Bộ Tứ - Agatha Christie - Chương 09 - 10

Chương 09: Bí mật của hoa nhài vàng

Poirot luôn miệng nói ngày càng có nhiều hiểu biết về
kẻ thù. Phần tôi, tôi ưa những kết quả cụ thể hơn.

Từ khi chúng tôi được biết về bọn Bốn Người, chúng
đã giết hai mạng người, bắt cóc Halliday và suýt đưa Poirot và tôi sang thế giới
bên kia. Thắng lợi duy nhất của chúng tôi là hãy còn sống!

Poirot không chia sẻ sự bi quan ấy.

- Tôi công nhận là đến nay, chúng vẫn qua mặt ta,
nhưng hãy đợi đấy: cười người hôm trước, hôm sau người cười! Và anh nhớ cho rằng
đây không phải vụ án hình sự tầm thường, mà là một mưu đồ có tầm thế giới do những
bộ óc siêu đẳng chỉ huy.

Tôi cố dò xem Poirot định làm gì. Nhưng như thường lệ,
anh vẫn giữ kín hành tung của mình, không cho tôi biết.

Tuy nhiên, tôi được tin là anh đã liên hệ với những
nhân viên mật vụ ở Ấn Độ, ở Trung Hoa và ở Nga.

Căn cứ vào những lời tự khoe thỉnh thoảng anh thốt
ra, thì Poirot đang tiến hành chiến thuật quen thuộc: dò xét tâm trạng kẻ thù,
và tiến lên từng bước.

Nhà thám tử cừ khôi đã bỏ lửng hẳn các khách hàng
thường lệ. Có nhiều lời mời mọc hấp dẫn, anh đều từ chối, hoàn toàn không quan
tâm đến vụ việc nào không liên quan đến hoạt động của bọn Bốn Người.

Cách làm này rất có lợi cho thanh tra Japp; ông ta đạt
nhiều thành tích nhờ những lời chỉ dẫn lơ lửng của Poirot. Để đáp lại, Japp
cung cấp cho nhà thám tử Bỉ những thông tin mà ông cho là có ích.

Khi Japp được giao điều tra vụ mà báo chí đặt tên một
cách văn vẻ là "Bí mật của Hoa nhài vàng", ông ta điện xin gặp Poirot
để tham khảo ý kiến.

Đó là khoảng một tháng sau vụ việc xảy ra với tôi ở
nhà Ryland. Tôi đã bắt đầu thấy quá nhàn rỗi, vì vậy rất vui được cùng đi với
Poirot đến Market Handford, tỉnh Worcestershire, nơi Japp đang đợi.

Ngồi chễm chệ trên toa tàu rồi, Poirot hỏi tôi:

- Hastings, anh nghĩ thế nào về vụ này?

- Mọi việc có vẻ khá phức tạp ... - tôi thận trọng
nói nhỏ.

- Anh cho là thế? - Poirot nói, vẻ mặt vui thích.

- Còn gì nữa! Rõ ràng anh cho ông Paytner chết là bị
giết, chứ không phải do tự tử hay tai nạn, vì thế chúng ta mới vội và đến
Market Handford...

- Không, không, anh chưa hiểu tôi. Dù cho là ông
Paytner chết do một tai nạn đặc biệt khủng khiếp vẫn còn có một số điều bí ẩn cần
làm rõ.

- Thì tôi cũng nói thế, cho nên mới bảo là phức tạp.

- Ta hãy điểm lại những sự việc chính một cách bình
tĩnh, tuần tự. Hastings, anh kể xem, nhưng thật sáng sủa, chính xác.

Tôi cố gắng làm theo yêu cầu của ông bạn nghiêm khắc.

