Chương 15: Chắc như mắc neo cho kinh khí cầu - P1
Aomame
rất để ý đến việc ăn uống hàng ngày. Rau xanh là món chủ đạo ba bữa ăn mà nàng
tự tay chuẩn bị mỗi ngày, còn có thêm cá, chủ yếu là loại cá thịt trắng. Thịt
thì chỉ giới hạn ở mức thi thoảng chỉ ăn chút thịt gà. Thực phẩm nàng chỉ chọn
loại tươi ngon, hạn chế tối đa các loại gia vị. Tất cả các món nhiều chất béo đều
bị loại bỏ, lượng tinh bột được kiểm soát trong giới hạn thích hợp. Khi ăn xa
lát, nàng không dùng loại sốt trộn bán sẵn, mà chỉ rưới lên chút dầu ô liu, muối
và nước chanh. Không chỉ ăn nhiều rau xanh, nàng còn nghiên cứu tỉ mỉ hàm lượng
dinh dưỡng, chú ý phối hợp các loại rau xanh cho cân bằng. Nàng đặt ra một thực
đơn đặc biệt của riêng mình, hồi ở câu lạc bộ thể thao, nàng cũng thường được mời
đến hướng dẫn ăn kiêng. Câu cửa miệng của nàng là: đừng tính toán calo làm gì!
Chỉ cần biết cách chọn đồ ăn chính xác, ăn uống điều độ, thì không cần để ý nhiều
đến mấy con số đó.
Nhưng
nàng cũng không phải một mực tuân theo cái thực đơn theo kiểu cấm dục chủ nghĩa
ấy, những lúc không thể nhịn nổi, nàng cũng xông vào quán ăn gọi một miếng sườn
bò, hoặc sườn cừu to tướng. Nàng cho rằng, nếu thỉnh thoảng có lúc thèm món gì
đến độ không thể cưỡng lại, nhất định là vì một lý do nào đó cơ thể cần đến món
ấy và đang phát tín hiệu yêu cầu. Đơn giản là nàng đang nghe theo tiếng gọi của
tự nhiên mà thôi.
Aomame
thích uống rượu vang và rượu trắng, nhưng để bảo vệ gan, đồng thời cũng để kiểm
soát lượng đường, nàng chú ý không uống quá nhiều, mỗi tuần quy định ba ngày
không dùng thức uống có cồn. Đối với Aomame, chỉ tấm thân xác thịt mới là thần
điện thiêng liêng nhất, cần phải giữ gìn cho thân thể luôn trong sạch, không
nhuốm bụi trần, không bám phải dù chỉ một vết nhơ. Còn việc nơi đó thờ cúng cái
gì, lại là một vấn đề hoàn toàn khác, để sau này suy nghĩ cũng chẳng sao.
Cơ thể
nàng hiện nay vẫn chưa có vết sẹo lồi nào, chỉ có các cơ bắp chắc nịch. Ngày
ngày, nàng đều khỏa thân đứng trước gương, tỉ mỉ xác nhận lại sự thực này. Nàng
không phải hạng người si mê thân thể mình, mà ngược lại thì đúng hơn. Bầu vú
không được to lắm, hai bên trái phải lại không đối xứng. Lông mu mọc như một bụi
cỏ bị cả tiểu đoàn bộ binh hành quân qua giẫm đạp. Mỗi lần nhìn thấy cơ thể
mình, nàng không khỏi chau mày. Nhưng dù sao thì cũng không có chỗ thịt thừa
nào, muốn lấy ngòn tay véo lên một miếng thịt thừa cũng không thể.
Aomame
sống thanh đạm. Nàng tiêu tiền nhiều nhất vào việc ăn uống, chẳng bao giờ tính
toán khi mua thực phẩm, mà rượu vang cũng chỉ uống loại thượng hạng. Thỉnh thoảng
ra ngoài ăn tiệm, nàng luôn chọn những nhà hàng chế biến chu đáo cẩn thận và cầu
kỳ. Ngoài chuyện đó ra, nàng gần như chẳng hề quan tâm đến những sự khác trên đời.
