Chương 12: Xin cho nước Người trị đến - P2
Dường
như ông đang yêu cầu đổi chủ đề câu chuyện.
“Ông
đọc qua Nhộng không khí chưa?” Tengo hỏi.
“Đương
nhiên là rồi.”
“Ông
thấy sao?”
“Một
câu chuyện thú vị,” Thầy giáo nói, “Đặc sắc, và đầy ẩn dụ. Nhưng rốt cuộc ám chỉ
điều gì, nói thực lòng, tôi cũng không hiểu lắm. Con dê núi mù mắt nghĩa là gì?
Người Tí Hon và Nhộng không khí có ý nghĩa gì?”
“Ông
có cho rằng câu chuyện này ám chỉ thực tế mà Eri từng trải qua hoặc tận mắt chứng
kiến khi ở Sakigake không?”
“Có lẽ
vậy. Nhưng rất khó phán đoán, rốt cuộc đâu là hiện thực, đâu là ảo tưởng. Vừa
giống chuyện thần thoại, lại vừa có thể hiểu như một phỏng dụ khéo léo.”
“Eri
nói với tôi, Người Tí Hon thực sự tồn tại.”
Thầy
giáo nghe xong, nét mặt liền trở nên nghiêm túc, giây lát sau ông mới nói: “Có
nghĩa là, cậu cho rằng câu chuyện được miêu tả trong Nhộng không khí là sự thật?”
Tengo
lắc đầu: “Điều tôi muốn nói là, mỗi một chi tiết trong câu chuyện đều được miêu
tả hết sức chân thật, rõ ràng, tỉ mỉ, đây là một điểm rất mạnh của cuốn tiểu
thuyết này.”
“Và cậu
định viết lại câu chuyện này theo văn phong của mình, chuyển những thứ có tính
ám chỉ sang một hình thái rõ nét hơn, phải vậy không?”
“Nếu
như thuận lợi.”
“Chuyên
ngành của tôi là nhân học văn hóa,” Thầy giáo nói, “Tuy từ lâu tôi đã không còn
làm nghiên cứu nữa, nhưng tinh thần ấy đến giờ vẫn thấm sâu vào cốt tủy. Một
trong những mục đích của ngành học này là so sánh hình ảnh cá biệt của mọi người,
từ đó phát hiện ra điểm chung mang tính phổ biến của nhân loại, sau đó lại xét
ngược trở lại trên mỗi cá nhân. Làm như vậy, con người có thể tìm được một vị
trí vừa độc lập vừa lệ thuộc vào một thứ gì đó. Cậu hiểu ý tôi không?”
“Tôi
nghĩ là hiểu.”
“Có lẽ
phải yêu cầu cậu cũng làm như vậy.”
Tengo
xòe hai tay trên đầu gối. “Có vẻ sẽ rất khó.”
“Nhưng
cũng đáng thử một phen.”
“Thậm
chí tôi còn không biết mình có tư cách ấy không nữa.”
Thầy
giáo chăm chú nhìn Tengo. Trong mắt ông chợt lóe lên một thứ ánh sáng kỳ lạ.
“Tôi
muốn biết rằng ở Sakigake, rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với Eri. Vợ chồng
Fukada đã trải qua số phận như thế nào. Trong bảy năm nay, tôi đã gắng sức tìm
cách giải mã sự thật ấy, nhưng không hề có lấy một manh mối. Có một bức tường
khổng lồ mà tôi không cách nào lay động được luôn án ngữ trước mặt. Biết đâu
trong Nhộng không khí có ẩn chứa điều mấu chốt để giải câu đố này. Cho dù khả
năng chỉ là rất nhỏ, nhưng chỉ cần có khả năng thôi, tôi tình nguyện đánh cược
một phen. Còn chuyện cậu có tư cách làm việc đó hay không, tôi không biết.
Nhưng cậu đã đánh giá cao Nhộng không khí, lại bị hút hồn vào trong tác phẩm.
Có lẽ đây đã là một thứ tư cách rồi.”
“Có một
chuyện tôi muốn xác nhận lại, câu trả lời là YES hay NO,” Tengo nói, “Hôm nay
tôi đến làm phiền cũng chính vì chuyện này. Thầy giáo Ebisuno, ông có cho phép
tôi viết lại tác phẩm Nhộng không khí không?”