- Ông Paytner là một người giàu có, học thức, thường
đi chu du khắp thế giới, năm năm mươi lăm tuổi bỗng tuyên bố mình mệt mỏi,
không đi đây đi đó nữa. Ông tậu một cơ ngơi nhỏ ở vùng Worcestershire và mời
người cháu tên Gérald Paytner, là người bà con duy nhất còn lại, đến ở cùng tại
"Croftlands" (tên cơ ngơi). Gérald Paytner, một nghệ sĩ trẻ, đang chẳng
có thu nhập gì, vớ được dịp may hiếm có. Từ bảy tháng nay, anh ta sống với ông
chú cho đến khi xảy ra thảm kịch.

- Anh kể rất khá - Poirot nói - Cứ như sách!

Không quan tâm đến lời khen của Poirot, bản thân
đang say sưa với câu chuyện, tôi tiếp tục:

- Tại "Croftlands", ông Paytner có cuộc sống
vương giả: sáu gia nhân, không kể một anh hầu phòng riêng, một người Tàu tên là
Ah Ling.

- Hầu phòng riêng, tên Ah Ling - Poirot khẽ nhấn mạnh.

- Thứ ba vừa rồi, sau bữa trưa, ông Paytner kêu khó
chịu trong người, và một gia nhân chạy đi gọi bác sĩ. Paytner không chịu đi nằm,
tiếp thầy thuốc ngay trong phòng làm việc. Không biết hai người làm gì, chỉ biết
trước khi ra về bác sĩ Quentin đòi gặp bà quản gia, nói rằng ông Paytner yếu
tim, và ông đã tiêm một mũi dưới da. Ông dặn không được làm nhiễu người bệnh, rồi
đặt những câu hỏi khá lạ lùng về các gia nhân: họ phục vụ ông Paytner từ khi
nào? Từ đâu đến? vân vân. Bà quản gia lấy làm lạ nhưng đều trả lời đủ. Sáng hôm
sau, một cô hầu phòng khi đi xuống, ngửi thấy mũi thịt cháy khét lẹt bốc ra từ
phòng làm việc của chủ. Cô định mở cửa, nhưng cửa khóa từ bên trong. Gérald
Paytner và tên hầu người Tàu phải phá cửa để vào: ôi cảnh tượng kinh khủng! Ông
Paytner ngã chúi đằng trước vào cái lò đốt ga, nên đầu hoàn toàn cháy thành
than. Mặt không nhận ra tí nào. Ngay lúc đó, chưa ai nghi ngờ gì. Nếu trách ai
thì thích ông bác sĩ Quentin đã không buộc người bệnh đi nằm sau khi tiêm.
Nhưng rồi người ta tìm thấy dưới đất một tờ báo, hẳn là từ trên đùi ông già rơi
xuống. Xem kỹ tờ báo, thấy có một số chữ nguệch ngoạc bên lề.

Bàn tay viết những chữ đó rất yếu. Lại thấy ngón trỏ
bàn tay phải của nạn nhân bị giây mực đến đốt thứ hai. Không cầm được bút, ông
Paytner đã nhúng ngón tay vào lọ mực (lọ mực để trên bàn, vừa tầm tay) và có viết
mấy chữ "Hoa nhài vàng" lên lề tờ báo đang cầm. Nhưng mấy chữ ấy có
nghĩa gì? Hoa nhài vàng nở rộ phủ kín các tường ở Croftlands nên có thể giả thử
là hình ảnh đó đã đập vào mắt, làm ông già hấp hối viết ra câu đó. Báo chí luôn
săn tìm tin giật gân, vớ ngay câu chuyện và đặt tên là "Bí mật Hoa nhài
vàng", mà thực ra mấy chữ ấy có lẽ chẳng có ý nghĩa.

- Anh cho là không có ý nghĩa? - Poirot hỏi - Rốt cuộc,
anh đã nói thế, thì chắc là thế.