Nàng
chẳng để ý đến trang phục, mỹ phẩm và đồ trang sức. Đến câu lạc bộ thể thao làm
việc, chỉ cần mặc đại một chiếc quần bò và áo len là đủ. Đằng nào thì khi vào
câu lạc bộ, nàng sẽ phải mặc đồ thể thao suốt cả ngày. Tất nhiên, nàng cũng
không đeo trang sức. Vả lại, nàng gần như không có cơ hội nào để ăn mặc, trang
điểm lộng lẫy. Không có người tình, cũng không có cơ hội hẹn hò với người khác.
Sau khi Otsuka Tamaki kết hôn, thì ngay đến cả bạn gái ăn cùng một bữa cơm nàng
cũng chẳng còn. Khi kiếm tình một đêm, nàng cũng trang điểm, ăn mặc sao cho hợp
thời trang một chút. Nhưng chuyện ấy nhiều lắm cũng chỉ tháng một lần. Không cần
quá nhiều quần áo làm gì.
Khi cần
thiết, nàng lượn quanh mấy tiệm thời trang ở Aoyama, mua một bộ “Trang phục sát
thủ”, rồi chọn thêm bộ trang sức phù hợp, đôi giày cao gót, vậy là xong. Thường
ngày, Aomame chỉ đi giày đế bằng, tóc búi ra sau. Sau khi rửa mặt thật kỹ bằng
xà phòng, nàng chỉ đánh một lớp phấn mỏng, nhưng làn da lúc nào cũng sáng bóng,
nhẵn mịn. Chỉ cần thân thể khỏe mạnh sạch sẽ, ngoài ra nàng không còn ham muốn
gì khác.
Từ nhỏ,
nàng đã quen với cuộc sống giản gị không màu mè. Cấm dục và tiết chế, đó là những
thứ đầu tiên nàng bị thổi vào đầu từ khi biết suy nghĩ. Trong nhà không có thứ
gì thừa thãi. “Lãng phí” là hai chữ được dùng với mật độ dày đặc trong nhà
nàng. Nhà không có ti vi, không có báo. Ở nhà nàng, thậm chí tin tức cũng là thứ
không cần thiết. Thịt và cá hiếm khi xuất hiện trên bàn ăn, Aomame chủ yếu nhờ
vào bữa cơm trưa miễn phí ở trường để bổ sung lượng dinh dưỡng cần thiết. Bạn
cùng lớp đứa nào cũng chê khó ăn và bỏ mứa bữa trưa, còn nàng thậm chí muốn ăn
hết cả phần của người khác.
Nàng
hầu như chỉ mặc quần áo cũ của người khác thải ra. Trong giáo đoàn có những buổi
trao đổi quần áo kiểu như vậy. Vì thế, ngoài quần áo thể dục nhà trường quy định,
cha mẹ chưa bao giờ mua quần áo mới cho nàng và nàng cũng chẳng nhớ mình đã lần
nào được mặc quần áo mới và đi giầy đúng cỡ hay chưa nữa. Màu sắc và hoa văn
thì vô cùng tệ hại. Nếu vì gia cảnh nghèo khó đến nỗi không thể không sống giản
dị như vậy thì là chuyện khác, nhưng nhà Aomame không hề nghèo. Cha nàng là kỹ
sư, thu nhập và tài sản đều không dưới mức trung bình của xã hội. Hoàn toàn vì
tuân theo giáo lý nên họ mới chọn cuộc sống tối giản như thế.
Nói
tóm lại, cuộc sống của nàng và những đứa trẻ bình thường xung quanh khác nhau
quá xa, vì vậy có một thời gian dài, nàng chẳng hề có một người bạn. Không có
quần áo để mặc lúc đi chơi với đám bạn cùng lớp, mà nàng cũng chẳng có thời
gian để đi chơi nữa. Nàng chưa bao giờ được cho tiền tiêu vặt, nếu được mời đến
dự tiệc sinh nhật của ai đó (không hiểu là may hay không may, chuyện ấy chưa
bao giờ xảy ra), thì nàng thậm chí chẳng mua nổi cả một món quà nhỏ xíu.