Thầy
giáo gật đầu, rồi nói: “Tôi cũng muốn đọc thử Nhộng không khí do cậu viết lại.
Eri hình như cũng rất tín nhiệm cậu. Không ai được nó đối xử như vậy đâu. Đương
nhiên, phải trừ tôi và Azami ra. Vì vậy, cậu cứ làm đi. Chúng tôi hoàn toàn
giao phó tác phẩm ấy cho câu. Câu trả lời của tôi là: YES.”
Cuộc
trò chuyện vừa ngừng lại, sự im lặng liền bao trùm lên cả căn phòng như thể vận
mệnh đã được định đoạt. Đúng lúc đó, Fukaeri bưng trà bước vào, tựa như đã tính
toán chuẩn xác thời gian hai người nói chuyện xong.
Trên
đường về chỉ có một mình Tengo, Fukaeri đã ra ngoài dắt chó đi dạo. Thầy giáo gọi
taxi đưa Tengo đến ga tàu điện Futamatao. Sau đó ở ga Tachikawa anh đổi sang
chuyến về Tokyo.
Ở ga
Mitaka, Tengo ngồi đối diện với hai mẹ con. Bà mẹ và cô con gái ăn mặc gọn
gàng, sạch sẽ. Quần áo hai người chắc chắn không phải loại đắt tiền, cũng không
mới. Nhưng sạch sẽ, và được chăm chút chu đáo. Chỗ nào cần trắng thì trắng như
tuyết, là ủi phẳng phiu. Đứa con gái áng chừng học lớp hai hoặc ba, đôi mắt mở
to, gương mặt xinh xắn. Người mẹ gầy, tóc búi ra sau đầu, đeo kính gọng đen, cầm
theo chiếc túi xách bằng vải dày đã bợt màu. Hình như bên trong đầy các thứ lỉnh
kỉnh. Gương mặt cô rất cân đối, có điều ở đuôi khóe mắt thấp thoáng vẻ mệt mỏi
về tinh thần, khiến vẻ bề ngoài của cô nhìn già hơn tuổi thực. Đang là giữa
tháng Tư, nhưng cô lại mang theo ô che nắng. Ô che nắng cuộn chặt lại, trông giống
một cây gậy khô quắt queo.
Hai
người ngồi lặng yên trên ghế, không nói gì. Người mẹ dường như đang nghĩ ngợi
chuyện gì đó. Đứa con gái ngồi bên cạnh không có việc gì làm, chốc chốc cúi
nhìn xuống mũi giày, rồi nhìn sàn tàu, hay ngẩng đầu lên nhìn những mảnh giấy
quảng cáo trên trần toa xe rủ xuống, hoặc liếc sang chỗ Tengo ngồi đối diện,
như thể xem một loại động vật quý hiếm vô hại. Thân hình và đầu cô bé gần như
không nhúc nhích, chỉ có cặp mắt là hoạt bát đảo qua đảo lại, quan sát sự vật ở
xung quanh.
Hai mẹ
con xuống tàu ở ga Ogikubo. Tàu điện vừa bắt đầu giảm tốc, người mẹ đã cầm ô đứng
dậy. Tay trái cầm ô che nắng, tay phải xách túi vải. Đứa con gái cũng lập tức đứng
lên theo mẹ. Lúc đứng dậy, cô bé lại liếc mắt nhìn Tengo. Đôi mắt ánh lên một
tia nhìn kỳ lạ, như đang yêu cầu, lại như thể muốn thổ lộ. Tuy chỉ là một ánh
nhìn yếu ớt, nhưng Tengo cảm nhận được rất rõ ràng. Cô bé ấy đang phát đi tín
hiệu… anh cảm thấy thế. Nhưng chẳng cần nói, dù tín hiệu ấy có phát đến. Tengo
cũng không làm gì được. Anh không hiểu nội tình, cũng chẳng có tư cách gì để
can dự. Cô bé và mẹ cùng xuống tàu ở ga Ogikubo, cửa toa đóng lại, Tengo ngồi bất
động, tiếp tục tiến về ga sau. Chỗ cô bé vừa ngồi lúc nãy có ba học sinh cấp
hai, có vẻ như đang trên đường về nhà sau kỳ thi thử, bắt đầu nói chuyện ầm ĩ.
Nhưng trong một khoảnh khắc, dư ảnh lặng lẽ của cô bé vẫn còn lưu lại nơi ấy.