Tôi nhìn anh, ngạc nhiên, song không thấy ý giễu cợt
gì trong ánh mắt. Tôi kể tiếp:

- Cuộc điều tra được tiến hành. Ngay từ đầu người ta
đã có định kiến với bác sĩ Quentin. Trước hết, ông ta không phải là bác sĩ quen
của gia đình, mà là người thay thế bác sĩ Bolitho đang đi nghỉ. Sự bất cẩn của
Quentin có vẻ là nguyên nhân trực tiếp của tai nạn. Nhưng từ đó mà bảo là giết
người thì còn xa. Cũng phải nói thêm ngay khi đến ở "Croftlands" ông
Paytner đã sinh ra đau yếu, và bác sĩ Bolitho đã điều trị ông được một thời
gian. Khi bác sĩ Quentin tiếp xúc với ông lần đầu, ông đã thấy một số triệu chứng
đáng ngại. Trước buổi tối oan nghiệt, Quentin mới chỉ xem bệnh cho Paytner có một
lần. Khi gia nhân mời ông đến gấp, ông đã thấy người bệnh ở trong cơn kích động
kỳ lạ. Paytner nói ông không cảm thấy ốm đau gì, nhưng món càri ông vừa ăn có
mùi là lạ, vì vậy ông đã đuổi Ah Ling ra ngoài, rồi đổ món ăn từ đĩa vào bát
đưa cho bác sĩ để đem đi xét nghiệm. Quentin khẳng định Paytner không ốm, nhưng
bị xúc động quá ảnh hưởng đến tim; nên cần tiêm một ống strychnine, chứ không phải
moócphin. Tôi nghĩ đã kể hết, và nói thêm kết quả xét nghiệm: món càri đúng là
có lẫn một lượng bột thuốc phiện đủ để giết chết hai người!

- Vậy kết luận của anh ra sao? - Poirot bình tĩnh hỏi.

- Thật khó kết luận. Paytner rất có thể chết do tai
nạn; mưu đồ đầu độc chỉ là một sự trùng hợp đúng tối hôm ấy.

- Hãy thú nhận rằng đối với anh, đây là vụ giết người
thì hợp lý hơn!

- Còn với anh thì không?

- Anh và tôi, chúng ta không lập luận theo cùng một
cách. Tôi không vội tìm kết luận; khi nào vấn đề kia được giải đáp hãy hay. Tôi
muốn nói đến "Bí mật của Hoa nhài vàng". À này, anh còn quên một chi
tiết.

- Tôi đoán anh định nói đến hai gạch theo hình thước
thợ ở dưới mấy chữ nguệch ngoạc bằng mực trên lề tờ báo? Quả là tôi không coi
nó là quan trọng!

- Ta hãy để bí mật Hoa nhài vàng sang một bên mà xem
xét món càri.

- Tất nhiên, có thể đặt hàng trăm câu hỏi: ai đã bỏ
độc dược? Mục đích gì? vân vân... Ta biết Ah Ling là người dọn món ăn, nhưng vì
lý do gì hắn lại định đầu độc chủ? Hay hắn nằm trong một "băng" tội
phạm. Băng "Hoa nhài vàng" chẳng hạn? Rồi nữa, còn Gérald Paytner...

- Đúng, đúng, - Poirot gật đầu - anh ta là người thừa
kế ông chủ. Nhưng chiều hôm ấy, hắn đi ăn ngoài thị trấn.

- Anh ta có thể dễ dàng vào bếp và trộn thuốc phiện
vào một chất liệu nào đó dùng để nấu món càri! Hắn đi ăn ở bên ngoài để khỏi phải
đụng đến thức ăn bị bỏ thuốc độc.

Lập luận của tôi có vẻ nghe được và, điều hiếm có
Poirot tỏ ra rất quan tâm!

Tôi được khích lệ và tiếp tục trình bày giả thuyết:

- Gérald Paytner về muộn, thấy ánh đèn trong phòng
ông chú, biết là kế hoạch đã thất bại, liền đẩy ông già vào lửa.

- Giả thiết này của anh không hợp lý - Poirot nói -
Một người năm mươi lăm tuổi, còn vạm vỡ, lại chịu để bị đẩy vào lửa mà không chống
cự?

