Tam sinh tam thế - Thập lý đào hoa - Chương 14

Chương 14:

Nàng cũng từng tràn trề sắc xuân

Mấy
ngàn năm đầu sau khi Mặc Uyên về cõi tiên, ta khổ sở đợi chờ, ngày ngày đều
mong ngóng sẽ nằm mơ thấy người, để hỏi người một câu rốt cuộc bao giờ người
quay lại. Mỗi lần đêm xuống, chìm vào giấc mộng, ta đều nhẩm câu hỏi này năm,
sáu lượt, mấy chữ thuộc lòng như cháo chảy, chỉ sợ lúc nằm mơ thấy Mặc Uyên, sẽ
kích động quá mà quên mất. Nhưng vì mộng chẳng thành, sau này ta cũng dần quên
tâm tư ấy. Nhưng cuối cùng nền tảng của quá khứ thật quá kiên cố, giấc mộng này,
ta vẫn nhớ lôi cái câu hỏi cũ rích ấy ra.

Bản
thượng thần quả bội phục sự anh minh của mình.

Giấc
mộng bắt đầu, cảnh mở đầu chính là cảnh tượng Chiết Nhan dẫn ta lên núi Côn
Luân bái sư.


mẹ ta sinh được bốn người con trai, khó khăn lắm mới sinh hạ được một mụn gái,
hơn nữa mụn con gái này đã mang tật ngay từ khi còn là bào thai, khi ta sinh ra
thể chất yếu ớt, cả động Hồ Ly đều lo lắng cho ta. Bốn ca ca đều được nuôi dạy
khá thoải mái, còn ta thì khác, ăn uống ngủ nghỉ đều vô cùng nghiêm ngặt, ngoài
động Hồ Ly ra, không được phép đi đâu ngoài Thanh Khâu và rừng đào mười dặm của
Chiết Nhan. Vất vả suốt hai vạn năm, ta đã được nuôi dạy khỏe mạnh, nhưng họ vẫn
chưa an tâm.

Khi
ta hai vạn tuổi, cha mẹ vì một số chuyện mà không thường xuyên ở Thanh Khâu, bèn
bảo tứ ca đến trông nom ta.

Cần
phải biết rằng tứ ca rất giỏi giữ sĩ diện, bề ngoài vờ vịt ngoan ngoãn vâng lời,
mà sau lưng thì chuyên gây thị phi.

Ta
vô cùng ngưỡng mộ tứ ca.

Ngự
lệnh của cha ta vừa ban xuống, tứ ca nhấm nhấm ngọn cỏ, ngồi trước động Hồ Ly,
nhìn ta hiền từ hỏi: “Từ bây giờ trở đi, tứ ca sẽ chăm nom muội. Trứng chim lấy
được trên cây, ta một quả, muội một quả; cá câu ở dưới hồ, ta một con, muội
cũng một con”.

Ta
vỗ tay tán thưởng tứ ca.

Khi
ấy, Chiết Nhan đã rất quan tâm tới tứ ca, chỉ cần lôi danh hiệu của lão ra, thì
họa lớn đến đâu có thể sóng yên bể lặng hết. Thế nên suốt ba vạn năm liền, tứ
ca dẫn theo ta “chọc trời khuấy nước mặc dầu, dọc ngang nào biết trên đầu có
ai”.

Đến
khi cha mẹ ta có thời gian rảnh rỗi nghĩ tới chuyện dạy dỗ đứa con gái độc nhất
thì cảm thấy đã sinh con gái thì nên dạy nó sao cho thùy mị, dịu dàng, nho nhã
đoan trang, nhưng lúc ấy ta đã bị tứ ca làm hư rồi.

Cũng
may trong năm vạn năm cùng tứ ca rong chơi ở Thanh Khâu, huynh muội ta đã gây
ra không ít việc vặt nhưng lại chẳng gây ra họa lớn, ngày tháng trôi qua hết sức
an vui, tính cách của hai người bọn ta khó tránh có chút ngây thơ, kiêu ngạo,
hoàn toàn không thể bì được với khí độ bây giờ của Dạ Hoa.

