Phần II: Ấn Độ - Nepal - Chương 55-56
55. Cậu bé phật của Nepal
Asher là một người không bình thường, theo cả
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nói thế để cho mọi người thấy Asher không bình thường
thế nào, chứ tôi cũng chẳng biết nghĩa bóng của “không bình thường” là gì. Anh
là người Mỹ gốc Do Thái. Đang học dở đại học, bỏ sang Nepal vừa học tính chuyện
làm kinh doanh. Nhưng sau sáu tháng ở đây, anh đã bỏ học. Không được ở trong ký
túc xá nữa, anh ở một khách sạn gần đấy. Sau một thời gian tìm kiếm, anh được
người quen giới thiệu cho một ngôi nhà ở gần Monkey Temple (đây là tên nhiều
người gọi Swayambhunath vì ở đây có rất nhiều khỉ. Nhưng tôi được biết người
địa phương, nhất là những người sùng đạo, rất ghét tên gọi này). Hôm tôi đi
cùng Asher đến thăm nhà, tôi thích mê luôn. Thế là tôi quyết định chuyển đến ở
ngôi nhà này.
Quả thực, gọi là ngôi nhà có lẽ khiêm tốn quá,
mà phải gọi là biệt thự thì đúng hơn. Nhà gồm ba tầng. Tầng trệt là phòng khách
rộng mênh mông với hai bộ salon: bộ to đặt giữa làm phòng khách chính mà chúng
tôi ít ngồi vì rộng quá, bộ nhỏ đặt ở phía hơi nhô lên của căn phòng. Khu nấu
ăn cũng rộng rãi không kém với bàn nấu ăn kéo dài suốt ba mặt tường, trang bị
đầy đủ bếp ga, lò nướng, lò vi sóng cho Asher tha hồ trổ tài nấu ăn. Tầng trệt
có một căn phòng được chúng tôi bố trí thành phòng chiếu phim với máy chiếu
chiếu thẳng lên tường, bộ loa năm chiếc và một bộ ghế salon cực kỳ êm ái. Tầng
trên là hai phòng ngủ cho tôi và Asher. Cạnh đó là phòng chơi poker. Tầng trên
cùng chúng tôi dọn dẹp hết đồ đạc ra ngoài, bạn bè quyên góp một bộ loa xịn và
lắp đèn xoay vào làm thành sàn nhảy. Bên ngoài là ban công rộng phải đến năm
mươi mét vuông, chúng tôi kê bàn ghế làm chỗ uống cà phê và thỉnh thoảng đốt
lửa trại. Có cầu thang cuốn đi lên mái nhà, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ sử
dụng đến vì ban công đã quá rộng rồi. Nhà rộng rãi nên chúng tôi hay host
CouchSurfer. Một người trong số đó là Frank. Frank là người Mỹ gốc Đài Loan.
Cậu bằng tuổi tôi, đang học đại học Yale, khoa tâm lý học. Cậu là bậc thầy của
việc áp dụng những gì mình học vào điều khiển tâm lý người khác. Một lần, cậu
về nhà với một đôi giày mới cóng và khoe rằng mua được với giá rẻ bất ngờ. Tôi
không nhớ chính xác là bao nhiêu, chỉ nhớ là rẻ chỉ bằng một nửa giá chúng tôi
biết.
“Bí quyết để mua đồ giá rẻ là để người bán
hàng đầu tư về mặt thời gian và tình cảm vào mình. Mình càng thử đồ lâu, càng
hỏi người bán hàng nhiều về sản phẩm thì càng khiến cho họ muốn bán cho mình vì
họ đã đầu tư quá nhiều công sức vào mình rồi. Đến một mức nào đó, họ sắn sàng
bán cho mình giá cực kỳ rẻ. Ví dụ đôi này, họ bán cho tớ giá chỉ bằng 1/3 giá
họ nói ban đầu và tớ chắc chắn rằng họ chịu lỗ để bán”.
“Ấy nói thế nào chứ lỗ thì sao họ bán?”.