- Được. Vậy thì đến lượt anh trình bày quan điểm.

Poirot cười, ưỡn cao ngực và nói như diễn giảng:

- Giả thử đây là vụ giết người, một vấn đề đặt ra
ngay lập tức: tại sao lại chọn cách ấy? Tôi thấy chỉ có một lý do: để không ai
nhận diện được! Bộ mặt bị cháy đen, và...

- Sao? - Tôi ngắt lời. Anh nghĩ là...

- Hastings, hãy khoan. Đó chỉ là giả thiết. Có thể
nghĩ rằng đó không phải là xác ông Paytner? Mà là của một ai khác? Tôi xem xét
hai câu hỏi ấy và xin trả lời: không.

- Vậy thì sao? - tôi thốt lên, thất vọng.

Poirot nháy mắt, nói tiếp:

- Vậy thì tôi tự nhủ có một cái gì đấy ta chưa nắm
được và cần nghiên cứu vấn đề này. Không nên để lúc nào cũng bị ám ảnh vì lũ Bốn
Người... À được rồi! Anh có biết cái bàn chải áo của tôi để đâu không nhỉ? À!
Nó đây rồi. Nhờ anh chải cho tôi rồi tôi chải cho anh.

Bỏ bản chải vào vali, Poirot nói tiếp:

- Hừ, tôi lại bị một ý tưởng duy nhất thu hút...
Này, hai gạch thước thợ mà anh nói, nó có nghĩa gì, nếu không phải là người ta
bắt đầu viết số 4?

- Trời! - Tôi bật cười - Anh định mò mẫm gì ở đó?

- Tôi thừa nhận là cứ quay đi quay lại mãi một việc
thì thật buồn cười... Cần phải thay đổi không khí! Chính vì thế mà tôi đến
đây!... Anh Japp thân mến? Khoẻ chứ?

 

Chương 10: Tìm kiếm ở Croftlands

Viên thanh tra Scotland Yard đón chúng tôi rất nồng
nhiệt.

- Ông Poirot! Có điều thú vị đây. Tôi nghĩ ông sẽ
thích thú tham gia vụ này. Lần này trước mặt chúng ta là một sự bí ẩn hoàn
toàn.

Đúng là anh chàng Japp đang lúng túng không biết
xoay sở ra sao, nên rất chờ mong lời chỉ dẫn quý báu của nhà thám tử đại tài.

Croftlands là một toà nhà trắng, hình vuông, không
có gì đặc biệt, tường phủ kín dây leo và hoa nhài vàng.

- Hoa nhài dường như là nỗi ám ảnh của ông già xấu số
- Japp nhận xét - Trong cơn hấp hối mê sảng, ông ta tưởng mình ở trong vườn.

- Ông nghĩ thế nào, ông Japp? Tai nạn hay ám sát -
Poirot hỏi.

Câu hỏi dường như làm viên cảnh sát khó trả lời.

- Nếu không có cái chuyện càri, thì kết luận là tai
nạn; tuy nhiên khó có thể hình dung đầu của nạn nhân, lúc đó còn sống, lại được
giữ trong đống lửa; nạn nhân phải kêu cứu, và cả nhà sẽ biết.

- Ông nói đúng, tôi chưa nghĩ đến điều đó, lần này
ông thắng tôi rồi.

Japp đỏ mặt và nói mấy lời khiêm tốn; ông ngạc nhiên
thấy mình được khen, vì thường ngày, Hercule Poirot chỉ tự khen mình.

Phòng làm việc của ông Paytner, nơi xảy ra tai hoạ,
là một căn phòng lớn, trần thấp, với những tủ sách dọc các tường và những ghế
bành lớn bọc da.

Poirot đưa mắt nhìn ngay vào cửa sổ thông ra sân thượng.

- Cửa sổ có được đóng bằng then móc không?