Vì vậy
mà nàng căm ghét cha mẹ, căm ghét đến tận xương tủy thế giới của họ. Điều nàng
muốn là một cuộc sống bình thường như những người khác. Nàng không cần gì xa
hoa. Chỉ một cuộc sống bình thường thôi là đủ. Chỉ cần được như vậy, mình chẳng
còn mong muốn gì khác, nàng thầm nghĩ. Nàng mong ngóng sao cho mình nhanh lớn
lên, để rời xa cha mẹ, sống độc lập một mình theo ý muốn của bản thân. Muốn ăn
gì thì ăn, muốn ăn bao nhiêu thì ăn. Được tự do tiêu xài tiền trong ví của
mình. Được mặc những thứ quần áo mình thích, đi đôi giày vừa cỡ chân, đến những
nơi mình muốn đến. Kết bạn thật nhiều, để rồi trao đổi với nhau những món quà
được gói thật đẹp.
Nhưng
đến khi trưởng thành, Aomame phát hiện ra một sự thực: điều khiến tâm hồn nàng
bình lặng nhất vẫn là cuộc sống cấm dục và tiết chế ấy. Điều nàng tha thiết nhất
không phải là ăn mặc đẹp rồi đi chơi với ai đó, mà chỉ là vận đồ thể thao, ngồi
một mình trong phòng tĩnh lặng.
Sau
cái chết của Tamaki, Aomame xin nghỉ việc ở công ty sản xuất đồ uống thể thao,
dọn ra khỏi khu ký túc xá đã ở nhiều năm, thuê một căn hộ có một phòng khách, một
phòng ngủ, kèm bếp và buồng vệ sinh ở khu Jiyugaoka. Nhà tuy không lớn, nhưng
nhìn qua lại thấy khá rộng. Dụng cụ nhà bếp đầy đủ, nhưng đồ đạc bày biện trong
nhà chỉ có mấy món tối thiểu. Những thứ sở hữu cũng ít. Tuy nàng thích đọc
sách, nhưng đọc hết quyển nào lại bán ngay quyển ấy cho tiệm sách cũ. Aomame
cũng thích nghe nhạc, nhưng không sưu tầm dĩa hát. Dù là thứ gì thì nàng vẫn thấy
đau khổ khi sở hữu những vật không ngừng nhiều lên trước mắt. Mỗi lần mua sắm,
nàng đều có cảm giác tội lỗi. Trong lòng thầm nhủ thứ này hay thứ kia thực ra
không cần thiết lắm. Nhìn quần áo và giày dép trong tủ, nàng lại cảm thấy khó
chịu, bực bội. Cuộc sống tự do đầy đủ này nhắc Aomame nhớ đến thủa thiếu thời
nghèo khó và mất đi tự do kia một cách châm biếm.
Nàng
thường tự hỏi, việc con người dành được tự do rốt cuộc có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ
lại là khéo léo thoát khỏi một nhà tù, để rồi tự chui vào một nhà tù lớn hơn?
Mỗi lần
nàng tiễn đưa gã đàn ông được chỉ định sang thế giới khác, bà chủ ở Azabu đều
trả cho một khoản thù lao. Đó là một gói tiền mặt được bao bọc kín bằng giấy,
không để tên và địa chỉ của người gửi cũng như người nhận, đặt bên trong hòm
thư cá nhân ở bưu điện. Aomame lấy chìa khóa hòm thư ở chỗ Tamaru, lấy món đó ở
bên trong, rồi trả lại chìa khóa. Nàng sẽ bỏ luôn túi giấy được gói kín ấy vào
két bảo hiểm trong ngân hàng, thậm chí chẳng buồn kiểm tra lại trong túi. Đã có
hai bao như thế, nằm lăn lóc như mấy cục gạch trong két bảo hiểm.
Ngay
tiền lương tháng Aomame cũng không tiêu hết. Nàng có một số tiền để dành nhất định.
Vì vậy không cần đến những món tiền này. Khi nhận thù lao lần đầu tiên, nàng đã
nói với bà chủ như vậy.
“Chẳng
qua chỉ là hình thức thôi,” bà chủ nhỏ nhẹ ôn tồn nói, “Cô cứ coi như đây là việc
làm thêm là được rồi, vì vậy cứ nhận trước đã. Nếu không thiếu tiền tiêu thì
không dùng đến cũng có sao? Nếu làm vậy mà vẫn cảm thấy không vui thì quyên tặng
nặc danh cho một tổ chức nào đó cũng được. Xử lý thế nào hoàn toàn là quyền tự
do của cô. Có điều, nếu cô chịu nghe một câu chân tình của tôi, thì tôi cảm thấy
tốt nhất là tạm thời cô đừng động đến món tiền này, cứ cất đâu đó để dành.”