“Sao không bán? Nếu họ giữ đôi giày đó lại thì
biết bao giờ mới có khách thích nó? Nếu họ bán ngay, chịu lỗ một tí nhưng vẫn
là có tiền. Họ có thể ngay lập tức về nhà mua thịt cho vợ, mua kẹo cho con.
Mình phải biết họ muốn gì để đánh vào đó”.
Tôi và Asher không thích kiểu cò kè mặc cả như
vậy lắm. Với mình, vài đô có lẽ chẳng đáng là bao, nhưng với những người bán
hàng ở đây, đó có thể là tiền ăn mấy ngày của cả gia đình họ. tuy vậy, chúng
tôi cũng không nói gì. Cách sống của người ta thế nào thì mặc kệ người ta thôi.
Lúc bấy giờ, qua một người bạn tên là Max, tôi
được biết anh chuẩn bị theo thầy của mình đi gặp cậu bé Phật của Nepal. Bàng
tuổi tôi, cậu bé này từng nổi tiếng đình đám trước giới truyền thông quốc tế
khi cậu có thể ngồi thiền hàng tháng trời trong rừng mà không cần ăn uống gì.
Cậu bắt đầu ngồi thiền từ tháng 5 năm 2005. Cậu nói rằng cứ đà này khoảng chục
năm nữa cậu sẽ đắc đạo. Vì con đường cậu chọn rất giống Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni ngày xưa nên mọi người bắt đầu gọi cậu là cậu bé Phật. Tìm gặp cậu bé Phật
rất khó, bởi cậu toàn ngồi thiền sâu trong rừng. Cứ mỗi khi bị người khác phát
hiện ra chỗ cậu thiền, cậu lại tìm chỗ khác, bởi có quá nhiều người muốn đến
gặp cậu để xin ban phép lành nên cậu không yên tĩnh để thiền được. Chỉ có lần
này cậu mới ra mặt để tổ chức buổi lễ cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Những
người có tâm từ khắp nơi trên thế giới đều được mời đến tham gia. Tò mò, tôi
cũng xin đi theo. Frank cũng không bỏ lỡ cơ hội, lùi ngày chuyến bay của mình
để được tận mắt nhìn thấy cậu bé Phật.
Max đi cùng các thầy tu người Nhật nên tôi và
Frank phải tự bắt xe đi. Anh cho tôi tên một cái làng ở đâu đó phía nam Nepal.
Tôi bị mất cuốn sổ tay ghi chép lại mọi chuyện trên đường nên tôi chẳng nhớ
chính xác địa điểm đấy là gì hay ở đâu. Tôi chỉ nhớ rằng khi đấy tôi và Frank
cảm thấy nó gần như là phép màu khi chúng tôi tìm được đúng đến cái làng đấy.
Chúng tôi phải hỏi không biết bao nhiêu là người, bắt ba cái xe khách, đi hai
ngày mới tới nơi. Đến làng rồi mà chúng tôi vẫn không biết đây có phải đúng địa
điểm hay không. Làng nhỏ xíu, trơ trọi chỉ vài túp lều tranh ở mặt đường với
mấy cửa hàng bán lơ thơ ít bánh quy, ít rau, ít dal bhat. Dal bhat là đồ ăn
truyền thống của người Nepal, truyền thống đến mức ngày nào họ cũng ăn ba bữa
món này không biết chán. Nó gồm dal: súp đỗ và bhat: cơm, đi kèm một ít rau hay
một ít thịt. Trông không khí trong làng chẳng có vẻ gì là sắp có buổi gặp mặt
cầu nguyện cho hàng ngàn người cả. Người dân nơi đây không nói ai được tiếng
Anh. Chúng tôi nói “Buddha boy” cũng không ai biết. Cũng may, tôi nhớ là khi
trên xe bus nói chuyện với mấy người địa phương, tôi biết được ở đây họ gọi cậu
bé Phật là “Ram Bomjon”. Nghe đến cụm từ này, người dân làng mắt sáng lên, gật
gù: “Yes, yes” (Yes có lẽ là từ tiếng Anh duy nhất mà họ biết). Họ chỉ cho cúng
tôi đi lên một xe bus. Xe thả chúng tôi đến một con sông đã khô chỉ còn trơ cát
với đá cuội. Bạn phụ xe chỉ đường cho chúng tôi đi xuống lòng sông, rồi quay
đầu xe trở lại.