- Tất cả vấn đề là ở đó. Khi ông bác sĩ đi ra, ông
chỉ khép cửa, vậy mà sáng hôm sau nó lại khoá từ bên trong. Ai khóa? Chính ông
Paytner ư? Ah Ling cam đoan là cửa sổ đóng bằng then móc; bác sĩ Quentin lại
nói nó chỉ đóng hờ, nhưng ông ta không dám khẳng định. Nếu ông Paytner bị giết,
hung thủ phải vào hoặc lối cửa, hoặc cửa sổ. Trường hợp thứ nhất, mọi sự điều
tra phải hướng vào những người nhà. Còn trường hợp thứ hai, thì kẻ giết người
có thể là bất cứ ai. Khi cửa bị phá rồi, việc đầu tiên của cô hầu phòng là đến
mở toang cửa sổ, cô ta nhớ là nó không cài then. Phải nói rằng cô hầu phòng này
là một nhân chứng rất tồi, muốn bảo ả ta nhớ ra cái gì ả cũng nhớ hết!

- Còn chìa khoá?

- Nó nằm dưới đất lẫn trong vụn gỗ: có thể nó rơi khỏi
ổ khi người ta phá cửa, mà cũng có thể được một người nào đó vứt xuống lúc đi
vào. Hoặc đặt dưới khe cửa từ bên ngoài.

- Tóm lại, mọi thứ đều có thể?

- Đúng vậy, ông Poirot.

- Tất cả đều hết sức mơ hồ, có lúc hé sáng, có lúc lại
chìm vào tối đen. Tôi chưa tìm ra được đường hướng gì, động cơ gì.

- À! Về động cơ, thì tôi thấy chàng thanh niên
Gérald Paytner có nhiều - Japp đột nhiên nói - Trước khi đến với chú, anh ta đã
có một cuộc sống hoang toàng, đầy thăng trầm. Nghệ sĩ mà, không phải lúc nào
cũng đi đôi với đạo đức!

Poirot mỉm cười đáp :

- Ông Japp thân mến, có phải ông định đánh lạc hướng
tôi? Tôi thừa biết là ông đang tập trung nghi ngờ vào tên hầu người Tàu. Ông
cáo lắm: vừa nhờ tôi giúp đỡ vừa cố che giấu quan điểm của mình.

- Không lẫn đi đâu được, ông Poirot! Vẫn tinh quái
như bao giờ. Quả là tôi cược vào tên người Tàu. Chỉ Ah Leng mới bỏ được thuốc
phiện vào càri và khi đã một lần định hại chủ, thì hắn có thể thử lần thứ hai.

- Tôi cũng tự hỏi thế! - Poirot nói nhỏ.

- Nhưng động cơ thì tôi chưa nắm được... Phải chăng
để trả thù? Đó là điều tôi phân vân - Japp nói.

- Có mất cắp gì không? Không? Đồ trang sức? Tiền bạc?
Giấy tờ, đều không?

- Không... nghĩa là...

Tôi giỏng tai, cả Poirot cũng vậy. Japp giải thích:

- Tôi muốn nói không có mất cắp, nhưng ông Paytner
có viết một cuốn sách, điều này biết là do sáng nay có thư của nhà xuất bản gửi
tới, hỏi xem bản thảo đã tới đâu. Theo nhà xuất bản, cuốn sách vừa được viết
xong. Tôi và Gérald Paytner đã tìm khắp nơi, nhưng không thấy; chắc nó được giấu
ở nơi an toàn.

Mắt Poirot ánh lên một tia sáng mà tôi biết rõ.

- Tên cuốn sách là gì? - anh hỏi.

- Bàn tay bí ẩn ở Trung Hoa, tôi nhớ hình như thế.

- A! A! - Poirot hồi hộp - Gọi ngay Ah Ling lên!

Nét mặt anh chàng châu Á này không mảy may lộ vẻ xúc
động. Hắn đứng trước Poirot, mắt nhìn xuống.

- Ah Ling, anh có đau buồn vì cái chết của ông chủ?