Đôi mắt
cô bé ấy khiến Tengo nhớ đến một cô bé khác. Đó là cô bé cùng lớp với anh trong
hai năm lớp ba, lớp bốn. Cô có đôi mắt to giống như cô bé ban nãy. Cô đã từng
dùng cặp mắt ấy nhìn chăm chú vào Tengo. Rồi sau đó…
Cô bé
kia và cha mẹ là tín đồ của một tổ chức tôn giáo tên là “Chứng nhân Jehovah”.
Đó là một nhánh của đạo Cơ Đốc, tin theo thuyết ngày tận thế, rất nhiệt tình với
các hoạt động truyền giáo, và nhất nhất tuân theo mọi điều được viết trong Kinh
Thánh. Chẳng hạn như hoàn toàn không chấp nhận truyền máu. Vì vậy, nếu gặp tai
nạn giao thông mà bị thương nặng thì tỷ lệ sống sót sẽ giảm xuống còn rất thấp.
Cũng không được chấp nhận cho làm đại phẫu. Bù lại, khi đến ngày tận thế, họ sẽ
được Thượng đế chọn làm những kẻ sống sốt. Có thể sống mãi ở thế giới cực lạc.
Cô bé
ấy cũng như cô bé vừa rồi, có đôi mắt to tròn rất đẹp. Một đôi mắt khiến người
ta khó mà quên nổi. Gương mặt cũng rất xinh xắn. Trên gương mặt cô dường như
lúc nào cũng phủ một lớp màng mỏng trong suốt. Để loại trừ cảm giác bản thân
mình tồn tại. Nếu không cần thiết, cô không bao giờ mở miệng trước mặt người
khác, cũng không hề bộc lộ xúc cảm qua nét mặt. Cặp môi mỏng lúc nào cũng mím
chặt thành một đường tơ.
Khi
đó Tengo chú ý đến cô, vì cuối tuần nào cô cũng cùng mẹ đi truyền giáo. Trong
gia đình tín đồ Chứng nhân Jehovah, trẻ con từ khi biết đi đã được yêu cầu tham
gia hoạt động truyền giáo cùng cha mẹ. Bắt đầu từ khoảng ba tuổi, chủ yếu là đi
bộ với mẹ, gõ cửa từng nhà, phát cho họ một tập sách nhỏ tên là Trước đại hồng
thủy, truyền bá giáo lý của giáo phái Chứng nhân Jehovah. Họ giải thích với mọi
người một cách dễ hiểu rằng trên thế giới đã xuất hiện bao nhiêu điềm báo của sự
diệt vong. Họ gọi Chúa là “Đức Ngài”. Dĩ nhiên, gần như lần nào họ cũng bị từ
chối, đóng cửa đánh “sầm” một tiếng ngay trước mũi. Vì giáo lý của họ quá hẹp
hòi, chỉ nghĩ đến mình mà xa rời hiện thực… ít nhất là cũng khác xa với hiện thực
mà hầu hết mọi người trên thế giới này nhận biết. Nhưng rất hiếm thấy, thi thoảng
cũng có người nghiêm túc lắng nghe bọn họ truyền đạo. Trên đời lúc nào cũng có
những người muốn tìm đối tượng chuyện trò, cho dù đối phương nói chuyện gì đi
chăng nữa. Hơn nữa, cũng hết sức hiếm, trong đó ngẫu nhiên cũng có người đến
tham gia các buổi tụ họp với họ. Vì một phần nghìn khả năng này, họ đi khắp các
ngõ phố, ấn chuông cửa từng nhà một. Bọn họ cứ nỗ lực không ngừng nghỉ như thế,
dù hiệu quả rất thấp, để giúp thế giới này giác ngộ, đó chính là sứ mệnh thần
thánh họ được ơn trên ban cho. Sứ mệnh này càng khó khăn, ngưỡng cửa càng cao,
thì phúc lành ban cho họ sẽ càng lớn.
Cô bé
ấy theo mẹ đi khắp nơi truyền giáo. Người mẹ một tay xách chiếc túi vải nhét đầy
các tập Trước đại hồng thủy, tay kia thường cầm ô che nắng. Cô bé đi cách mấy
bước phía sau, lúc nào cũng mím chặt môi thành một đường thẳng, nét mặt vô cảm.
