Suối Nguồn - Chương 15 part 1
Đây là sự sợ
hãi. Đây là cái mà người ta cảm thấy trong các cơn ác mộng – Peter Keating
nghĩ; chỉ có điều người ta luôn choàng dậy vào lúc sự sợ hãi trở nên quá sức
chịu đựng; còn anh, anh không thể thức dậy, cũng không thể chịu đựng điều này
lâu hơn nữa.
Nó đã lớn dần, nhiều ngày, nhiều tuần,
và bây giờ nó đã tóm được anh: nỗi sợ không thể tả nổi và đầy tính xác thịt
rằng anh sẽ thất bại. Anh sẽ thua trong cuộc thi, anh chắc chắn mình sẽ thua,
và sự chắc chắn càng lúc càng tăng khi mỗi ngày chờ đợi qua đi. Anh không thể
làm việc được, anh giật mình mỗi khi nói chuyện với người khác, anh đã không
ngủ nhiều đêm rồi.
Anh bước về phía căn nhà của Lucius
Heyer. Anh cố gắng không chú ý đến khuôn mặt của những người đi ngang qua,
nhưng anh buộc phải chú ý; anh đã luôn nhìn mọi người; và mọi người nhìn lại
anh, như họ vẫn luôn làm. Anh muốn quát vào mặt họ, anh bảo họ hãy quay đi, hãy
để cho anh được một mình. Họ đang nhìn mình chằm chằm – anh nghĩ vậy – bởi mình
sẽ thất bại và họ biết rõ điều này.
Keating đang đến nhà Heyer để tự cứu
mình khỏi thảm họa sắp tới theo cái cách mà anh thấy là duy nhất còn lại cho
anh. Nếu anh thua trong cuộc thi đó – và anh biết rõ là mình sẽ thua – Francon
sẽ sốc và vỡ mộng. Sau đó, nếu như Heyer chết – và ông ta có thể chết bất cứ
lúc nào – Francon sẽ do dự – do hậu quả cay đắng của việc bị bẽ mặt trước công
chúng – trong việc chấp nhận Keating làm người đồng sự. Và nếu như Francon do
dự thì trò chơi đã thất bại. Có rất nhiều người đang chờ đợi cơ hội này:
Bennett, người mà anh đã không thể đuổi cổ khỏi văn phòng; Claude Stengel,
người đang tiến rất nhanh trong công việc kinh doanh độc lập của anh ta, và đã
tiếp cận Francon với lời đề nghị mua lại vị trí của Heyer. Keating thì chẳng có
gì trong tay, ngoại trừ niềm tin không lấy gì làm chắc chắn của Francon đối với
anh. Một khi một đồng sự khác thay thế Heyer thì tương lai của Keating sẽ chấm
hết. Anh đã đến quá gần và đã để lỡ mất. Điều đó sẽ không bao giờ được tha thứ.
Qua những đêm không ngủ, một quyết định
đã hiện lên thật rõ ràng và cứng rắn trong đầu Keating: anh phải kết thúc vấn
đề ngay lập tức; anh phải tận dụng những hy vọng hão huyền của Francon trước
khi tên người thắng cuộc được thông báo; anh phải đẩy Heyer ra khỏi công ty và
chiếm vị trí của ông ta. Anh chỉ còn vài ngày nữa thôi.
Anh nhớ những câu chuyện tào lao của
Francon về tính cách của Heyer. Anh xem xét những tài liệu trong văn phòng của
Heyer và tìm thấy cái anh muốn tìm thấy. Đó là một lá thư từ một chủ thầu, viết
cách đây mười lăm năm; nó nói rằng nhà thầu gửi kèm một tấm séc 25.000 đô la
cho ông Heyer.
Keating tra lại hồ sơ lưu trữ về tòa nhà
đó; có vẻ như công trình này đã tốn kém nhiều hơn mức cần thiết. Đó cũng chính
là năm Heyer bắt đầu việc sưu tập đồ gốm.