- Ồ! Nhiều lắm, ông chủ tốt!

- Anh có biết ai giết?

- Không biết. Nếu biết, đã nói với thanh tra.

Ah Ling kể hắn đã dọn món càri thế nào. Theo hắn, bếp
trưởng không đụng đến, chỉ có hắn làm. Tôi tự hỏi hắn có hiểu lời thú nhận ấy
là nguy hiểm nhường nào... Hắn nói cửa sổ nhất định đóng, chắc ông chủ mới mở về
sau.

- Anh có thể lui - Poirot bảo Ah Ling.

Nhưng lúc hắn sắp ra khỏi phòng, Poirot gọi giật lại,
hỏi:

- Anh chắc chắn là không biết gì về Hoa nhài vàng?

- Không! Không biết.

- Anh cũng không biết những gạch dưới mấy chữ này là
có nghĩa gì?

Vừa hỏi, Poirot vừa cúi xuống chiếc bàn nhỏ, lấy
ngón tay vẽ lên lớp bụi phủ một số 4 thật to.

Mặt tên Trung Quốc co rúm lại, nhưng ngay sau đó trở
lại lì lợm. Hắn lí nhí:

- Không biết.

Rồi đi ra.

Thừa lúc vắng mặt Japp đang đi tìm chàng trai
Paytner, Poirot thốt lên:

- Bọn Bốn Người! Hastings ơi, lại vẫn bọn Bốn Người!
Paytner đi nhiều, nhiều năm sống ở Trung Hoa, rất có cơ sở để nghĩ rằng cuốn
sách ông ta viết chứa đựng những phát hiện về hành tung của Li Chang-yen, tức
"Số Một", người cầm đầu cả bọn.

- Nhưng... nhưng... nhưng...

- Suýt! Họ đến.

Gérald Paytner là một thanh niên dễ mến, nhưng lập dị.
Anh ta để râu màu nâu, đeo cà vạt Lavallierè. Anh nhã nhặn trả lời những câu hỏi
của Poirot.

- Tối đó, tôi ăn ngoài thị trấn với gia đình
Wycherly, hàng xóm. Tôi trở về giờ nào ư? Ồ! Khoảng mười một giờ. Tôi có chìa
khóa riêng, không phiền ai. Các gia nhân đều ngủ, và tôi nghĩ chú tôi cũng thế.
Ở cuối sảnh tôi thoảng trông cái tên Tàu chết tiệt đi lẹ như một cái bóng, song
tiếc thay tôi không dám khẳng định.

- Trước khi đến ở với ông chú, anh không giáp mặt
ông từ bao giờ?

- Tử lúc tôi lên mười. Cha tôi và ông không hoà hợp
với nhau nên từ đó không gặp mặt nhau.

- Ông ấy tìm ra anh có dễ không?

- Dễ, tình cờ may mắn, tôi đọc thấy thông báo của
người công chứng.

Poirot không hỏi thêm gì nữa.

Cuộc tiếp xúc tiếp theo là với bác sĩ Quentin. Nhưng
ông ta không nói gì hơn những điều đã khai.

Ông tiếp chúng tôi ngay trong phòng mạch của ông. Vẻ
người thông minh, nhưng hơi điệu bộ, ông ta nói thẳng:

- Tôi rất muốn nhớ chính xác xem cửa sổ mở hay đóng,
khốn thay, thật nguy hiểm khi muốn nhớ lại một điều mình chỉ thấy thoáng qua. Dễ
khẳng định hoặc bác bỏ một sự việc thực ra không có. Đó là một hiện tượng tâm
lý, phải không ông Poirot? Ông thấy đấy, tôi đã đọc tất cả những gì viết về
ông. Tôi là một trong những người rất hâm mộ ông. Theo tôi, chính tên người Tàu
đã bỏ thuốc phiện vào càri, nhưng hắn không bao giờ thú nhận đâu, kể cả lý do của
hành động ấy... Còn giữ chặt một người ấn vào lửa, thì hắn không có tính cách ấy.
Ý kiến tôi là vậy.