Thời tiết miền Nam khác hẳn thời tiết ở
Kathmandu. Trời nắng và nóng. Chúng tôi cởi áo khoác ra vắt lên vai, vừa đi vừa
lau mồ hôi, mắt nheo lại vì nắng. Chúng tôi nhận ra rằng càng đi, chúng càng
tiến sâu vào trong rừng. Hai bên bờ sông cây cao, cây thấp, cây thân mềm đan
kín đặc vào nhau. Ở dưới lòng sông cỏ mỗi lúc một dầy, cứ vài mét lại có một
bụi cây rậm rạp. Tôi nhặt cho mình một cái que dài để chẳng may có gặp rắn. Đi
khoảng mười lăm phút mà vẫn chưa gặp ai, Frank và tôi đang bắt đầu thắc mắc
không biết có bị bạn phụ xe chỉ đường nhầm không thì bất chợt một chiếc xe Jeep
từ đâu tiến tới. Chúng tôi đưa tay ra vẫy rối rít. Mừng nhất là bạn lái xe nói
tiếng Anh trơn tru. Bạn bảo là chỗ cầu nguyện ở trong rừng, cách đấy khoảng ba
cây. Bạn cho chúng tôi đi nhờ đến tận cái cổng chăng đầy vải màu sắc rực rỡ,
trang trí họa tiết Phật giáo phương Đông, chi chít chữ Nepal. Đi qua cổng,
chúng tôi đã thấy người người cắm trại la liệt. Có người chẳng cần chăn chiếu
gì ngủ ngay dưới đất. Họ chắc là đã đến đây từ mấy hôm trước mong được diện
kiến cậu bé Phật.
Những bảng hiệu với khuôn mặt cậu bé Phật cắm
hai bên đường chỉ lối đi vào khu bên trong. Một ảnh cậu đang đốt nến với dòng
chữ: “Nếu cả thế giới chấp nhận sự thật, ta có thể thắp cây nến hòa bình”. Một
ảnh cậu ngồi thiền lại có dòng chữ: “Vì không từ bỏ ham muốn, con người chịu
khổ suốt đời”. Những câu đại loại như thế bạn có thể bắt gặp trong giáo lý của
hầu hết các tôn giáo.
Khu bên trong bao gồm mấy ngôi nhà tranh, rõ
ràng mới được dựng để phục vụ riêng cho dịp này. Trong này đông nghịt người:
các sư thầy, ni cô đến từ đủ các nước, người hành hương Ấn Độ, Nepal; đoàn
phóng viên quốc tế; quân đội đến để đảm bảo an ninh trật tự. Một bức ảnh cậu bé
Phật ngồi thiền cao phải đến hai mét dựng trước hiên, phía trước đấy là một anh
chàng da trắng tóc vàng đang cúi đầu chuẩn bị được xuống tóc. Tôi gặp lại Max
thì phát hiện ra khuôn mặt anh đã bắt đầu có vẻ mơ màng của những người thiền
nhiều quá. Gặp tôi anh cũng chẳng cười nói như mọi khi mà chỉ gật đầu chào, trả
lời xã giao vài câu rồi quay trở lại với những thầy tu Nhật Bản của mình. Tôi
gặp một cô người Mỹ gốc Á. Cô bảo đi cùng cô lần này cũng có khá nhiều tín đồ
của cậu bé Phật từ Mỹ sang. Nói chuyện một hồi, tôi phát hiện ra cô là người
gốc Việt.
Số chúng tôi quả thực rất rất may. Đến muộn
một tiếng nữa là có khi chúng tôi không được gặp cậu bé Phật rồi. Vừa đến nơi
được một lúc, chúng tôi thấy mọi người rục rịch xếp hàng vào rừng. Chúng tôi
được nhắc nhở phải đi vào hàng lối cẩn thận, bởi cách đây không lâu người ta
phát hiện ra dấu chân hổ ở gần nơi cậu bé Phật ngồi thiền.