Anh tìm thấy Heyer một mình trong phòng
đọc sách. Đó là một căn phòng nhỏ, mờ tối, không khí trong phòng nặng nề, như
thể chưa bị động đến cả năm trời. Những ván lót màu gụ, những tấm thảm thêu,
những đồ gỗ vô giá được giữ cực kỳ sạch sẽ, nhưng căn phòng, theo cách nào đó,
lại có mùi của sự bần cùng và mục nát. Có một cây đèn đơn lẻ đang cháy được đặt
trên chiếc bàn nhỏ nằm trong góc, và năm cái tách gốm cổ tinh tế, quý giá trên
mặt bàn. Heyer ngồi còng người, ngắm nghía những cái tách trong ánh sáng mờ mờ
với một sự thích thú mơ hồ, không chủ đích. Ông hơi rùng mình đôi chút khi
người hầu già cho Keating vào, và ông hấp háy mắt hơi bối rối, nhưng vẫn mời
anh ngồi.
Khi nghe thấy những âm thanh đầu tiên
trong giọng nói của chính mình, Keating biết rằng anh đã mất đi nỗi sợ hãi đeo
đuổi anh trên suốt quãng đường qua các con phố – giọng nói của anh lạnh lùng và
đều đều. Tim Davis, anh nghĩ, Claude Stengel, và giờ thì chỉ còn một kẻ nữa
phải loại bỏ.
Anh giải thích điều anh muốn; anh trải
lên không khí bất động của căn phòng một bài diễn văn ngắn, chính xác, hoàn
chỉnh – như một viên đá quý với những cái gờ được cắt sạch sẽ.
“Và vì thế, trừ khi ông thông báo cho
Francon về việc ông nghỉ hưu vào sáng mai,” anh kết luận, hai ngón tay kẹp một
góc của lá thư, “cái này sẽ được gửi
cho A.G.A.”
Anh chờ đợi. Heyer ngồi im, với đôi mắt
phồng lên xanh xao trống rỗng và miệng há ra thành một hình tròn hoàn hảo.
Keating rùng mình và tự hỏi không hiểu có phải anh đang nói chuyện với một
người mất trí.
Rồi miệng Heyer chuyển động và cái lưỡi
hồng nhợt nhạt của ông lộ ra, khẽ chạm vào hàm răng dưới.
“Nhưng tôi không muốn nghỉ hưu.” Ông nói
đơn giản, không dối trá, trong một tiếng kêu nóng nảy khe khẽ.
“Ông sẽ phải nghỉ hưu.”
“Tôi không muốn. Tôi sẽ không làm thế.
Tôi là một kiến trúc sư nổi tiếng. Tôi luôn là một kiến trúc sư nổi tiếng. Tôi
mong mọi người sẽ thôi không làm phiền tôi. Họ đều muốn tôi nghỉ hưu. Tôi sẽ
nói cho cậu một điều bí mật.” Ông ngả người về phía trước và thì thầm một cách
ranh mãnh: “Cậu có thể không biết điều này nhưng tôi biết, hắn ta không thể lừa
được tôi đâu. Guy muốn tôi nghỉ hưu. Hắn nghĩ rằng hắn khôn hơn tôi nhưng tôi
có thể nhìn thấu tâm địa của hắn. Đó là một vố hay cho Guy.” Ông ta khẽ cười
rúc rích.
“Tôi không nghĩ là ông đã hiểu tôi. Ông
có hiểu cái này không?” Keating đẩy lá thư vào những ngón tay khép hờ của
Heyer.
Anh quan sát tờ giấy mỏng manh rung lên
khi Heyer cầm nó. Rồi nó rơi xuống bàn và bàn tay trái của Heyer, với những
ngón tay bị tê liệt, thọc mạnh vào đó một cách mù quáng, không chủ đích, giống
như một cái móc. Ông nói, hít sâu:
“Anh không thể gửi cái này đến cho A.G.A.
Họ sẽ tịch thu giấy phép hành nghề của tôi mất.”
“Chắc chắn rồi,” Keating nói, “họ sẽ làm
thế.”
“Và chuyện này sẽ lên báo”
“Trên tất cả các báo”
“Cậu không thể làm như thế được.”
“Tôi sẽ làm như thế, trừ khi ông nghỉ
hưu.”
Hai vai của Heyer ngả khuất dưới mép
bàn. Đầu ông vẫn còn ở bên trên, rụt rè, như thể ông cũng đã sẵn sàng giấu nó
khỏi tầm nhìn.