Khi theo cha đi khắp các nhà thu phí đài NHK, Tengo từng mấy lần đi ngang qua
cô bé. Tengo nhận ra cô, cô cũng nhận ra Tengo. Mỗi lần như thế, trong mắt cô đều
có thứ gì đó ánh lên thầm lặng. Dĩ nhiên bọn họ chưa bao giờ nói chuyện, thậm
chí cả một câu chào hỏi cũng không. Cha Tengo bận rộn với việc nâng cao hiệu suất
thu phí, còn mẹ cô bé thì bận việc tuyên truyền ngày tận thế định mệnh sắp
giáng xuống. Cậu bé và cô bé chỉ trao đổi ánh mắt trong một khoảnh khắc, khi lướt
qua nhau ở góc phố ngày Chủ nhật.
Cả lớp
đều biết cô bé là tìn đồ của giáo phái Chứng nhân Jehovah. Vì “lý do giáo lý”
nên cô không dự các hoạt động mừng Giáng sinh, cũng không tham gia các cuộc dã
ngoại hoặc tham quan ở đền thờ Thần đạo, chùa chiền. Cô không bao giờ tham dự đại
hội thể thao, cũng không hát bài ca của trường và cả quốc ca. Cách làm chỉ có
thể gọi là “cực đoan” ấy khiến cô càng lúc càng bị cô lập trong lớp. Hơn nữa, mỗi
lần trước khi ăn cơm trưa, cô đều phải đọc một lời cầu nguyện đặc biệt, và phải
đọc to và dõng dạc, để mọi người đều có thể nghe thấy. Tất nhiên, lũ trẻ xung
quanh đó đều cảm thấy lời cầu nguyện này nghe rợn tóc gáy. Chắc chắn cô bé cũng
không muốn làm vậy trước bao nhiêu con mắt nhìn mình chằm chằm, nhưng cô được
huấn luyện để tin rằng cần phải đọc lời cầu nguyện trước khi ăn, dù không có những
tín đồ khác ở bên cạnh, cũng không thể làm qua quýt được. “Đức Ngài” ở trên
cao, mọi chuyện dù nhỏ nhặt nhất cũng không thể qua nổi mắt Người.
Lạy
Chúa của chúng con ở trên Trời, xin cho danh Người cả sáng, xin cho nước Người
trị đến. Xin Người thứ tội chúng con. Xin Người ban phúc cho những tiến bộ nhỏ
nhoi của chúng con. Amen.
Ký ức
là thứ thật kỳ lạ, chuyện từ hai mươi năm trước, vậy mà Tengo vẫn còn nhớ được
y nguyên lời cầu nguyện ấy. Xin cho nước Người trị đến. Mỗi lần nghe câu đó, cậu
học sinh tiểu học Tengo lại bất giác thầm nghĩ: “Đó là đất nước như thế nào nhỉ?”
Ở đó có đài NHK không? Chắc là không có rồi. Nếu không có đài NHK thì cũng
không có người đi thu phí. Nếu như vậy, đất nước ấy đến sớm một chút thì hay.
Tengo
chưa lần nào nói chuyện với cô. Tuy học cùng lớp nhưng cậu chưa bao giờ có cơ hội
bắt chuyện. Cô lúc nào cũng rời xa tập thể, cô độc một mình, nếu không bắt buộc,
cô chẳng mở miệng với ai. Tất nhiên không thể tự dưng đi tới trước mặt mà chào
cô được. Nhưng trong lòng, Tengo cảm thấy thông cảm với cô. Giữa họ còn có một
điểm chung đặc biệt, đó là ngày nghỉ đều phải theo cha mẹ đi khắp nơi ấn chuông
cửa nhà người ta. Mặc dù việc truyền giáo và chuyện thu phí không giống nhau,
nhưng Tengo hiểu việc ép buộc trẻ con đóng những vai như thế sẽ gây tổn hại tới
tâm hồn chúng nghiêm trọng đến mức nào. Ngày Chủ nhật, trẻ con lẽ ra phải được
thỏa thích vui chơi cùng chúng bạn, chứ không phải đi dọa dẫm người ta đòi tiền
truyền hình, cũng không phải đi khắp nơi tuyên truyền về ngày tận thế đáng sợ.
Những chuyện ấy… nếu thực cần phải làm… thì để người lớn đi làm là được rồi.