Từ cách chỗ cậu ngồi thiền cả cây số, chúng
tôi đã phải bỏ dép ra đi chân đất để giữ “cho chỗ ngài thiền trong sạch”.
Đường đi không biết đã được ai dọn thành một
con đường mòn nho nhỏ khoảng vài chục phân. Cách một đoạn lại có một sư thầy
cầm trầm hương khói nghi ngút không ai được phép nói chuyện, không ai được phép
chỉ trỏ. Không gian im lặng như tờ, chỉ có tiếng là kêu sột soạt, tiếng đọc
kinh lầm rầm. Thấy mọi người nghiêm trang quá, tự nhiên tôi cũng thấy hồi hộp.
Tôi nhớ như in mình cũng nín thở khi lần đầu tiên nhìn thấy tán cây bồ đề, khi
ai đó phía trước tôi run run thì thầm: “Tán cây Ngài ngồi đấy”. Cây to, cao
phải ba, bốn chục mét, rộng cũng phải chục mét, hàng trăm rễ cây to như bắp
chân đánh đu từ tua tủa các nhánh cây xuống cắm sâu vào trong đất. Cậu bé Phật
ngồi khoanh chân trên một bệ hoa sen xây bằng bê tông. Nhìn cậu giống hệt như
những bức ảnh tôi tìm thấy trên mạng: cậu mặc áo chùng nâu, vắt chéo hở một vai
như thầy tu, tóc dài hơi xoăn che khuất một nửa khuôn mặt, mắt đen láy, sáng
rực, râu lấm tấm ở cằm. Hai mươi tuổi bẻ gẫy sừng châu, cậu nhìn có vẻ khá cơ
bắp cho một người chỉ ngồi thiền mấy năm liền không làm gì. Xung quanh cậu đứng
một vài thầy tu áo choàng nâu đỏ, một vài người đàn ông mặc áo vest trịnh
trọng.
Những người hành hương ngồi thành từng hàng
phía trước. Mọi người được ra lệnh vái cậu bé ba vái. Cả buổi chỉ có một thầy
tu tuổi đã trung niên đứng lên cầm mic nói; còn cậu bé Phật chỉ ngồi yên đưa
ánh mắt lơ đãng ra nhìn khắp lượt. Anh chàng vừa nãy xuống tóc bây giờ lên để
cậu bé Phật ban phước lành. Mọi người cũng nối đuôi nhau mang vật phẩm lên để
cúng tặng. Cuối buổi, mọi người được xếp hàng lên để cậu bé Phật ban phước lành.
Bình thường, mọi người sẽ cúi đầu để cậu chạm tay lên. Đến lượt tôi, vì tò mò
muốn nhìn rõ khuôn mặt cậu mà tôi quên không cúi. Chỉ đến lúc nhìn khuôn mặt
lúng túng không biết làm thế nào của cậu tôi mới chợt nhận ra cúi đầu xuống.
Có một số người nói cậu bé Phật thực ra chỉ là
chiêu bài PR để lừa gạt những người cả tin, có một người thì nói cậu bé Phật là
Phật sống thật. Tôi là dân ngoại đạo không dám bình phẩm gì nhiều, chỉ hơi thất
vọng là không được nghe cậu bé Phật nói một câu để xem cậu ăn nói như thế nào.
Tất cả ý nghĩ của cậu đều được truyền đến đám đông thông qua vị thầy tuổi trung
niên kia, nên những kẻ đa nghi cũng có thể dựa vào đó mà đưa ra nhiều suy đoán.
Khi tôi đi về, mọi người hỏi tôi cậu bé Phật thế nào, tôi chỉ biết trả lời
rằng:
“Cũng dễ thương lắm”.
Có lẽ cũng vì báng bổ mà tôi bị trời phạt. Vừa
về đến Kathmandu, sang đường cái là tôi bị một cái xe máy đi với tốc độ gần
100km/h đâm thẳng vào chân, gãy luôn cả ống đồng.