“Cậu sẽ không làm thế. Xin cậu đừng làm
thế,” Heyer lẩm bẩm một hơi dài, không ngắt quãng. “Cậu là một chàng trai tốt,
cậu là một chàng trai tốt, cậu sẽ không làm như vậy phải không?”
Vuông giấy ố vàng nằm trên bàn. Bàn tay
trái vô dụng của Heyer với lấy nó, bò chậm chạp trên mép bàn. Keating vươn
người về phía trước và giật lấy lá thư dưới bàn tay ông ta.
Heyer nhìn anh, đầu ông ta ngả về một
bên, miệng há ra. Trông ông ta giống như thể chờ đợi Keating đánh ông, với một
cái liếc nhìn bệnh hoạn, và van xin – cái liếc nhìn như muốn nói ông ta sẽ cho
phép Keating đánh ông.
Heyer thì thầm: “Xin cậu, cậu sẽ không
làm như vậy, phải không? Tôi cảm thấy không khỏe. Tôi chưa bao giờ làm gì hại
cậu. Tôi hình như nhớ, có lần tôi đã làm cho cậu một việc gì đấy rất tốt.
Keating ngắt lời: “Cái gì? Ông đã làm được gì cho tôi?”
“Tên cậu là Peter Keating... Peter Keating... tôi nhớ mà...
tôi đã làm một việc gì đó tốt cho cậu. Cậu là người mà Guy rất tin cậy. Nhưng
đừng tin Guy. Tôi không tin ông ta. Nhưng tôi thích cậu. Một ngày nào đó chúng
tôi sẽ cho cậu thành nhà thiết kế.” Khuôn miệng ông vẫn há nguyên sau từ cuối
cùng. Một dòng nước bọt mảnh rớt xuống từ khóe miệng ông. “Làm ơn, đừng...”
Đôi mắt Keating ánh lên sự ghê tởm; sự ghê tởm thúc đẩy anh;
anh phải khiến cho mọi thứ kinh tởm hơn nữa, bởi anh không thể chịu nổi nó.
“Ông sẽ bị vạch trần” – Keating nói, những âm thanh trong
giọng nói của anh rung lên hoan hỉ – “Ông sẽ bị buộc tội ăn hối lộ. Mọi người
sẽ chỉ thẳng vào mặt ông. Họ sẽ in ảnh của ông trên các báo. Chủ tòa nhà đó sẽ
đưa đơn kiện ông. Người ta sẽ tống ông vào tù”
Heyer không nói lời nào. Ông không nhúc nhích. Keating chợt
nghe những cái tách trên bàn kêu leng keng nhè nhẹ. Anh không nhìn thấy cơ thể
Heyer rung lên. Anh chỉ nghe thấy một tiếng ngân mảnh trong vắt trong cái im
lặng của căn phòng, như thể những cái tách tự run lên.
“Biến đi,” – Keating lên giọng, để khỏi nghe thấy tiếng ngân
kia – Biến khỏi công ty đi! Ông muốn ở lại vì cái gì chứ? Ông vô tích sự. Ông
chưa bao giờ được tích sự gì”
Gương mặt vàng ệch ở mép bàn há miệng và phát ra một âm thanh
ẩm ướt, ùng ục, nghe như một tiếng rên.
Keating ngồi thoải mái, người cúi về phía trước, hai đầu gối
mở rộng, một cùi tay tì vào đầu gối, bàn tay thõng xuống, đung đưa lá thư.
“Tôi...” – Heyer tắc nghẹn – “Tôi...”
“Câm mồm. Ông không được nói gì cả, chỉ có hay không thôi.
Nào nghĩ nhanh lên. Tôi không ở đây để tranh cãi với ông.”
Heyer thôi không run rẩy. Một cái bóng cắt chéo qua mặt ông.
Keating nhìn thấy một con mắt không hề chớp, nửa cái miệng vẫn há ra, và bóng
tối chảy vào qua cái lỗ đó, tràn vào khuôn mặt, như thể nó đang chết đuối.
“Trả lời đi.” Keating hét lên, đột nhiên cảm thấy sợ hãi.
“Tại sao ông không trả lời tôi?”