“Nhưng
mà, tôi không muốn đem chuyện này ra đổi chác, mua bán,” Aomame nói.
“Tôi
hiểu cảm giác của cô. Nhưng chính vì mấy gã khốn kiếp đó đã ra đi thuận lợi,
nên mới không xảy ra chuyện kiện cáo ly hôn phiền phức, cũng không có chuyện
tranh giành quyền giám hộ con cái. Những người đàn bà đó không phải cả ngày nơm
nớp lo sợ chồng cũ đến trước cửa, đánh cho mặt mày biến dạng. Lại còn nhận được
tiền bảo hiểm nhân thọ, tiền dưỡng lão dành cho gia quyến người chết. Món tiền
cô nhận được này, cứ coi như là một cách cảm tạ của họ. Không nghi ngờ gì cả,
cô đã làm một việc đúng đắn. Nhưng không nên làm việc không công. Cô biết tại
sao không?”
“Tôi
không hiểu lắm,” Aomame thành thực trả lời.
“Bởi
vì cô không phải thiên sứ, cũng không phải thượng đế. Tôi hiểu rất rõ, hành động
của cô xuất phát từ tình cảm thuần túy, và cũng hiểu được tâm trạng không muốn
nhận tiền của cô. Nhưng tình cảm thuần khiết không tỳ vết thực ra là một thứ rất
nguy hiểm. Muốn sống với thứ ấy không phải chuyện dễ dàng chút nào. Vì vậy cô
phải ghim chặt tình cảm của mình xuống mặt đất, chắc như là mắc neo cho khinh
khí cầu ấy. Chính là vì mục đích này. Không phải chỉ cần mục đích đúng đắn, chỉ
cần tình cảm thuần khiết là muốn làm gì thì làm được đâu. Cô hiểu chứ?”
Aomame
nghĩ ngợi giây lát, rồi gật đầu. “Tôi không hiểu cho lắm. Nhưng tạm thời cứ làm
theo lời bà vậy.”
Bà chủ
mỉm cười, nhấp một ngụm trà hương thảo: “Đừng gửi vào tài khoản ngân hàng. Ngộ
nhỡ bị cục thuế phát hiện, họ sẽ nghi ngờ. Cô cứ bỏ tiền mặt vào trong két bảo
hiểm thuê của ngân hàng là được. Có lúc sẽ dùng đến.”
Tôi sẽ
làm thế, Aomame đáp.
Từ
câu lạc bộ về nhà, Aomame đang chuẩn bị bữa tối thì điện thoại đổ chuông.
“Aomame,”
một giọng nữ cất lên. Giọng hơi khàn khàn, là Ayumi.
Aomame
áp ống nghe vào tai, vươn tay văn nhỏ bếp ga, hỏi:
“Sao
vậy? Công việc cảnh sát thuận lợi chứ?”
“Tối
ngày phải viết phiếu phạt, xử lý xe đậu sai chỗ, bị toàn bộ thế giới căm ghét.
Chẳng có duyên với đàn ông, nhưng vẫn hăng hái làm việc thục mạng.”
“Tốt
quá.”
“Aomame
này, giờ cô đang làm gì đấy?”
“Đang
nấu bữa tối.”
“Ngày
kia cô rảnh không? Ý tôi là sau buổi chiều ấy,”
“Rảnh
thì có rảnh, nhưng tôi không định làm giống lần trước nữa đâu, đang muốn tạm
nghỉ chuyện ấy vài ngày.”
“Ừ,
tôi cũng vậy. Tạm thời không muốn làm việc đó nữa. Chỉ là mấy hôm nay không được
gặp cô, nên muốn gặp nói chuyện chút thôi.”
Aomame
nghĩ ngợi giây lát nhưng vẫn không thể quyết định ngay được.
“Ừm,
tôi đang dở tay xào rau,” Aomame nói, “Không ngơi ra được. Chừng ba mươi phút nữa
cô gọi lại có được không?”
“Được
rồi. Ba mươi phút nữa tôi gọi lại nhé.”