56. Burning Snails
Chuyển đến nhà mới được khoảng một tuần thì chúng
tôi có người đến ở cùng, đó là Jehad, bạn học cùng trường của Asher. Tôi chẳng
biết tình hình chiến sự ở Trung Đông thế nào chứ ở đây, Asher người Do Thái và
Jehad người Palestine vẫn thân thiết với nhau lắm. Jehad thi không qua nên bị
đuổi học. Asher nghỉ học trước khi bị đuổi. Lý do thì cũng như nhau.
“Trường quảng cáo rất hoành tráng trên mạng
nhưng mà hoạt động cứ như băng đảng mafia. Quảng cáo thì giáo trình tiếng Anh
nhưng dạy thì toàn bằng tiếng Nepal, nghe còn chả hiểu thì thi thế quái nào
được. Kêu lên trường thì bị dọa đuổi học. Muốn nghỉ học thì họ không chịu trả
lệ phí. Tao phải dọa là đưa lên báo thì mới lấy lại được tiền”. Asher kể về
trường.
Không quen biết ai, Jehad sang ở cùng chúng
tôi. Jehad da hơi nâu, tóc đen hơi xoăn, mắt đen lông mày rậm. Râu cậu để dài
chắc cũng rậm nhưng cậu rất hay cạo, chỉ để lại vệt đen lấm tấm quanh mặt và
dưới cằm. Cậu cao hơn một mét tám và rất hay nổi quạu khi tôi gọi cậu là bé,
bởi cậu thua tôi một tuổi. Nói chung nhìn kỹ cậu cũng đẹp trai, phải tội rất sợ
con gái. Có một chuyện mà đến giờ chúng tôi vẫn còn trêu cậu. Asher là đứa
thích tiệc tùng, nên cuối tuần nào cũng tổ chức tiệc rồi đưa thông tin lên
CouchSurfing, mở cho tất cả mọi người tham gia. Nói chung chỉ cần bật nhạc lên,
rồi ai đến thì tự mang đồ uống cho mình đến. Ngoài một số bạn bè của chúng tôi
ở đây ra thì người đến đa số là người nước ngoài sinh sống và làm việc ở đây,
hoặc là khách du lịch ghé qua. Nhà chúng tôi rộng nên nhảy nhót hát hò thoải
mái, nhiều khi mọi người tiệc tùng qua đêm. Thỉnh thoảng tôi ngủ dậy xuống nhà
thấy người lạ nằm la liệt. Một lần, chúng tôi đang nói chuyện vui vẻ thì cậu
đến, mặt hầm hầm hầm hầm.
“Bọn con gái ở đây hư hỏng quá”.
“Hả? Bé nói vậy là sao?”. Tôi giật mình hỏi.
“Bọn con gái phương Tây thật là hư hỏng. Cái
chị kia kìa,” Jehad chỉ tay vào một bạn tóc vàng, chân dài, rất xinh “đang nói
chuyện tự nhiên cầm tay em”.
Ôi trời ạ, đúng là con trai Hồi giáo không
quen bị con gái tấn công. Mới có vậy thôi mà cậu đã đùng đùng bỏ đi như phải
bỏng.
Trong số đám bạn chúng tôi ở đây còn có
Anders, mà cả tôi và Asher đều công nhận là anh cũng không bình thường. Anh
xuất khẩu phần mềm, khách hàng của anh chủ yếu là ở Đan Mạch. Thu nhập châu u
mà tiêu tiền Nepal nên cuộc sống của anh đáng lẽ cũng thoải mái. Nói “đáng lẽ” vì
từng học lập trình nên tôi biết viết code căng thẳng như thế nào. Lúc bình
thường còn đỡ, nhưng code thì kiểu gì cũng có lỗi. Lúc nào phải đọc lại cả ngàn
dòng code dòng nào cũng giống dòng nào chỉ để tìm ra một dấu chấm, dấu phẩy sai
thì dễ phát điên lắm. Kathmandu lại chẳng phải thành phố sôi động gì cho cam.
Ngoài ra Thamel uống bia ở mấy quán quen ra thì ở đây chẳng còn việc gì làm.