Bản
thượng thần luôn lo lắng, Dạ Hoa bây giờ mới chưa quá năm vạn tuổi, cho dù
không phải ngây thơ, cũng ít nhiều phải có dáng vẻ hoạt bát. Vậy mà hắn lại trầm
mặc thế kia, trên con đường đời hắn đã chịu không ít giày vò, trải qua biết bao
cú sốc, kinh qua biết bao dâu bể!

Nói
lại khi ta năm vạn tuổi.

Khi
ấy, mẹ ta thấy ta như vậy thì rầu rĩ lắm. Trước là lo ta không lấy được chồng,
đóng cửa động Hồ Ly suy nghĩ mất nửa tháng trời, sau đến một ngày hoàng đạo,
ông trời mở mắt, để mẹ ta ngộ ra tuy tính cách ta chẳng ra sao nhưng dáng vẻ
cũng không đến nỗi nào, dù sao cũng không nên gả đi, mới vợi bớt lo âu.

Nhưng
không lâu sau lại nghe được một tin đồn từ chỗ Mê Cốc, nói rằng trong một thủy
phủ ở dưới chân núi liền kề, có nhà họ Chúc Âm(*) mới gả con gái đi. Tiểu Chúc
Âm vì thuở nhỏ mồ côi mẹ, không có ai dạy dỗ, nên tính cách có hơi yếu đuối, sợ
khổ sợ mệt, khiến cho mẹ chồng ghét, ngày ngày đều kiếm cớ để mắng mỏ nàng ta.
Tiểu Chúc Âm không nhẫn nhịn được mới gả được đi được chưa đầy ba tháng đã khóc
lóc ầm ĩ trở về nhà mẹ đẻ.

(*) Còn gọi là Chúc Long, là một trong sáu thần sáng thế
của thời thượng cổ Trung Quốc, là vị thần mình rắn mặt người trong truyền thuyết
Trung Quốc. Có ghi chép trong sách Sơn Hải kinh (ND).

Nghe
nói Tiểu Chúc Âm vì là dâu mới bị bắt nạt, lại nhìn thấy dáng vẻ của ta, mẹ ta
lại càng buồn bực lo lắng hơn. Bà cảm thấy với tính cách của ta, dù có gả đi được,
thì cũng sẽ một ngày bị mẹ chồng đánh cho ba trận. Nghĩ tới sau này ta có thể
phải chịu khổ, hễ nhìn thấy ta là mẹ ta lại rớt nước mắt.


một lần, Chiết Nhan đến động Hồ Ly chơi, đúng lúc mẹ ta đang âm thầm lau nước mắt,
bèn hỏi duyên cớ làm sao, trầm ngâm giây lát mới than rằng: “A đầu này đã lớn
như vậy, tính cách cũng không thay đổi được. Bây giờ chỉ có thể cho nó học hỏi
chút bản lĩnh, sau này về nhà chồng, trên là tộc trưởng quản lý mọi việc trong
tộc, dưới là tiểu đồng quét dọn, không có kẻ nào giỏi hơn nó, thì dù nó có ngây
thơ kiêu ngạo, cũng sẽ không bị ấm ức”.

Mẹ
ta nghe xong những lời ấy, cảm thấy có lý bèn đồng tình, vỗ đùi một cái, sự việc
đã được quyết định như thế.

Xưa
nay mẹ ta luôn là người mạnh mẽ, cảm thấy đã thành tâm thành ý tìm cho ta một vị
sư phụ để học hỏi thì sẽ phải tìm một sư phụ giỏi nhất trong bốn bể tám cõi mới
không uổng phí tâm tư này của người.

Đắn
đo hơn nửa tháng trời cuối cùng đã chọn thượng thần Mặc Uyên, cai quản âm nhạc
và chiến tranh sống trên núi Côn Luân.

Trước
đó ta chưa bao giờ gặp Mặc Uyên nhưng tên tuổi của người thì lại quá quen thuộc.

Khi
ta và tứ ca chào đời, chiến sự trong bốn bể tám cõi đã không còn liên miên, thi
thoảng mới diễn ra một trận, mà có thì cũng chỉ là những trận chiến nho nhỏ,
người bề trên chẳng cần lộ diện. Các trưởng bối có lúc cũng kể lại những trận
chiến lớn thực sự từ lúc phân chia âm dương, lưỡng nghi, ví dụ như tám cõi nổi
giận ra sao, chín châu nhuộm máu thế nào, đám đàn ông đã ngoan cường cứng cỏi,
da ngựa bọc thây ra sao, rồi lập công lập nghiệp thế nào, nói đến mức ta và tứ
ca đều đau cả đầu.