Aomame
gác máy, xào xong món rau, lại làm thêm món súp miso giá đỏ, ăn với cơm gạo lứt.
Nàng uống hết nửa lon bia, còn lại đổ vào bồn rửa bát. Rửa bát đũa xong xuôi, vừa
ngồi xuống sofa nghỉ ngơi, Ayumi lại gọi điện thoại tới.
“Nếu
được, tôi muốn ăn cơm với cô,” Ayumi nói, “Lúc nào cũng một mình, ăn chẳng thấy
ngon.’
“Cô
toàn ăn cơm một mình à?”
“Tôi ở
trong ký túc xá có nhà ăn, thường ngồi chung với mọi người, vừa ăn vừa nói chuyện
ầm ĩ. Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng muốn ăn một bữa ngon lành trong khung cảnh
yên tĩnh, thong dong. Tốt nhất là ở nơi nào cao cấp lịch sự một chút. Nhưng
không muốn đi một mình. Cô hiểu cảm giác ấy chứ?”
“Tất
nhiên.”
“Nhưng
mà, quanh tôi chẳng có ai cùng đi được trong những lúc như thế. Đàn ông cũng được
mà đàn bà cũng ổn. Nhưng họ đều chỉ thích đến mấy quán rượu nhỏ thôi. Thế nên
tôi nghĩ, biết đâu có có thể đi với tôi đến những chỗ đấy ăn cơm. Chắc là tôi
đã làm khó cô rồi phải không?”
“Không
hề,” Aomame nói, “Được đấy, chúng ta đi ăn một bữa ra trò đi. Tôi cũng lâu lắm
không đi tới mấy chỗ như thế rồi.”
“Thật
không đấy?” Ayumi nói. “Tôi vui quá!”
“Vừa
nãy cô bảo ngày kia được, đúng không nhỉ?”
“Phải.
Hôm sau tôi được nghỉ. Cô có biết tiệm nào ngon không?”
Aomame
nói tên một nhà hàng Pháp ở Nogizaka.
Ayumi
nghe thấy cái tên ấy liền hít vào một hơi dài. “Aomame à, có phải nhà hàng ấy nổi
tiếng lắm không? Hình như tôi đã đọc trên tờ tạp chí nào đó rồi thì phải thấy bảo
giá tiền đắt thôi rồi, đặt bàn cũng phải trước hai tháng mới được! Lương của
tôi không ăn nổi ở đó đâu.”
“Không
sao cả. Chủ nhà hàng kiêm đầu bếp chính ở đó là hội viên câu lạc bộ chỗ tôi,
tôi là huấn luyện viên riêng của ông ấy, tôi còn góp ý với ông ấy về giá trị
dinh dưỡng của các món trong thực đơn nữa kia. Chỉ cần đặt trước một tiếng là
có thể ưu tiên đặt bàn, giá tiền có thể rẻ đi nhiều. Tuy vị trí có thể không được
đẹp.”
“Không
sao, có xếp chỗ ngồi trong tủ tường cũng chẳng hề gì.”
“Vậy
cô phải ăn mặc đẹp vào nhé,” Aomame nói.
Sau
khi gác máy, Aomame chợt nhận ra mình rất có cảm tình với cô cảnh sát trẻ, và
thấy hơi ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên nàng có cảm tình với một người như vậy
với một người khác kể từ khi Otsuka Tamaki qua đời. Tất nhiên, tình cảm này
hoàn toàn khác hẳn với tình cảm nàng đã dành cho Tamaki trước đây. Mặc dù vậy
cũng lâu lắm rồi nàng không hề nghĩ đến chuyện ăn cơm với ai đó khác, thậm chí
còn cảm thấy đó là ý tưởng không tồi. Chẳng những thế, cô ta lại còn là một cảnh
sát đương chức! Aomame thở dài một hơi. Thế giới này đúng là không thể nào tin
nổi.
