàng, cuối cùng lại nhận anh làm con rể và cho ở rể. Năm sau nhạc
phụ qua đời, anh ta liền trở thành chưởng quỹ. Hơn một năm sau, tên đao phủ đó
đến huyện Hùng thăm họ hàng, vừa hay vào quán của kẻ mình đã chém đầu năm xưa.
Kẻ này vừa gặp lại tên đao phủ liền dập đầu tạ ơn. Tên đao phủ nhất thời chưa
nhận ra, hỏi: “Ngươi là ai?” Anh ta nói: “Tôi là xxx, chẳng phải ngài đã tha
cho tôi ở pháp trường đó sao?” Đao phủ liền nói: “Chắc ngươi lầm rồi, kẻ đó đã
chịu hình ở pháp trường.” Anh ta vừa nghe thấy vậy, lập tức trợn mắt, lè lưỡi,
ngã vật xuống đất, rồi biến mất, trên đất chỉ còn lại bộ quần áo.”
Nhân vật chính trong hai câu chuyện này đều bị mất hồn trước,
sau đó làm ma, không được coi là chuyện “mất hồn” chính thống, chỉ là một kiểu
tương tự, bàn đến để tư liệu thêm phong phú mà thôi.
Ngoài ra, trên giang hồ còn có một loại tà thuật gọi là “gọi
hồn”, hoặc gọi là thuật bắt hồn, ngoài ra còn có những cách gọi khác như quan hồn,
chí phách... cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến một vài người bị mất hồn.
Việc “gọi hồn”, hiểu trên mặt chữ nghĩa thì là gọi hồn của
người sống ra ngoài. Người đang đi trên đường, đột nhiên nghe thấy có ai đó gọi
tên mình từ đằng sau, nếu như buột miệng trả lời hoặc quay đầu lại nhìn thì có
khả năng sẽ bị trúng tà thuật, hồn bị gọi đi mất. Mà có hai mục đích khi gọi hồn
người khác, một là khiến người đó mất hồn, mơ mơ hồ hồ, chỉ có thể nhìn được
hai bờ, hoặc là sóng lớn cuồn cuộn, đáy sâu không nhìn thấu của vách núi cheo
leo, chỉ có thể đi trên con đường nhỏ trước mặt, nhưng theo sự “dẫn dắt” của
yêu nhân, bị đưa đến nơi hoang vắng, nhẹ thì “bị khám khắp người” lấy sạch đồ
trong túi, nặng thì đến quần áo cũng bị lột sạch rồi ném xuống nước. (Xem quyển
hai, Yêu nhân trong Tam cương thức lược của Đổng Hàm người đời
Thanh.) Kiểu này giống như trò dùng gậy đánh người khác ngất rồi cướp tiền bạc
trong đêm tết Nguyên tiêu vậy. Còn mục đích thứ hai lại giống như bắt cóc nhưng
người họ muốn bắt không phải là cái xác mất hồn kia mà là linh hồn vừa bị gọi
ra của người đó. Họ dụ linh hồn đó đi theo, nhốt ở một nơi nào đó, sau đó đến gặp
người nhà đòi tiền chuộc. Nếu ngoan ngoãn trả cho thầy cúng một món tiền thì họ
sẽ thả hồn ra, người đó sẽ từ từ tỉnh lại như sau khi bị hôn mê. Nếu người nhà
không chịu bỏ tiền chuộc thì sự sống chết của người đó cũng rất khó nói, nặng
thì trở thành vật để tế thần, nhẹ thì bị bỏ mặc không ai thèm nhòm ngó đến, ít
nhất cũng sẽ ngẩn ngơ cả đời.
Kiểu “gọi hồn” này ngoài gọi tên họ của người đó ra, còn có
cách khác là cắt tóc của người đó hoặc lén xé một mảnh quần áo, cũng có thể bắt
hồn của đối phương đi. (Học giả Kuhn người Mỹ có tác phẩm Gọi hồn - 1976,
năm khủng hoảng của nền yêu thuật Trung Quốc,một quyển sách chuyên điều tra
những vụ án gọi hồn lớn chấn động cả nước, có thể tham khảo). Tệ hơn nữa là sử
dụng thuật phù thủy, dùng kim châm vào hình nhân thế mạng, xua đuổi tà ma bắt
sinh hồn, như thế không chỉ là bắt hồn nữa mà là lấy mạng rồi. Giống như yêu
nhân Trương Kỳ Thần trong quyển tám của Tử bất ngữ có nói: “Có thể dùng
thuật để bắt hồn người”, nhưng thuật này dùng cách là cắt hình nhân bằng giấy,
gửi hồn mình hoặc hồn con trai vào hình nhân đó, người giấy này sẽ hóa thành
hung thần ác quỷ, đến nhà kẻ thù tác oai tác quái, tóm bắt hồn của kẻ ấy. Nhưng
yêu thuật này vẫn luôn “không ứng với người khác mà ứng vào chính mình”.