Khi
ấy, trong Thần tộc còn lưu truyền rất nhiều điển tịch ghi chép về những chiến sự
thời viễn cổ, hai huynh muội ta rất hiếu
học, thường xuyên đến mượn đám tiên hữu quen thuộc về đọc. Hoặc tự mình cũng có
đôi bản sách quý, trao đổi với họ.

Trong
những điển tịch này, đâu đâu cũng bắt gặp bóng dáng của Mặc Uyên. Đám thiên
quan viết sách đều khen tư thế của người uy vũ, trên người mặc khôi giáp Huyền
Tinh, tay cầm kiếm Hiên Viên, nào là chiến thần bất bại.

Ta
và tứ ca ngưỡng mộ người khôn xiết, thầm tưởng tượng dáng vẻ oai phong của người
trông như thế nào.

Ngưỡng
mộ chân thành, thảo luận hơn một năm, chúng ta cảm thấy vị thượng thần Mặc Uyên
này hẳn phải có bốn cái đầu, mỗi cái đầu trông về một hướng, con ngươi tròn xoe
như gương đồng, tai to như quạt cỏ bồ, trán vuông, miệng rộng, vai tay lưng đều
rộng, dày như núi đá, hai chân hai cánh tay đều thô ráp như đá tảng, thổi một
hơi là dậy cơn cuồng phong, giậm một chân là đất rung chuyển. Chúng ta suy nghĩ
trăn trở, cho rằng phải như thế mới có thể thể hiện sự nhanh nhạy hơn người,
thông minh mẫn tiệp, tráng kiện bền bỉ của một cao nhân đệ nhất. Phác thảo xong
tư thế oai nghiêm của Mặc Uyên, ta cùng tứ ca phấn chấn chạy đến tìm nhị ca vẽ
tranh rất đẹp, xin huynh ấy vẽ cho chúng ta hai bức tranh, treo trong nhà để
ngày ngày ngắm nghía.


thế nên vừa nghe nói sẽ bái Mặc Uyên làm thầy, ta đã không kìm được kích động.
Tứ ca cũng muốn đi cùng ta, nhưng lại bị Chiết Nhan ngăn lại, thành ra giận dữ
mất mấy ngày.

Chiết
Nhan dẫn ta cưỡi một đám mây lành trong hai canh giờ, cuối cùng đến một ngọn
núi tiên rất thâm u. Ngọn núi này hoàn toàn khác với Thanh Khâu, cũng khác với
rừng đào mười dặm, ta cảm thấy vô cùng mới mẻ.


hai tiểu tiên đồng đã đứng trước cửa núi chờ, dẫn bọn ta vào trong một đại sảnh
rộng rãi. Trong đại sảnh có một nam tử mặc áo bào đen ngồi sẵn đó, lấy tay chống
cằm, dựa đầu vào vai, thần sắc lạnh nhạt, khuôn mặt hơi hơi ẻo lả.

Ta
thực sự không biết nữ tính là thế nào, chỉ nghe tứ ca nói qua loa, gương mặt tuấn tú của Chiết Nhan kia là đẹp,
nếu không bằng Chiết Nhan thì diện mạo tầm thường, nếu đẹp hơn Chiết Nhan thì
chính là ẻo lả. Câu nói chẳng ra sao này của tứ ca ta luôn ghi nhớ trong lòng.


ta được tứ ca nuôi dạy từ bé nên luôn nghe lời huynh ấy, đến huynh ấy nói bức
tranh mà chúng ta cùng tưởng tượng ra đang được treo trong phòng kia là một vẻ
đẹp tuấn tú không gì lý giải nổi, ta cũng vẫn tin theo mà không nghi ngờ, luôn
âm thầm cố gắng để trở thành như thế.