Aomame
mặc váy liền thân ngắn tay màu xanh xám, bên ngoài khoác thêm áo len ngắn màu
trắng, chân đi giày cao gót Salvatore Ferragamo, đeo hoa tai và một chiếc lắc
tay nhỏ bằng vàng, để túi đeo chéo thường ngày ở nhà (đương nhiên cả cái đục nước
đá kia nữa), đổi sang cầm một chiếc túi xách Bagagerie. Ayumi thì mặc một chiếc
jacket đơn giản màu đen của Comme des Garcons, áo T-shirt cổ rộng màu nâu, chân
váy kiểu lá sen in hoa nhỏ, cầm túi xách Gucci giống như lần trước, đeo một đôi
hoa tai ngọc trai, đi giày đế bằng màu nâu. So với lần trước, trông cô thanh
nhã đáng yêu hơn nhiều, không thể nhận ra đây lại là một cảnh sát.
Hai
người gặp nhau trước quầy bar, uống một chút cocktail mimosa, sau đó được dẫn
ra bàn. Chỗ ngồi cũng khá đẹp. Đầu bếp bước tới trò chuyện cùng Aomame, nói với
nàng rượu vang là quà tặng của nhà hàng.
“Xin
lỗi, chai đã mở rồi, vơi mất một chút do uống thử. Hôm qua, có vị khách không
hài lòng với chất rượu, nên đổi cho ông ta chai khác. Thực ra rượu này chẳng có
vấn đề gì cả. Ông khách ấy là chính trị gia có tiếng, được ca ngợi là đại gia về
rượu vang trong chính giới. Nhưng kỳ thực ông ta chẳng biết quái gì về rượu
vang cả, nhưng cứ cố ra vẻ ta đây hiểu biết trước mặt người khác thành ra mới
kén cá chọn canh vậy thôi, mở miệng ra là nói chai Bourgogne này sao lại có vị
chát thế nhỉ? Gặp loại khách ấy tôi cũng chịu chẳng biết nói làm sao nữa, đành
nói liều: “Vâng ạ, chắc là hơi có vị chát một chút. Có lẽ tại kho của bên nhập
khẩu có vấn đề gì đấy về bảo quản. Để tôi đổi ngay cho ông chai khác. Nhưng mà
ông XYZ đúng là ông XYZ, vừa nếm một chút là đã nhận ra ngay.” Sau đó lại đổi
cho ông ta chai khác. Vậy là xong xuôi. Tất nhiên, chuyện này không thể nói trắng
ra được…lúc thanh toán chỉ cần tăng thêm chút tiền là được rồi. Đằng nào thì
cũng là tiền tiếp khách của ông ta ấy mà. Nhưng dẫu sao, đồ của khách không vừa
ý trả lại, nhà hàng dĩ nhiên không thể coi như đồ mới mà đem ra cho khách khác
được.”
“Và
ông nghĩ mang ra chiêu đãi chúng tôi chắc là không sao phải vậy không?”
Đầu bếp
nheo nheo một mắt. “Chắc là không sao chứ?”
“Tất
nhiên là không sao rồi,” Aomame nói.
“Một
trăm phần trăm là không sao ấy chứ,” Ayumi cũng nói.
“Người
đẹp này có phải em gái cô không vậy?” tay đầu bếp hỏi Aomame.
“Anh
thấy giống không?”
“Mặt
mũi thì không giống lắm, nhưng tôi có cảm giác vậy.” Đầu bếp đáp.
“Bạn
tôi đấy,” Aomame nói, “Cô ấy là cảnh sát.”
“Thật
không?” gương mặt đầu bếp lộ vẻ hoài nghi, lại đưa mắt nhìn Ayumi lần nữa, “Cảnh
sát đeo súng đi tuần trên phố ấy à?”
“Chưa
bắn ai bao giờ đâu,” Ayumi nói.
“Tôi
chưa nói gì không phải đấy chứ?” đầu bếp hỏi.
Ayumi
lắc đầu: “Không, chắc chắn là không.”
Tay đầu
bếp mỉm cười chắp tay trước ngực. “Trước bất cứ người khách nào, tôi cũng đều
có thể đầy tự tin giới thiệu, đây là vang Bourgogne loại thượng hảo hạng. Nhãn
hiệu có tiếng, tuổi rượu cũng không tồi, bình thường ít nhất cũng phải mười
nghìn yên một chai.”
Nhân
viên phục vụ đi đến, rót rượu vang vào ly cho hai người. Aomame và Ayumi cụng
ly. Hai ly rượu khẽ chạm vào nhau, phát ra âm vang như tiếng chuông chốn thiên
đường.