Chỉ một
lần, vì chút tình cờ, Tengo đã chìa tay ra giúp cô bé. Đó là mùa thu năm lớp bốn,
trong giờ thực hành khoa học tự nhiên, người bạn chung bàn thí nghiệm đã buông
những lời nặng nề với cô. Vì cô nhầm các bước thí nghiệm. Tengo không nhớ cô mắc
sai lầm gì. Khi ấy có một bạn nam đã nhắc chuyện cô tham gia hoạt động truyền
giáo Chứng nhân Jahovah để chế giễu cô. Rằng cô đi từ nhà nọ đến nhà kia, phát
những cuốn sách nhỏ ngu ngốc. Và gọi cô là “Đức Ngài”. Đây là chuyện rất hi hữu.
Vì bình thường mọi người không bắt nạt cũng không chòng ghẹo cô, chỉ coi cô như
một thứ gì đấy không hề tồn tại, hoàn toàn không cần để mắt tới. Nhưng trong
các bài tập đòi hỏi hợp tác như thí nghiệm khoa học, không thể gạt một mình cô
bé ấy ra ngoài được. Những lời nhiếc móc khi ấy cũng khá ác độc. Tengo vốn ở một
tổ khác, dùng bàn thí nghiệm bên cạnh, nhưng anh không thể nhắm mắt làm ngơ.
Không hiểu vì sao, nhưng anh chỉ cảm thấy mình không nên bỏ mặc như thế.
Tengo
bước đến chỗ cô bé, bảo cô đổi sang tổ mình. Không nghĩ ngợi gì nhiều, cũng
không do dự, anh làm gần như theo phản xạ. Rồi anh tỉ mỉ chỉ cho cô các điểm
quan trọng khi làm thí nghiệm. Cô bé chăm chú nghe Tengo giải thích, cố gắng lý
giải, rồi không phạm phải sai lầm tương tự lúc nãy nữa. Học cùng lớp hai năm,
đó là lần đầu tiên (cũng là lần cuối cùng) Tengo nói chuyện với cô. Tengo học
giỏi, lại cao lớn khỏe mạnh, mọi người đều nhìn anh với ánh mắt khác. Vì vậy
không ai trêu chọc anh vì đã đứng ra bảo vệ cô bé, ít nhất là trong trường hợp ấy.
Nhưng vì đã che chở cho “Đức Ngài”, uy tín của anh trong lớp vô hình trung bị
giảm xuống một cấp. Có lẽ anh bị cho là đã dính bùn nhơ vì liên quan đến cô bé ấy
không chừng.
Nhưng
Tengo hoàn toàn không để ý, vì anh biết rõ cô là một cô bé hết sức bình thường.
Nếu cha mẹ cô không phải là tín đồ của Chứng nhân Jehovah thì cô sẽ trưởng
thành như mọi cô bé bình thường khác, được mọi người chấp nhận, chắc chắn sẽ có
những người bạn tốt. Nhưng vì cha mẹ là tín đồ Chứng nhân Jehovah, nên ở trường
cô bị đối xử như người vô hình, không ai nói chuyện, thậm chí là không ai buồn
để mắt nhìn tới. Tengo cảm thấy như vậy thật không công bằng.
Sau
chuyện đó, Tengo và cô bé không nói chuyện gì với nhau nữa. Không cần thiết phải
nói chuyện, và cũng không có cơ hội để nói. Nhưng mỗi lần ánh mắt tình cờ gặp
nhau, nét mặt cô liền thoáng hiện lên một vẻ căng thẳng khó nhận ra. Anh lại thấy
rất rõ. Có lẽ hành động của Tengo trong giờ thí nghiệm khoa học khiến cô cảm thấy
phiền toài. Cũng có thể cô phẫn nộ, thấy anh thật lắm chuyện. Tengo không biết.
Khi ấy anh vẫn còn là một đứa trẻ, không thể nhận ra những biến đổi tâm lý tinh
tế từ nét mặt của người khác.