Cho
nên, khi Chiết Nhan dẫn ta đến núi Côn Luân, cất tiếng chào hỏi với vị thư sinh
mặc áo bào đen này: “Mặc Uyên, bảy nghìn năm nay chẳng thay đổi gì”. Ta đã bị sốc
nặng. Đôi mắt vừa dài vừa nhỏ của người có thể nhìn khắp thiên lý sao? Đôi tai
mảnh dẻ của người có thể nghe thấu tám hướng? Đôi môi mỏng của người có thể
phát âm thanh lí nhí như muỗi kêu có thể khiến người ta phải lắng nghe sao?
Thân hình gày gò của người có thể nhấc nổi kiếm Hiên Viên - đứng hàng thứ hai
trong thần khí của tám cõi sao?

Ta
cảm thấy những công lao sự nghiệp to lớn ghi chép trong điển tịch đều là lừa gạt
cả, cảm giác niềm tin sụp đổ ập tới, ta nắm tay Chiết Nhan mà đau lòng vô hạn.

Khi
Chiết Nhan giao ta cho Mặc Uyên, còn ân cần dặn dò một lượt mấy lời nhảm nhí,
như: “Đứa trẻ này không cha không mẹ, ta thấy nó bị vứt trong khe núi nên nhặt
về, chỉ còn thoi thóp thở, dáng vẻ tiều tụy nhếch nhác, sau khi tắm rửa mới nhận
ra là một con bạch hồ ly”. Ví dụ như: “Ta nuôi nó đã năm vạn năm, nhưng gần đây
nó càng lớn càng đẹp, người ấy nhà ta có hơi ghen”. Lại như: “Ta đưa nó tới chỗ
ngươi là chuyện chẳng đành, đứa trẻ này đã rất khổ, ta luôn yêu chiều nó, tính
tình khôn ngoan, nên cũng phiền ngươi ưu ái nó”.

Ta
cảm thấy mấy câu nói nhảm này của Chiết Nhan thật chả ra sao, quá đau lòng nên
cũng buồn rầu. Mặc Uyên luôn lặng lẽ chỉ ngồi nghe mà không nói gì.

Mặc
Uyên đã nhận ta làm đồ đệ, Chiết Nhan coi như đã “đại công cáo thành”. Sau khi
lão thành công lui gót, ta tiễn lão đi một đoạn. Khi đến cửa núi, Chiết Nhan dặn
dò cẩn thận: “Tuy bây giờ ngươi là thân nam giới, nhưng lúc tắm giặt cũng không
được ở cùng các sư huynh ngươi, không thể để chúng lợi dụng, vẫn phải biết cách
giữ gìn như một cô nương”. Ta gật đầu đồng ý.

Mặc
Uyên quả nhiên là chăm sóc ta rất chu đáo, nhưng ta coi thường người trông thiếu
anh dũng, nên không thèm nhận ân tình của người.

Với
Mặc Uyên, ta luôn có một chút không cung kính, cho đến khi vấp váp lần đầu tiên
trên con đường đời, gặp phải chuyện tổn thương ghê gớm đến bản thân.

Chuyện
này, cũng từ rượu của Chiết Nhan mà ra.

Chiết
Nhan giỏi cất rượu, lại rất yêu chiều tứ ca, rượu ủ ra đều do tứ ca đem đi, tứ
ca luôn chăm sóc ta, ta được thơm lây huynh ấy ở điểm này, nên rất năng qua lại
hầm rượu ở rừng đào mười dặm, dần dần đâm ra hơi thích rượu. Vì ta uống quá nhiều
rượu của Chiết Nhan, trong lòng cũng hơi đắc ý, gặp tiệc lớn tiệc nhỏ cũng đều
thay lão khen ngợi vài tiếng trước đám tiên hữu. Thành thật mà nói lúc đó kỹ
thuật nấu rượu của Chiết Nhan đã rất phi phàm, nhưng rốt cuộc vẫn còn có thể tiến
bộ nữa, nhưng ta tuổi nhỏ khờ khạo, luôn khoa trương, có ba phần thì nói bốc
lên năm phần, có năm phần thì nói bốc lên mười phần, cho nên ở yến tiệc có khen
rằng rượu của lão là độc nhất vô nhị, đương nhiên khiến cho mấy người ham rượu
nghe không lọt lỗ tai, phải lôi rượu nhà khác ra để hạ Chiết Nhan xuống, bẻ gãy
nhuệ khí của ta.