“Ồ, lần
đâu tiên trong đời tôi uống rượu vang ngon thế này đấy,” Ayumi nhấp một ngụm,
nheo mắt nói, “Chẳng hiểu là thằng cha nào mà rượu ngon thế này còn không vừa
ý?”
“Dù
là thứ gì chăng nữa, thế nào cũng có người không vừa ý,” Aomame mói.
Sau
đó hai người chăm chú xem xét thực đơn. Ayumi dùng đôi mắt sắc bén của một vị
luật sư tài năng đang nghiên cứu bản hợp đồng hết sức quan trọng, đọc đi đọc lại
quyển thực đơn hai ba lần. Kiểm tra xem có chỗ quan trọng nào bị bỏ sót, hay có
lỗ hổng nào che dấu khéo léo hay không. Trong đầu suy tính các điều kiện và điều
khoản được nêu trên hợp đồng, nghiền ngẫm xem chúng sẽ dẫn đến kết quả ra sao.
Đặt lợi ích và tổn thất lên cán cân, đong đo kỹ lưỡng. Aomame ngồi ghế đối diện
lấy làm hứng thú quan sát bộ dạng ấy của cô.
“Quyết
định chưa?” Aomame hỏi.
“Cũng
tạm” Ayumi trả lời.
“Vậy
cô ăn gì?”
“Xúp
ngao, xa lát ba loại hành, thêm một phần óc bê nuôi ở Iwate hầm với rượu vang
Bordeaux nữa. Còn cô?”
“Xúp
đậu ván, một đĩa rau tổng hợp mùa xuân và cá bóng mú bọc giấy nướng ăn với bí
ngô. Có vẻ không hợp với vang đỏ, nhưng đã là đồ miễn phí thì cũng chẳng thể
nói gì được.
“Lát
có thể trao đổi món ăn thử một chút được không?”
“Tất
nhiên là được,” Aomame nói. “À, nếu cô không ngại, gọi thêm một phần tôm he rán
để uống rượu, chúng ta ăn chung được không?”
“Tuyệt
quá ấy chứ,” Ayumi nói.
“Chọn
xong đồ ăn thì tốt nhất nên gấp thực đơn lại,” Aomame nói, “Nếu không người phục
vụ sẽ chẳng bao giờ đến đâu.”
“Phải
rồi.” Nói đoạn Ayumi gấp quyển thực đơn lại, đặt lên bàn, điệu bộ như lưu luyến
lắm. Nhân viên phục vụ lập tức bước tới, mời hai người chọn món.
“Mỗi
lần vào tiệm ăn chọn món xong, tôi đều có cảm giác không hiểu mình có chọn nhầm
món hay không,” Ayumi nói sau khi nhân viên phục vụ đi khỏi, “Cô thì sao?”
“Dù
có chọn lầm, thì cũng chỉ là một bữa ăn thôi, so với những sai lầm trong đời
người thì có đáng gì.”
“Đương
nhiên,” Ayumi nói, “Nhưng với tôi thì lại là chuyện lớn đấy. Từ bé tôi đã vậy rồi,
lần nào cũng cứ chọn món xong là thấy hối hận, kiểu như là ‘ôi trời nếu không
chọn hamburger thịt bò mà ăn bánh chiên thịt tôm có phải hơn không’. Hồi nhỏ cô
có thế không?”
“Hồi
tôi còn nhỏ, vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà nhà tôi không có thói quen đi ăn
bên ngoài. Không đi ăn tiệm dù chỉ một lần. Vì vậy cho đến khi lớn, tôi chưa từng
có kinh nghiệm đi nhà hàng, mở thực đơn, chọn những món mình thích rồi nói với
nhân viên phục vụ. Ngày qua ngày, lúc nào cũng là người nhà bưng lên món gì tôi
lại ngoan ngoãn ăn hết món đó. Dù không ngon, dù quá ít, thậm chí dù đó là món
tôi ghét thì cũng không được phép phàn nàn. Nói thực với cô, cho đến bây giờ
tôi vẫn chẳng quan tâm xem mình ăn cái gì nữa.”
“Ồ,
ra là thế. Cụ thể thế nào thì tôi không rõ, nhưng mà đúng là không thể biết được.
