Suối Nguồn - Chương 09 part 1
John Erik Snyte xem hết những bản
phác thảo của Roak, bỏ ba bản trong số đó sang một bên, gom những bản còn lại
thành một chồng gọn. Ông liếc nhanh lại ba bản, ném gọn gàng từng bản một lên chồng
bản thảo và nói:
“Xuất sắc. Cực đoan nhưng xuất sắc. Tối nay anh làm gì?”
“Tại sao?” Roark hỏi, kinh ngạc.
“Anh có rỗi không? Bắt tay ngay vào việc được không? Cởi áo
anh ra, đến phòng thiết kế, mượn dụng cụ của ai đấy và vẽ cho tôi một bản phác
thảo cho cái cửa hàng bách hóa mà chúng tôi đang sửa lại. Chỉ là một bản phác
nhanh thôi, chỉ cần hình dung chung là được, nhưng tôi phải có nó vào ngày mai.
Anh có phiền nếu phải ở lại muộn đêm nay không? Máy sưởi đang bật rồi và tôi sẽ
bảo Joe mang bữa tối lên cho anh. Muốn cà phê đen hay rượu Scotch hay cái gì?
Cứ bảo Joe. Anh ở lại được không?”
“Được” Roark nói với vẻ hồ nghi. “Tôi có thể làm việc cả
đêm.”
“Tốt! Rất tốt! Đó chính là điều tôi luôn mong đợi – một người
kiểu Cameron. Tôi đã có tất cả những kiểu người khác rồi. À phải, họ trả anh
bao nhiêu ở chỗ Francon?”
“65 đô la.”
“À tôi thì không thể vung tay như ngài Guy Phóng túng đó
được. Tối đa 50 đô la. OK? Tốt. Làm luôn đi. Tôi sẽ bảo Billings giải thích về
cửa hàng bách hóa đó cho anh. Tôi muốn thứ gì đó hiện đại. Hiểu không? Hiện
đại, mạnh mẽ, điên rồ, cho tụi nó lòi mắt ra. Đừng kìm hãm bản thân. Cứ đi đến
tận cùng. Dùng bất kỳ ý tưởng điên rồ nào mà anh có thể nghĩ ra, càng điên rồ
càng tốt. Đi nào!”
John Erik Snyte rảo bước, mở tung cánh cửa vào một phòng
thiết kế rộng mênh mông, đi nhanh vào phòng, đẩy một cái bàn, rồi dừng lại và
nói với một người đàn ông mập mạp có bộ mặt tròn vẻ hằm hằm: “Billings – đây là
Roark. Anh ấy là người thiết kế kiểu hiện đại cho chúng ta. Đưa anh ấy hồ sơ
cửa hàng Benton. Lấy cho anh ấy một số dụng cụ. Đưa anh ấy chìa khóa của anh và
chỉ cho anh ấy những thứ phải khóa đêm nay. Bắt đầu tính cho anh ấy từ sáng
nay. 50 đô la. Mấy giờ tôi có hẹn với anh em nhà Dolson? Tôi muộn rồi. Chào,
tôi sẽ không quay lại tối nay đâu.”
Ông ta trượt ra khỏi phòng, đóng sầm cửa lại. Billings chẳng
tỏ ra ngạc nhiên chút nào. Anh nhìn Roark như thể Roark đã luôn ở đó. Anh nói
một cách vô cảm, bằng một giọng lè nhè mệt mỏi. Hai mươi phút sau, anh ta để
lại Roark ở một cái bàn thiết kế với giấy, bút chì, các dụng cụ, một tập các
bản vẽ mặt bằng và ảnh của cửa hàng bách hóa, một tập biểu đồ, và một danh sách
dài những hướng dẫn.
Roark nhìn vào tờ giấy trắng sạch sẽ trước mặt anh, bàn tay
anh nắm chặt lấy cái thân nhỏ của chiếc bút chì. Anh đặt cây bút xuống, và lại
nhặt nó lên, ngón tay cái miết qua lại nhè nhẹ trên thân bút nhẵn; anh nhìn
thấy cây bút đang run. Anh bỏ ngay nó xuống, và cảm thấy tức giận với chính bản
thân mình vì sự yếu đuối khi anh cho phép công việc trở nên quá quan trọng với
mình, vì đột ngột nhận ra ý nghĩa thực sự của những tháng nhàn rỗi vừa qua.
Những đầu ngón tay anh bị ấn xuống giấy như thể tờ giấy giữ chúng lại – giống
như một bề mặt tích điện sẽ hút lấy da thịt của cái người đã chà xát lên bề mặt
ấy – nó giữ và gây đau đớn. Anh giằng những ngón tay khỏi tờ giấy. Rồi anh bắt
đầu làm việc...