Trên
núi Côn Luân có một người như thế, Thập lục sư huynh của ta Tử Lan. Bây giờ ta
vẫn còn cảm thấy Tử Lan hơi nhỏ mọn, những sư huynh khác khi nghe ta tán thưởng
Chiết Nhan đều chỉ cười trừ mà thôi, mặc dù cũng có ý kiến này kia, nhưng nể ta
là sư đệ nhỏ nhất, nên đều bỏ qua cho ta. Tử Lan thì lại không thế, thường
xuyên ngoác miệng ra, hừ mũi cực kỳ khinh mạn, nói: “Chậc chậc chậc, được uống
thử rượu của sư phụ nấu chưa?”. Sư phụ mà huynh ấy nói, đương nhiên là Mặc
Uyên.

Khi
ấy, ta vẫn hơi coi thường Mặc Uyên, không chịu chấp nhận người khác khen người,
thấy bộ dạng tự cho mình là đúng đó của Tử Lan, lửa giận bốc ngùn ngụt, trong
lòng thầm quyết, lần sau nhất định nghĩ cách, để cho huynh ấy phải thừa nhận rượu
của Mặc Uyên nấu không ngon bằng rượu của Chiết Nhan trước mặt tất cả các sư
huynh, Mặc Uyên không sánh được, Mặc Uyên còn lâu mới bằng.

Cách
mà ta nghĩ lúc đó là một cách hết sức ngô nghê, chẳng qua là đến hầm rượu của
núi Côn Luân lấy trộm một bình rượu do Mặc Uyên nấu, đưa cho Chiết Nhan tham khảo,
làm ra một bình còn ngon hơn gấp trăm gấp ngàn lần. Cuối cùng là trộm được,
nhưng không dám đi qua cửa chính, định từ rừng đào sau núi đi vòng, vòng xuống
núi rồi cưỡi mây đi đến phủ của Chiết Nhan. Lúc vòng vèo đến rừng đào, chẳng
may bị lạc đường, vất vả cả nửa ngày mà không đem được rượu đi, miệng thì khát,
trên người lại chỉ mang độc một bình rượu của Mặc Uyên, thế là ta lấy ra giải
khát.

Vừa
nhấp một ngụm ta đã hơi bàng hoàng. Chỉ một ngụm nhỏ mà thôi, mùi rượu đã tràn
khoang miệng, vị cay dịu xộc đến cuống họng. Tài nghệ của Chiết Nhan, phải nâng
cao một chút nữa, thì mới chạm được đến hỏa hầu này.

Mặc
Uyên quả nhiên có bản lĩnh đệ nhất này! Một bạch diện thư sinh sao lại có được
bản lĩnh đệ nhất này?

Ta
vô cùng bi phẫn, uất ức dâng tràn, rượu trong tay cho dù có mang đến cho Chiết
Nhan cũng chẳng để làm gì. Ta đau buồn một lúc, rồi dứt khoát uống tì tì hết sạch
bình rượu.

Đâu
biết rằng loại rượu này mới đầu uống êm dịu, nhưng về sau say đến không ngờ. Ta
hoa mày chóng mặt dựa vào gốc đào, chẳng bao lâu sau thì ngủ thiếp đi mất.

Khi
tỉnh lại, thì có chút khác biệt với hôm qua, không phải tự nhiên mà tỉnh, cũng
không phải bị mấy tiếng thúc giục cằn nhằn của đại sư huynh gọi dậy, mà là bị hắt
một chậu nước lạnh, giật mình tỉnh dậy.

Người
hắt nước có lẽ cũng có kinh nghiệm, phương hướng và lực đạo đều rất chuẩn, chỉ
cần một chậu nước, đã khiến ta tỉnh táo trở lại. Khi ấy là ngày tuyết tan của đầu
xuân, chậu nước đó hẳn là chậu nước tuyết tan ra, áo xiêm thấm đẫm dính trên
người, chỉ trong thời gian uống một chén trà mà khiến ta hắt hơi một cái dữ dội.

Một
cô gái bưng chén trà đứng bên cạnh chiếc ghế bằng gỗ đen, nàng ta chỉ uống một
ngụm trà rồi bỏ chén xuống, thong thả chậm rãi lạnh lùng nhìn ta. Hai thị nữ đứng
hầu bên nàng ta, trên đầu còn chải tóc hình quả bí.