Anh ngày ngày chỉ biết ngồi cắm đầu vào máy tính, có ngày làm việc đến mười sáu
tiếng. Đầu óc lúc nào cũng căng như dây đàn, tóc tai bù xù, người ngợm yếu xìu.
Nghe chúng tôi khuyên, anh sáng sáng dậy sớm để chạy. Nhưng anh không chạy như
người ta. Sợ bị tai nạn, anh phải mua cái áo vàng chóe mà cảnh sát giao thông
hay mặc khi làm việc ngoài đường để chắc ăn rằng xe cộ nào cũng nhìn thấy anh
mà tránh ra.
Tuy có vẻ hơi cực đoan, anh lại là người cực
kỳ tốt bụng. Bằng chứng là anh cho Karlis ở nhờ nhà anh hàng tháng trời. Karlis
cũng là một anh chàng quái (thật ra nhìn đi nhìn lại, tôi chẳng thấy bạn bè nào
của tôi là bình thường cả). Anh là người Latvia, một quốc gia nhỏ xíu với chỉ
hai triệu dân ở Bắc u. Học múa từ nhỏ, anh từng là một vũ công khá có tiếng ở
Latvia cho đến khi anh quyết định từ bỏ tất cả để chọn cuộc sống nay đây mai
đó. Anh lăn lộn qua mấy nước châu u, qua Ấn Độ và giờ ở Nepal, chơi poker để
kiếm sống. Tôi đã nghĩ là mình hoang dã, nhưng anh mới thực sự hoang dại. Anh
sẵn lòng hất tung mọi thứ nhảy lên bàn nhảy tưng tưng, hay cởi trần mặc quần
đùi phóng xe máy tốc độ tối đa ngoài đường. Anh lại cực kỳ mê gái. Kiểu lăng
nhăng của anh lại không có chọn lọc. Vốn là vũ công, anh bị ám ảnh rằng con gái
phải có bụng phẳng và cứ bạn gái nào có bụng phẳng là anh mê. Anh khá đẹp trai,
tóc vàng, mắt xanh, người cũng rất đẹp nên cũng nhiều cô chết. Mặc dù khá là dễ
thương, anh là đứa hay bị chửi nhất trong nhóm. Vì hoang dại, anh hay có hành
động nông nổi mà không để ý đến người xung quanh. Ví dụ, có lần sang nhà chúng
tôi chơi, sáu giờ sáng anh còn bật loa to hết cỡ hát karaoke khiến cho hàng xóm
mắng cho chúng tôi một trận. Rồi gặp bạn gái nào bụng phẳng là anh cũng cưa
cẩm, không thèm để ý người ta có bạn trai hay có chồng chưa, nên mấy lần tôi
điên tiết quạu cho một trận. Nhưng ngoài những lúc như thế ra, tôi vẫn rất quý
Karlis.
Lúc bấy giờ, chân cẳng của tôi đã đỡ rồi. Trời
đã ấm lên nên tôi cũng không còn ho ra máu. Người khỏe lên một tí là tôi bắt
đầu thấy cuồng chân.
“Lúc tao mới gặp mày, sáng sáng mày còn dậy
lúc năm giờ đi tập kickboxing. Giờ thì ngày nào mày cũng ngồi ở nhà dùng máy
tính bảo sao mày không chán”. Asher mắng tôi.
“Tao muốn đi xe máy vòng quanh Nepal mày ạ”.
“Chân cẳng thế kia thì đi thế nào?”.
Tôi chợt nhớ đến Karlis, liền rủ Karlis đi
cùng làm xe ôm cho tôi. Trong đám bạn của tôi ở đây, có mỗi Karlis là biết đi
xe máy. Và cũng chỉ anh mới điên rồ đến mức lái xe vòng quanh một đất nước mà
tỷ lệ tử vong trên đường cao nhất nhì thế giới này (chỉ cạnh tranh với Việt Nam
mình). Asher cũng muốn đi lắm, nhưng lại có hẹn đi chơi đâu đó với bạn gái. Khi
chúng tôi đang bàn chuyện thì mấy bạn CouchSurfer đang ở nhờ nhà chúng tôi cũng
nhao nhao lên:
“Cho bọn tớ đi với”.