Lúc cùng đi dọc phố chính của Market Handrord với
Poirot, tôi hỏi:

- Anh có cho là họ đồng phạm với nhau? Ta có thể nhờ
Japp theo dõi ông bác sĩ? Tay chân của lũ Bốn Người là rất năng động.

- Japp đã được giao theo dõi bác sĩ ngay từ đầu.
Nhưng không tiến triển gì.

- Dù sao, chúng ta biết rằng Gérald Paytner vô tội.

- Hastings, anh biết nhiều hơn tôi quá đấy! Xin hoan
nghênh!

- Anh cáo lắm - tôi cười - chuyên ngậm miệng ăn tiền.
Tuy nhiên, tôi tin là anh đã nhìn ra ánh sáng!

- Đúng, vụ việc với tôi lúc nay khá rõ, trừ điều
liên quan đến "hoa nhài vàng". Có thể những từ đó không dính dáng gì
đến án mạng. Trong một vụ loại này, điều cần biết trước tiên là ai trong số các
nhân chứng nói dối hoặc giấu chúng ta điều gì. Việc đó nay đã rõ. Tuy nhiên...

Bạn tôi bỗng ngừng bặt, rẽ vào một hiệu sách bên đường,
rồi lát sau đi ra với một bọc sách trên tay. Japp, đã từ biệt chúng tôi để đảo
qua văn phòng, lúc nay lại tới để đưa chúng tôi về nhà trọ.

Sáng hôm sau tôi dậy hơi muộn và lúc xuống nhà đã thấy
Poirot ở trong phòng khách dành riêng: anh đi đi lại lại, vẻ mặt cau có.

- Đừng nói gì! - Anh bảo - Để tôi xem xem mọi việc
đã ổn chưa, hắn đã bị bắt giữ chưa, quả thực tôi đã thiếu một chút tâm lý. Một
người viết gì trước khi chết thì hẳn điều đó là rất quan trọng. Mọi người đọc:
"Hoa nhài vàng". Chả có nghĩa gì. Có khối ở ngoài vườn, thế thôi.
Nhưng mà không! Tôi đã tìm ra. Nghe đây!

Và Poirot giở cuốn sách nhỏ trên tay, đọc to:

- Gelsemium Sempervirens: Nhài Virginie, hoặc Nhài vàng.
Thành phần: Gelsiminine alcoloide C11H11Az1O1, độc dược mạnh tác động như
cicutine. Gelsemine: C11H11Az1O1, tác động như strychnine. Acide Gelseminine,
v.v.. Gelsemium là chất làm suy hệ thần kinh. Đến giai đoạn cuối, nó làm tê liệt
hai đầu các dây thần kinh chỉ đạo cử động; dùng nhiều, nó gây ra chóng mặt, tiếp
theo là mất mọi khả năng cơ bắp. Hậu quả là cái chết do tê liệt hệ hô hấp. Giờ
anh đã hiểu chưa? Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy Japp có lý, không thể giữ mãi một
người ấn đầu vào lửa: từ đó suy ra cái xác bị đốt cháy đã chết từ trước.

- Nhưng tại sao? Nhằm mục đích gì?

- Giả thử, anh cầm dao đâm một người đã chết; người
ta sẽ phát hiện ra ngay là vết thương do dao gây ra sau khi người đã chết!
Nhưng nếu đầu bị cháy thui, không ai nghĩ đến chuyện tìm ra nguyên nhân thực sự
của cái chết. Hơn nữa, không ai tin một người có vẻ như vừa thoát khỏi một âm
mưu đầu độc lại có thể tiếp tục bị đầu độc ngay sau đó. Vậy ai đã nói dối ta? Vẫn
là câu hỏi ấy. Tôi thì tôi tin Ah Ling.

- Sao? - Tôi thốt lên.