Ngày
ta bái sư nhập môn, đã được đại sư huynh dặn dò, bảo ta chớ có dây vào mấy thiếu
nữ búi tóc hình quả bí, cho dù đối phương thất lễ trước, thân là đệ tử của núi
Côn Luân, cũng phải nhường ba, bốn phân. Vì những nữ tử búi tóc hình quả bí kia
thường xuyên tới núi Côn Luân chơi, thì chắc chắn là tỳ nữ của thượng thần Dao
Quang. Thượng thần Dao Quang là nữ thần dịu dàng thời bình, hung mãnh thời chiến,
luôn si mê thượng thần Mặc Uyên, sư phụ của chúng ta, gần đây còn yêu đơn
phương dữ dội hơn, dứt khoát dời nhà đến gần núi Côn Luân, cách mấy ngày lại
sai tỳ nữ đến núi Côn Luân khiêu khích kiếm chuyện, muốn khích Mặc Uyên đánh với
nàng ta một trận, xem xem bản lĩnh của nàng, phải hàng phục bám váy nàng, vĩnh
viễn cùng nàng kết đôi. Mưu tính của nàng ta không tồi, nhưng dường như Mặc
Uyên lại không coi đó là chuyện lớn, chỉ dặn dò đệ tử phải coi người tới là
khách, có thể chiều chuộng gì thì chiều chuộng hơn một chút.

Mấy
thị nữ tóc quả bí trước mắt nhắc nhở ta, khiến ta nhận ra thân phận họ trong
giây lát, người ngồi trên ghế uống trà kia, chính là thượng thần Dao Quang yêu
đơn phương Mặc Uyên.

Nàng
ta nhân lúc ta say túy lúy mà trói bắt ta về đây, chắc là muốn thỏa tâm nguyện,
khích cho Mặc Uyên đánh với mình một trận, biết đâu trong trận này Mặc Uyên nảy
sinh tình cảm với nàng ta, kế đó chàng đoán thiếp thiếp đoán chàng, kế đó chàng
hữu tình thiếp hữu ý, kế đó cầm sắt hài hòa song túc song phi.

Nhưng
lại liên lụy đến ta, thành hòn đá lót đường, ta cảm thấy mình vô tội biết bao,
oan ức biết bao.

Một
thị nữ đứng bên phải ho một tiếng, nhận cái nhìn của chủ nàng ta lập tức làm bộ
dáng vẻ dạy dỗ người khác, nói: “Núi Côn Luân là nơi thánh địa thanh khiết bậc
nhất trong bốn bể tám cõi, con hồ ly đực yêu mị như ngươi lại dám trà trộn vào
để dụ dỗ thượng thần Mặc Uyên sao?”.

Ta
ngớ ra, rồi “a” một tiếng.

Nàng
ta trừng mắt nhìn ta rồi nói tiếp: “Ngươi nhìn ngươi xem, mắt, mày, miệng, đều
là vẻ yêu mị! Từ lúc thu nhận ngươi làm đệ tử, thượng thần Mặc Uyên lúc nào
cũng yêu thương bảo vệ”. Sắc mặt thượng thần Dao Quang không tốt lắm, thị nữ đó
lập tức sửa, “Bèn bỏ bê tiên đạo, thượng thần nhà ta niệm tình tiên liêu, không
nỡ giương mắt nhìn thượng thần Mặc Uyên đi vào con đường sai lầm, không thể
không giúp đỡ”. Nàng ta nói chậm lại, “Tuy rằng ngươi phạm phải sai lầm lớn như
vậy, nhưng thượng thần nhà ta nổi tiếng từ bi, nên cho ngươi làm đồng tử của
thượng thần nhà ta, chuyên tâm tu hành, cũng là sửa đổi bản tính ngoan cố của
ngươi, còn không mau mau quỳ xuống cảm tạ ân tình của thượng thần nhà ta”.

Ta
ngây người ra nhìn bọn họ, hoàn toàn không hiểu họ đang diễn trò gì. Nghĩ mãi lại
cảm thấy từ khi mình đến núi Côn Luân, ngoài việc lấy trộm rượu khỏi hầm ra,
thì chưa từng làm gì trái quy củ, nếu có thì có chăng chỉ là lúc ban đầu nhờ cậy
quan hệ để được bái sư môn mà thôi.