Lúc bấy giờ, tôi và Asher đang host ba người:
một cặp người Pháp và một anh chàng người Úc. Paxton là người Úc nhưng bố mẹ
gốc Singapore nên anh nhìn giống người châu Á. Anh hạ cánh xuống Kathmandu lúc
hai giờ sáng, tự mày mò đi taxi đến nhà chúng tôi (không phải dễ tìm gì cho cam
bởi ở Nepal toàn nhà không số, phố không tên), rồi gọi điện cho Asher đưa lên
nhà mà không báo cho tôi biết. Sáng tôi dậy, mắt nhắm mắt mở xuống nhà thấy một
anh chàng tóc đen nằm với một tư thế vô cùng quái đản trên sàn, tôi hết hồn cứ
tưởng anh chàng Nepal nào nửa đêm mò vào nhà tôi ăn trộm rồi ngủ quên mất. Anh
đang trong tour đi vòng quanh thế giới với round the world ticket. Round the
world ticket là một dạng vé máy bay cho phép bạn đi vòng quanh thế giới trong
khoảng thời gian giới hạn từ mấy tháng đến tối đa là mười tám tháng, tùy hãng
máy bay. Các chặng dừng là cố định, nhưng ngày cụ thể đến và đi ở từng chặng là
có thể thay đổi được. Round the world ticket thường rẻ hơn rất nhiều so với mua
từng vé nhỏ lẻ. Tuy nhiên, mua vé này cũng tùy bạn mua ở đâu. Trước tôi có xem
thử thì mua vé từ Hàn Quốc sẽ rẻ hơn hẳn mua từ Việt Nam. Vé Paxton mua nếu tôi
nhớ không nhầm chỉ là 4000 USD và cho phép anh đi được 17 nước. Anh đến Nepal,
máu me đi xe máy quá, anh đổi lại ngày rời Nepal để đi cùng chúng tôi.
Cuộc đầu tiên của chúng tôi với anh chàng
người Pháp diễn ra như sau.
“Anh tên là gì?”
“Ê-Ti-En”.
“Hả, ATN á?”.
Thế là từ đó chúng tôi gọi Etienna là ATN. Mối
quan hệ giữa ATN và Emilie khá phức tạp. ATN cũng đang đi một chuyến đi dài
ngày, vòng quanh thế giới hay không thì cũng không rõ. Anh đi qua Thổ Nhĩ Kỳ và
gặp Emilie ở đó. Vì rất quý ATN, Emilie sang Nepal để du lịch cùng anh. Nhưng
hai người không phải là bạn trai bạn gái, vì ATN đã có bạn gái đang chờ mình ở
Ý. Nói chung, ngoại trừ thỉnh thoảng hai người có căng thẳng ra, phần lớn thời
gian chúng tôi chơi với hai người khá là thoải mái.
“Bọn mày có ai lái xe được không?”. Karlis
hỏi.
“Không. Nhưng học được không?”.
“Được. Trước tao dạy cho mấy đúa ở Latvia cũng
chỉ một ngày là bọn nó phóng xe vù vù ngoài đường”.
Thế là mọi người hẹn ngày mai thuê xe rồi tập
luôn. Emilie kêu ATN chở nhưng anh không chắc chắn về tay lái của mình vì chưa
đi bao giờ nên chị cũng thuê xe tự đi. Emilie khỏe như con trai vậy, lại có một
phong cách mạnh mẽ đến mức nhiều khi con trai cũng phải ngả mũ bái phục. Xe máy
ở Nepal to, cao và rất nặng. Tôi nghĩ nếu chân tôi có khỏe hẳn rồi thì tôi cũng
không đi được. Thứ nhất, tôi quá lùn không chống được chân. Thứ hai, xe có đổ
thì tôi sẽ bị đè ngay lập tức chứ không đủ khỏe để đỡ nó lên. Nhưng Emilie thì
chẳng ngại gì. Tôi phục chị lắm.