Nửa khuôn mặt lắc lư và anh nhìn thấy cái đầu tròng trành về
phía trước. Nó rớt xuống mặt bàn, và tiếp tục chúi xuống, lăn trên sàn nhà như
bị cắt rời ra; hai trong số những cái tách cũng rơi theo nó, nhẹ vỡ thành nhiều
mảnh trên thảm. Điều đầu tiên Keating cảm thấy là sự nhẹ nhõm khi nhìn thấy cái
cơ thể cũng ngã theo cái đầu và nằm nhàu nhĩ thành một đống trên sàn, nguyên
vẹn. Chẳng có tiếng động gì cả, chỉ có tiếng ngân thánh thót nghèn nghẹt của đồ
gốm.
Ông ta sẽ tức điên lên mất, Keating nghĩ khi anh nhìn xuống
những cái tách. Anh bật dậy, quỳ gối xuống, gom những mảnh vỡ lại một cách vu
vơ; anh nhận ra chúng đã bị vỡ đến mức không thể sửa lại được. Cùng lúc đó, anh
biết anh đang nghĩ rằng nó đã đến, cơn đột quỵ thứ hai mà mọi người đã chờ đợi,
và anh sẽ phải làm gì đó với nó, ngay lập tức; và rằng ổn rồi, bởi vì bây giờ
Heyer sẽ phải nghỉ hưu.
Anh dịch đầu gối đến gần cơ thể Heyer. Anh băn khoăn không
hiểu vì sao mình không muốn đụng vào nó. “Ông Heyer” anh gọi. Giọng anh nhẹ
nhàng, gần như là kính trọng.
Anh cẩn thận nâng đầu Heyer lên. Anh để nó rơi xuống. Anh
không nghe thấy tiếng nó rơi xuống. Anh nghe thấy tiếng nấc lên trong cổ họng
mình. Heyer đã chết.
Anh ngồi bên cạnh cơ thể ông, hai mông đè lên hai gót chân,
hai bàn tay xòe trên hai đầu gối. Anh nhìn thẳng về phía trước; ánh mắt anh
dừng lại trước những nếp gấp trên tấm rèm ở bên cửa ra vào; anh băn khoăn liệu
cái sắc óng ánh màu xám là bụi hay là tuyết nhung và liệu đó có phải là nhung
không và treo rèm ở cạnh cửa ra vào thì mới lỗi mốt làm sao. Rồi anh thấy cơ
thể mình run lên. Anh muốn nôn. Anh đứng dậy, đi ngang qua căn phòng và mở tung
cửa, vì anh nhớ ra rằng còn có những người còn lại của căn hộ ở đâu đó và có
một người hầu phòng trong nhà nữa. Anh gọi; anh cố gắng kêu cứu.
*
* *
Keating đến văn phòng như thường lệ. Anh
trả lời những thắc mắc, anh giải thích rằng ngày hôm đó Heyer đã yêu cầu anh
đến nhà ông sau bữa tối; Heyer muốn bàn bạc với anh về chuyện nghỉ hưu của ông
ta. Không ai nghi ngờ câu chuyện này và Keating biết rằng cũng sẽ chẳng có ai
lại nghi ngờ gì. Kết cục của Heyer đã đến đúng như mọi người đều mong đợi.
Francon không cảm thấy gì khác ngoài sự nhẹ nhõm. Ông nói: “Chúng ta đều biết
sớm hay muộn thì ông ta cũng sẽ thế. Tại sao lại phải hối tiếc khi ông ta đã tự
miễn cho chính mình và tất cả chúng ta một sự hấp hối kéo dài?”
Cử chỉ của Keating bình tĩnh hơn nhiều so với những tuần
trước. Đó là sự bình tĩnh của của một trạng thái sững sờ trống rỗng. Có một ý
nghĩ cứ bám theo anh, nhẹ nhàng, không mạnh mẽ, đều đều, khi làm việc, khi ở
nhà, vào ban đêm: ta là kẻ giết người... không, nhưng cũng gần như là một kẻ
giết người... cũng gần như một kẻ giết người... Anh biết đó không phải là một
tai nạn; anh biết anh đã trông chờ vào cơn sốc và nỗi khiếp sợ, anh đã trông
chờ vào cơn đột quỵ thứ hai của Heyer, cơn đột quỵ sẽ khiến ông phải vào bệnh
viện trong những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng liệu đó có phải là tất cả
những gì anh đã hy vọng? Chẳng lẽ anh không biết cơn đột quỵ thứ hai này còn có
thể có ý nghĩa gì khác? Anh có trông chờ vào điều đó không nhỉ? Anh cố nhớ lại.