Tôi cứ tưởng từ nhỏ cô đã quen ra vào những nơi thế này.”
Tất cả
những điều đó đều do Otsuka Tamaki vỡ lòng cho Aomame. Vào tiệm ăn cao cấp phải
đi lại nói năng thế nào, gọi món ra sao mới không bị coi thường, cách chọn rượu
vang, món tráng miệng, đối đáp với nhân viên phục vụ, rồi dùng dao ăn, dĩa và
thìa, tất cả những thứ ấy, Tamaki đều nắm rõ như lòng bàn tay, và dạy lại cho
Aomame kỹ càng tỉ mỉ. Cả cách chọn trang phục phối với đồ trang sức, trang điểm
Aomame cũng đều học được từ Tamaki. Đối với Aomame, tất cả những thứ ấy đều là
phát hiện mới. Tamaki lớn lên trong một gia đình giàu có, sống trong khu biệt
thự cao cấp, mẹ cô là nhà ngoại giao, nên rất chú ý đến cách ăn mặc và lễ nghi.
Vì vậy từ hồi còn học trung học, Tamaki đã thuộc làu những kiến thức xã hội ấy
rồi, thậm chí cả những nơi giành cho người lớn cô cũng nghênh ngang bước vào
như không. Aomame tham lam hấp thu toàn bộ những bí quyết đó. Nếu không gặp được
cô giáo giỏi như Tamaki, có lẽ nàng đã trở thành một người rất khác Aomame của
hiện tại. Thậm chí nhiều lúc nàng còn cảm thấy Tamaki vẫn đang còn sống, đang ẩn
náu ngay trong cơ thể mình.
Mới đầu
Ayumi hơi có vẻ căng thẳng, nhưng uống chút rượu vang rồi, tâm trạng dần bình
tĩnh trở lại.
“À,
tôi có câu này muốn hỏi cô,” Ayumi nói, “Nếu cô không muốn thì không trả lời
cũng chẳng sao, nhưng mà thực sự tôi muốn hỏi lắm lắm. Cô sẽ không giận chứ?”
“Không
đâu.”
“Câu
hỏi rất kỳ cục, nhưng tôi không có ác ý gì đâu, xin cô tin là thế. Tôi chỉ hơi
tò mò một chút. Nhưng có một số người nghe câu hỏi kiểu vậy sẽ nổi giận đùng
đùng.”
“Không
sao, tôi sẽ không giận.”
“Thật
không? Người khác ngoài miệng thì nói vậy nhưng rút cuộc thì vẫn nổi đóa.”
“Con
người tôi rất đặc biệt. Vì vậy không sao đâu.”
“Vậy,
hồi nhỏ có gã nào làm chuyện gì quái đản với cô không?”
Aomame
lắc đầu. “Tôi nghĩ là không. Sao thế?”
“Tôi
chỉ hỏi vậy thôi. Không có thì tốt.” Ayumi nói, rồi lại đổi chủ đề câu chuyện,
“À này, hồi trước cô có bạn trai không? Tôi muốn nói đến loại yêu đương nghiêm
túc ấy.”
“Không,”
“Không
có người nào à?”
“Không
có người nào hết,” Aomame trả lời, đoạn hơi ngập ngừng, “Nói thực cho cô biết,
mãi đến năm hai sáu tuổi tôi vẫn còn là gái trinh.”
Ayumi
nhất thời không thốt được câu nào. Cô đặt dao dĩa xuống, lấy khăn ăn ra lau
khóe miệng, sau đó nheo mắt, nhìn chằm chằm vào gương mặt Aomame hồi lâu.
“Một
người tuyệt vời như cô? Khó tin quá đi mất.”
“Hồi
đó tôi chẳng hứng thú gì với chuyện này hết.”
“Không
hứng thú gì sao?”
“Tôi
từng thích một người,” Aomame nói, “Hồi mười tuổi tôi có thích một người, còn nắm
tay cậu ấy nữa.”
“Mười
tuổi phải lòng một cậu trai. Chỉ có vậy thôi à?”
“Chỉ
vậy thôi.”
Ayumi
cầm dao dĩa lên cắt con tôm thành những miếng nhỏ trong lúc chìm sâu vào suy
nghĩ. “Vậy cậu ấy giờ đang ở đâu? Làm gì?”