- Anh lạ lắm sao? Ah Ling biết có bọn Bốn Người,
nhưng không biết là vụ án này do chúng gây ra. Hắn chỉ đoán ra khi tôi nói xa
nói gần đến bọn chúng. Nếu được tôi luyện từ trước, hắn đã không tái mặt và giật
mình khi tôi viết con số 4. Vì vậy tôi quyết định tin những gì Ah Ling nói và
chuyển mọi nghi ngờ sang Gérald Paytner. Tôi nghĩ bọn Bốn Người dễ dàng bịa ra
một người cháu từ lâu không gặp.

- Đó là "Số Bốn" chăng? - Tôi hỏi, lòng hồi
hộp vô tả.

- Không, không phải "Số Bốn". Khi biết định
nghĩa khoa học của Hoa nhài vàng, tôi hiểu ngay sự thật. Rõ như ban ngày.

- Nhưng không rõ với tôi - Tôi ngọt nhạt.

- Vì anh không chịu bắt chất xám làm việc. Theo anh,
ai đã có thể đụng vào món càri?

- Ah Ling, và chỉ một mình hắn.

- Không còn ai nữa? Còn ông bác sĩ?

- Ông ấy chỉ đụng đến sau khi...!

- Đồng ý! Không hề có thuốc phiện trong món càri đem
lên cho ông Paytner! Chỉ do ảnh hưởng của người bác sĩ điều trị trước đó, ông
già sinh ra nghi ngờ nên không ăn. Ông ta cho gọi bác sĩ đến, đưa món càri đòi
ông đem đi xét nghiệm. Lấy cớ an thần, bác sĩ Quentin tiêm một mũi không phải
strychnine, mà là Hoa nhài vàng. Mũi tiêm chết người. Khi tác dụng của thuốc bắt
đầu, Quentin ra, sau khi đã mở cửa sổ để đến đêm sẽ quay trở lại lấy bản thảo;
lần thứ hai này hắn mới đẩy xác ông Paytner vào lửa. Nhưng hắn ta không chú ý tới
tờ báo vương dưới đất. Hắn ta không ngờ là phút chót, nạn nhân trong một cơn
minh mẫn loé sáng, đã nhận ra chất độc bị tiêm vào đoán ra bàn tay của Bộ Tứ.
Trong một nỗ lực cuối cùng, kẻ hấp hối cố nguệch ngoạc vài chữ lên lề tờ báo, để
tố cáo lũ sát nhân. Còn Quentin, hắn bỏ thêm thuốc phiện vào càri trước khi đưa
xét nghiệm, là việc dễ ợt. Còn câu chuyện hắn nói đã trao đổi với ông Paytner,
rõ ràng chỉ là tưởng tượng. Quentin nói đã tiêm strychnine cốt để vết tiêm để lại
trên da khỏi bị để ý. Tìm thầy thuốc phiện trong càri. Ah Ling sẽ bị nghi ngờ...

- Dù sao bác sĩ Quentin không phải là "Số Bốn".

- Tại sao không? Có thể có một bác sĩ Quentin thật
mà "Số Bốn" chỉ mượn danh! Bác sĩ Bolitho bố trí người thay thế đều
qua thư từ, vì các người mà ông ta chọn thay thế mình lại bị ốm vào phút chót.

Poirot giải thích đến đó, thì Japp ập vào, mặt nhớn
nhác.

- Ông tóm được hắn chưa? - Poirot xúc động không
kém.

Japp lắc đầu, không nói nên lời. Mãi rồi mới thốt
ra:

- Bác sĩ Bolitho vừa ở nơi nghỉ về sáng nay, nói là
có điện gọi ông về mà không biết ai đánh điện. Còn bác sĩ Quentin thay thế, hắn
đã tếch chiều qua. Hãy tin là chúng tôi sẽ tóm được hắn!

- Tôi không tin - Poirot nói, đầu lắc nhè nhẹ.

Và anh lấy mũi dao vạch một con số 4 lớn lên bàn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3