Anh cố gắng vắt óc đến khô kiệt. Anh chẳng cảm thấy gì. Anh mọng đợi là mình
không cảm thấy gì, dù là cách này hay cách khác. Có điều, anh vẫn muốn biết.
Anh không nhận thấy điều gì đang diễn ra xung quanh trong văn phòng. Anh quên
mất anh chỉ còn một thời gian ngắn để hoàn thành thỏa thuận với Francon về
chuyện chọn người cộng sự.
Một vài ngày sau cái chết của Heyer, Francon cho gọi anh lên
văn phòng.
“Ngồi xuống đi, Peter,” ông nói kèm theo một nụ cười vui vẻ
hơn mọi khi. “Này chàng trai, tôi có tin tốt lành cho cậu đây. Sáng nay, người
ta đã đọc bản di chúc của Lucius. Cậu biết đấy, ông ta không còn con cái họ
hàng gì. Chà, tôi thật sự ngạc nhiên, tôi đã không đánh giá ông ta đúng mức,
tôi đoán vậy, nhưng có vẻ như thỉnh thoảng ông ta cũng có những cử chỉ nghĩa
hiệp. Ông ấy đã để lại mọi thứ cho cậu... Thật là tuyệt, phải không? Giờ thì
cậu không phải lo lắng về số tiền đầu tư khi chúng ta thỏa thuận về việc... Có
chuyện gì vậy Peter? Peter, này chàng trai, cậu ốm à?”
Peter gục mặt xuống cánh tay đang đặt trên góc bàn. Anh không
thể để Francon nhìn thấy mặt mình lúc này. Anh sắp nôn oẹ; nôn oẹ, bởi vì xuyên
qua sự kinh hãi, anh bắt quả tang anh đang tự hỏi liệu Heyer đã thực sự để lại
bao nhiêu...
Bản di chúc được viết cách đây năm năm; có thể trong một cơn
bột phát tình cảm yêu mến với người duy nhất thể hiện sự quan tâm đến Heyer ở
văn phòng; có thể đó là một hành động để chống lại Francon; bản di chúc đã được
soạn và đã bị quên lãng. Di sản lên tới hai trăm ngàn đô la, cộng thêm khoản
lợi tức của Heyer ở công ty và bộ sưu tập gốm của ông.
Hôm đó, Keating rời văn phòng sớm. Anh không nghe những lời
chúc mừng. Anh trở về nhà, báo tin cho mẹ, để cho bà há hốc miệng kinh ngạc
giữa phòng khách, còn anh khóa mình trong phòng ngủ. Trước bữa tối, anh ra
ngoài mà không nói câu nào. Tối hôm đó, anh không ăn tối, nhưng tại quán rượu
lậu ưa thích, anh tự chuốc rượu cho mình nhiều rượu đến mức anh càng uống càng
tỉnh táo một cách điên dại. Và trong trạng thái minh mẫn cao độ – đầu anh gật
trên một chiếc cốc nhưng trí não vẫn rất chắc chắn – anh tự nhủ rằng mình không
có gì phải hối hận, mình đã làm cái điều mà bất kỳ ai hẳn sẽ làm như vậy;
Catherine đã nói thế, anh là kẻ ích kỷ, tất cả mọi người đều ích kỷ. Ích kỷ
chẳng phải điều gì tốt đẹp nhưng không chỉ có mình anh ích kỷ; anh chỉ may mắn
hơn nhiều người; anh may mắn hơn, bởi anh tốt hơn nhiều người; anh cảm thấy ổn;
anh hy vọng những câu hỏi vô nghĩa sẽ không quay lại với anh nữa; mọi người đều
vì bản thân mình, anh lẩm bẩm và ngủ gục trên bàn.
Những câu hỏi vô nghĩa không bao giờ trở lại với anh nữa. Anh
không có thời gian dành cho chúng trong những ngày sau đó. Anh đã thắng trong
cuộc thi Cosmo-Slotnick.