Trương Kỳ Thần gặp phải một tiên sinh họ Ngô không tin vào
tà thuật, dùng Dịch Kinh để giải tà thuật khiến hung thần ác quỷ kia biến
thành người giấy, nếu để người giấy này ở trong nhà tới hôm sau thì chính yêu
nhân sử dụng tà thuật đó sẽ mất mạng. Trong quyển tám, Đạo sĩ mất mạng vì sử
dụng tà thuật và quyển mười, Đánh thi thể của một đầu sách cùng loại
đều kể về yêu đạo gửi hồn vào búp bê hoặc thậm chí là cương thi, nguyền rủa để
lấy hồn người khác, mưu đoạt tài sản, cuối cùng lại khiến chính mình thiệt
thân. Kỳ lạ là, loại yêu nhân yêu đạo này lại có thể thịnh hành suốt một thời
gian dài, dùng yêu thuật giữa ban ngày ban mặt, lại thu hút được rất nhiều kẻ
si mê, sùng bái!
Thế là trong số những linh hồn bị loại yêu nhân này bắt đi,
có một nhóm là những tín đồ tự nguyện tìm đến nộp mình. Nguyên nhân là những
người đó tư chất bình thường nhưng chí hướng lại cao, cũng may được làm danh
công danh mẫu nên mặc định mục tiêu tiếp theo là trở thành thần tiên thật sự. Bởi
vì trong các loại hình thần tương ly có một loại gọi là “xuất thần”, đó là một
trò mà chỉ thần tiên mới làm được, giống như trường hợp của đại pháp sư La Công
Viễn mang hồn thần của Đường Minh Hoàng đến nguyệt cung nghe Nghê thường vũ
y khúc. Còn ưu điểm lớn nhất của kiểu “xuất thần” đó không chỉ là thần du
bát biểu, có thể uống nước cây Phù Tang,[42] ăn bít tết Anh trong mộ mà là đợi
đến thời khắc vô thường, thần xuất khỏi xác, tìm một nơi nào đó để trốn, khiến
quỷ sứ không tìm thấy, phải quay về chịu đòn. Mấy lần như thế, Diêm Vương cũng
hết cách, liền tích một dấu lên tên kẻ đó trong sổ, thế là người tu hành ít nhất
cũng có thể thành địa tiên, vừa không chìm đắm trong tửu sắc, lại có thể trường
sinh bất tử. Nhưng muốn được như thế phải tu luyện tiên đạo tới một mức độ nào
đó mới có thể khống chế được sự xuất nhập của hồn thần, nếu không hồn ra khỏi
xác rồi sẽ không tìm được đường về, rớt vào cống thoát nước, hoặc vào nhầm hang
chuột, người xui xẻo nhất sẽ quên đường về, hóa thành sương khói tản mạn khắp
nơi, thật đáng thương[43]. Vì vậy, nếu muốn thành tiên, ít nhất cũng nên tìm một
thần tiên sống để bái làm sư phụ, tu luyện thêm bảy, tám năm. Nhưng buồn một nỗi
tất cả những “thần tiên sống” tự xưng trên đời này đều là giả, giống như một
trò lừa gạt, thay đổi, biến hóa những quy luật mấu chốt trong đạo xuất thân cũ,
chỉ có thể biến những “tài tử tài nữ” đang bình thường thành bệnh nhân tâm thần
cấp hai, mắt sáng quắc khác thường, nói năng linh tinh, nói cho cùng, linh hồn
đó trúng “tư tưởng” giả mạo đạo thuật rồi.
[42] Phù Tang: một loại
cây dâu và còn dùng để chỉ nước Nhật.
[43] Quyển bốn trong Động linh tụ chí của Quách Tắc có viết
về một viên quan về hưu, ẩn cư tại gia, tu học đạo thuật, ngày ngày ngồi thiền.
Sau một thời gian dài, chốt cửa của nguyên khí dần nới lỏng, một đứa bé chui ra
nhưng chỉ có thể bay lượn trong phòng. Một ngày nọ, bị tiếng mèo kêu bắt chuột
làm cho thất kinh, không thể quay lại thể xác, rồi dần tan biến. Lại có một người
tên Uông Sinh, cuối đời rồi vẫn chưa lấy vợ, chỉ chuyên tâm luyện đạo. Trong
lúc ngồi thiền, một đứa bé đẩy cửa bước ra, ngồi trên cửa sổ, chỉ lởn vởn trên
nóc nhà, đến trưa xuống khỏi mái nhà, theo đường cửa sổ lần vào cửa, nhà người
đó có người hầu mới, truyền gọi cơm trưa, tiếng hơi to một chút, đứa bé thất
kinh, quay lại mái nhà quên đường về, một thời gian sau hóa thành làn khói bay
khắp nơi, và Uông Sinh chết.