Ta
rất phẫn nộ, bực bội quát: “Ta chẳng làm gì sai với sư phụ, sư phụ đối tốt với
ta cũng vì có cố nhân nhờ cậy, thương xót ta thân thế thê thảm. Ngươi bắt ta đến
đây, còn hắt nước vào ta, chỉ một ngón tay sư phụ ta cũng còn hơn các ngươi
trăm lần ngàn lần, ta quyết không làm đồng tử dưới trướng của ngươi”.

Thượng
thần Dao Quang đập bàn một cái, tức giận thét lên: “Ngoan cố, ngu tối như thế,
tống nó vào thủy lao, giam ba ngày”.

Bây
giờ ngẫm lại, khi đó Dao Quang đang bị đố kỵ che mờ mắt, tuy rằng là hiểu lầm,
còn ta tuổi trẻ bồng bột không biết ăn nói, lại đem một hiểu lầm có thể tháo gỡ
làm thành một nút chết, sau này phải nếm khổ hai ngày kể ra cũng đáng.

Thủy
lao trong phủ của thượng thần Dao Quang, thú vị hơn nhiều những thủy lao bình
thường khác. Lúc đầu chỉ là nước ngập đến eo, cho một người sống vào đó, nước sẽ
từ từ dâng từ eo lên, dần dần dâng lên, nhưng không bị ngập đầu. Tuy rằng không
ngập đầu, không khiến bạn chết ngạt, nhưng luôn khiến bạn phải khổ sở vì bị ngừng
thở. Nếu luôn ngừng thở như thế, thì cần nhịn thở là quen, nhưng nhịn được nửa
canh giờ, nước lại dần dần rút lui, để bạn hít thở một hơi, rồi lại bắt đầu lại
từ đầu.


ta rong chơi đã bao năm, nếu có đem hết sức ra thì cũng không địch nổi một thượng
thần, không thể phản kháng, chỉ có chờ chết.

Lúc
Mặc Uyên đến, ta đã bị giày vò đến nỗi chỉ còn nửa cái mạng.

Cho
dù là chỉ còn nửa cái mạng thì chung quy vẫn là một thiếu niên sức sống tràn trề,
trong mơ hồ vẫn còn nhớ Mặc Uyên sầm mặt một tay vung lên mở chiếc khóa đen
trên cửa nhà lao, vớt ta từ dưới nước lên giữa ánh lửa bập bùng, lấy áo bào bọc
kín ta vào lòng, lạnh lùng nói với Dao Quang khuôn mặt đang trắng bệch, nói:
“Mười bảy tháng hai, trên đỉnh Thương Ngô, món nợ này chúng ta phải tính sạch”.

Dao
Quang rầu rĩ nói: “Thiếp rất muốn thử sức với chàng một trận, nhưng không phải
trong tình cảnh này, cũng không phải…”.

Ta
còn chưa nghe thấy nàng ta nói hết câu thì đã được Mặc Uyên sải bước đưa đi. Ra
đến cổng gặp đại sư huynh, huynh ấy đưa tay đón ta, nhưng sư phụ không đưa, rồi
cứ như thế mà đi.

Khi
ấy, lần đầu tiên ta cảm thấy, cho dù Mặc Uyên không nói những lời kinh thiên động
địa, thì giọng nói cũng sáng rõ trầm bổng. Cho dù cánh tay không được thô ráp
như cột đá, cũng rất mạnh mẽ kiên cường. Mặc Uyên không còn là một bạch diện
thư sinh.

Vừa
về tới núi Côn Luân, ta đã ngủ mê mệt, khi tỉnh lại nghe đại sư huynh nói, Mặc
Uyên đã đến núi Thương Ngô quyết đấu với thượng thần Dao Quang. Vì đây là cảnh
tượng bảy vạn năm nay mới có một lần, từ nhị sư huynh đến thập lục sư huynh đều
lén trốn đi xem. Đại sư huynh nhìn ta đầy tiếc nuối: “Đệ nói xem sao sư phụ lại
sai huynh đến chăm sóc đệ?”. Không thể xem trận chiến giữa Mặc Uyên và Dao
Quang, ta cũng rất nuối tiếc, nhưng để đại sư huynh không cảm thấy nuối tiếc
nhiều như thế, chỉ có cách nhận ân tình cười ngốc nghếch hì hì hai tiếng.