Sau
đó, có một hôm, cô bé đã nắm tay Tengo. Đó là một buổi chiều nắng ráo đầu tháng
Mười hai, ngoài cửa sổ có thể trông thấy bầu trời cao và những áng mây thẳng tắp
màu trắng. Trong lớp học đã được quét dọn sạch sẽ sau giờ tan lớp, tình cờ chỉ
còn lại Tengo và cô bé ấy, không còn ai khác. Cô bé quả quyết rảo bước đi ngang
lớp học đến trước mặt Tengo, đứng bên cạnh anh. Sau đó cô không do dự nắm lấy
tay Tengo, ngẩng mặt nhìn anh chăm chú (Tengo cao hơn cô chừng mười xăng ti
mét). Tengo giật mình kinh ngạc, cùng chăm chú nhìn lại cô, ánh mắt hai người gặp
nhau. Tengo thấy đôi mắt cô sâu thẳm lạ thường. Cô bé ấy cứ lặng lẽ nắm tay anh
thật lâu, nắm chặt, không buông lơi ra dù chỉ trong chớp mắt. Sau đó, cô buông
tay, vạt váy tung lên phấp phới, chạy thẳng ra khỏi lớp học.
Tengo
không hiểu gì cả, trợn tròn mắt đứng yên bất động. Ý nghĩ đầu tiên của anh là,
may mà không ai nhìn thấy. Ngộ nhỡ có ai trông thấy, có trời mới biết chuyện sẽ
ầm ĩ lên thế nào. Anh đảo mắt nhìn quanh, trước tiên là thở phào nhẹ nhõm. Sau
đó lại chìm vào cảm giác bối rối sâu sắc.
Hai mẹ
con ngồi đối diện với anh từ ga Mitaka đến ga Ogikubo biết đâu cũng là tín đồ của
Chứng nhân Jehovah đang đi truyền giáo ngày Chủ nhật. Cái túi vải phồng lên đó
có vẻ như cũng đang nhét đầy những tập Trước đại hồng thủy nhỏ bé. Cái ô che nắng
trong tay người mẹ và ánh sáng lóe lên trong mắt cô bé gợi Tengo nhớ tới cô bạn
cùng lớp ít nói năm xưa.
Không,
hai người trên tàu điện có lẽ không phải tín đồ của Chứng nhân Jehovah, có thể
chỉ là một cặp mẹ con bình thường đang tới một lớp học ngoại khóa nào đó. Trong
túi vải ấy chỉ là nhạc phổ cho đàn dương cầm, hoặc bộ đồ để luyện thư pháp. Chắc
là mình quá mẫn cảm với mọi sự vật hiện tượng rồi, Tengo thầm nhủ. Anh nhắm mắt,
chầm chậm thở nhẹ ra. Ngày Chủ nhật dòng chảy thời gian cũng kỳ lạ, vô số cảnh
tượng đều bị bóp méo một cách quái dị.
Về đến
nhà, Tengo nấu mấy món đơn giản ăn cho qua bữa. Nghĩ kỹ lại, thực ra anh còn
chưa ăn trưa. Sau bữa tối, anh sực nhớ ra phải gọi điện cho Komatsu, chắc chắn
anh ta muốn biết kết quả cuộc gặp gỡ hôm nay. Nhưng hôm nay Chủ nhật, anh ta
không đi làm. Tengo không biết số điện thoại nhà Komatsu. Thôi vậy. Nếu muốn biết
tình hình, chắc anh ta sẽ gọi điện.
Kim
giờ đồng hồ vừa chạy qua số mười, Tengo đang định lên giường ngủ thì chuông điện
thoại reo. Anh đoán là Komatsu, cầm ống nghe, không ngờ lại là tiếng của người
tình lớn tuổi.
“A
lô, chiều ngày kia em qua chỗ mình một lúc được không? Nhưng không ở lâu được
đâu,” cô ta nói.
Sau
lưng có thể nghe thấy tiếng dương cầm khe khẽ. Hình như chồng cô chưa về nhà.
Được thôi, Tengo trả lời. Nếu cô đến, việc viết lại Nhộng không khí sẽ phải tạm
ngừng lại. Nhưng nghe giọng cô, Tengo cảm thấy mình đang khát khao thân thể đó
một cách mãnh liệt. Sau khi gác máy, anh vào bếp, rót rượu whiskey Bourbon
Kentucky vào ly thủy tinh, đứng trước bồn rửa bát nốc một hơi cạn sạch. Sau đó
leo lên giường, đọc mấy trang sách rồi mệt mỏi ngủ thiếp đi.
Ngày
Chủ nhật kỳ lạ dài dằng dặc của Tengo đã kết thúc như vậy.