Đại
sư huynh đúng là nói không ngừng, nghe huynh ấy lải nhải mấy ngày liền ta mới
hiểu ra chuyện Dao Quang bắt ta, thực ra là tiến hành rất kín kẽ cẩn mật.

Đêm
đó đến khi tắt đèn mà ta vẫn chưa về phòng, các sư huynh rất lo lắng, nhất loạt
đi tìm ta mà không thấy, càng nghi ngờ ta đã bị tiên tỳ của thượng thần Dao
Quang bắt đi mất. Tuy suy đoán như thế nhưng cũng không có gì làm chứng cứ, các
sư huynh đều rất lo sợ, bất đắc dĩ đành kinh động đến sư phụ. Sư phụ chuẩn bị
đi nghỉ, nghe thấy chuyện chỉ khoác chiếc áo bào, rồi dẫn đại sư huynh đến phủ
đệ của thượng thần Dao Quang. Thượng thần Dao Quang thà chết không chịu nhận,
sư phụ vung kiếm Hiên Viên, không thèm đếm xỉa đến lễ nghi gì, thẳng đường xông
tới, mới tìm thấy ta.

Đại
sư huynh “chậc chậc” cảm thán: “Nếu không phải nhờ uy lực của sư phụ, thì Thập
thất đệ chắc chẳng còn giữ được cái mạng nữa”. Sau đó lại cười nói, “Đệ vừa về
đến Côn Luân là lại ngất đi, nằm mơ còn ôm tay sư phụ rất chặt kêu là khó chịu,
kéo thế nào cũng không chịu buông ra, sư phụ thấy chẳng ra sao, đành vỗ vỗ vào
lưng đệ an ủi “đừng sợ nữa, có sư phụ bảo vệ đây rồi”, ha ha, bộ dạng của đệ,
đúng là chẳng khác gì đứa trẻ con”. Mặt ta đỏ bừng, huynh ấy lại nghi hoặc hỏi,
“Rốt cuộc đệ đã đắc tội gì với thượng thần Dao Quang? Nàng ta tuy rằng có hơi xấu
tính một chút, nhưng xưa nay cũng chưa từng ra tay tàn độc thế”.

Ta
vừa điều dưỡng, vừa cân nhắc trước sau một lượt, định nói với huynh ấy, rằng lần
này vị thượng thần đó đã ghen bóng ghen gió, nhưng lại cảm thấy nói xấu sau
lưng người khác là không hay, bèn ấp úng nói lấp liếm vài câu.

Lần
này ta nằm mơ thấy Mặc Uyên chính là mơ thấy chuyện này. Giấc mơ giống hệt với
những gì xảy ra ngày hôm đó. Vốn sau trận chiến trên núi Thương Ngô, buổi chiều
hôm đó Mặc Uyên đã quay về Côn Luân, Dao Quang thua trận thảm bại, sau trận chiến
này đã chết hẳn mối tình si với Mặc Uyên, dời phủ đệ đi thật xa, thật xa. Nhưng
trong giấc mộng của ta, sau trận chiến Thương Ngô ngày mười bảy tháng hai, Mặc
Uyên lại không quay về. Ngày ngày ta đều quấn lấy đại sư huynh hỏi, rốt cuộc
bao giờ sư phụ quay về, đại sư huynh đều trả lời ta, sắp rồi, sắp rồi.

Cho
dù là nằm mơ, ta vẫn phải hỏi câu này, nhưng câu này đã hỏi hơi muộn một chút.

Nhưng
ta tin đại sư huynh, huynh ấy nói sắp rồi, sắp rồi, ta cũng cảm giác đúng là sắp
rồi, sắp rồi.

Ta
đã chờ trong mơ suốt bảy vạn năm, cho dù đợi bảy vạn năm, cũng trong giấc mơ
đó, ta luôn ngây ngô tin lời đại sư huynh, tin rằng sư phụ sắp về rồi, sắp rồi.
Trái tim ngây thơ và bình yên ấy thực sự không thể so với ngày nay.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3