John Erik Snyte 50 tuổi; ông mang một vẻ hài hước giễu cợt –
khôn ngoan và khiếm nhã – như thể ông ta chia sẻ với mỗi người ông ta ngắm nhìn
một bí mật dâm dục mà ông ta sẽ chẳng nói ra bởi điều đó quá là hiển nhiên với
cả hai bọn họ. Ông là một kiến trúc sư có tài; ông không hề đổi sắc mặt khi nói
về điều này. Ông coi Guy Francon như một người lý tưởng hóa phi thực tế; ông
không hạn chế mình vào một giáo điều cổ điển nào; ông ta thành thạo và cách tân
hơn nhiều: ông xây bất kỳ thứ gì. Ông không bài xích kiến trúc hiện đại và xây
dựng một cách vui vẻ – khi khách hàng yêu cầu – những cái nhà hộp trần trụi với
mái bằng mà ông gọi là “tiên tiến”; ông xây những biệt thự kiểu La Mã mà ông
gọi là “cảnh vẻ”; ông xây các nhà thờ theo phong cách Gothic mà ông gọi là
“thiêng liêng.” Ông chẳng thấy sự khác biệt nào giữa chúng cả. Ông chẳng bao
giờ tức giận, chỉ trừ khi ai đó gọi ông là người theo quan điểm chiết trung.[1]
Ông có một hệ thống của riêng ông. Ông thuê năm kiến trúc sư
thuộc đủ các loại và ông tổ chức một cuộc thi giữa họ cho mỗi công trình ông
nhận được. Ông chọn thiết kế thắng cuộc và hoàn thiện nó bằng cách bổ sung một
số ý tưởng trong bốn thiết kế còn lại. “Sáu cái đầu,” ông nói, “thì tốt hơn một
cái.”
Khi Roark nhìn thấy bản vẽ cuối cùng của Cửa hàng bách hóa
Benton, anh hiểu vì sao Snyte đã không ngại thuê anh. Anh nhận ra những không
gian, những cửa sổ, hệ thống thông gió của anh; anh cũng nhìn thấy chúng đã
được bổ sung thêm các đầu cột kiểu Corinthian, mái vòm kiểu Gothic, những chùm
đèn kiểu thuộc địa và những đường gờ thấp thoáng kiểu Ma-rốc. Bản vẽ được tô
màu nước, với sự tinh tế tuyệt diệu, được dán trên bìa các tông, và được phủ
lên một lớp giấy thấm. Các kiến trúc sư trong phòng thiết kế không được phép
ngắm nó, trừ phi từ một khoảng cách an toàn; tay họ phải được rửa sạch và thuốc
lá phải được loại bỏ hoàn toàn. John Erik Snyte rất coi trọng vẻ ngoài hoàn hảo
của bản vẽ khi đưa nó cho khách hàng, và thuê một sinh viên kiến trúc Trung
Quốc chỉ để coi sóc cho những tuyệt tác này.
Roark biết rõ anh có thể mong chờ gì từ công việc này. Anh sẽ
không bao giờ được nhìn thấy công trình của mình được xây dựng, chỉ vài phần
của nó thôi, mà điều này thì anh thà không nhìn thấy còn hơn; nhưng anh sẽ được
tự do thiết kế như mong muốn và anh sẽ có kinh nghiệm giải quyết những vấn đề
thực tế. Những điều này ít hơn những gì anh muốn nhưng lại nhiều hơn những gì
anh hy vọng. Anh chấp nhận như thế. Anh đã gặp những kiến trúc sư đồng nghiệp,
bốn đối thủ của anh, và nhận thấy rằng họ đều được đặt những biệt danh không
chính thức trong phòng thiết kế: “Cổ điển,” “Gothic”, “Phục hưng” và “Tạp” Anh
hơi cau mày một chút khi người ta gọi anh “Này, Hiện-đại.”
*
* *
Cuộc đình công
của các nghiệp đoàn xây dựng đã khiến Guy Francon cực kỳ tức giận. Ban đầu, các
cuộc đình công nhằm vào các nhà thầu đang xây dựng khách sạn Noyes-Belmont và
sau đó đã lan tới tất cả các công trình mới của thành phố. Báo chí đã đề cập
rằng các kiến trúc sư của khách sạn Noyes-Belmont là hãng Francon & Heyer.
Hầu hết các tờ báo đều hỗ trợ trong cuộc chiến đấu; họ thuyết
phục những nhà thầu không đầu hàng. Những công kích mạnh mẽ nhất chống lại
những người đình công đến từ những tờ báo đầy quyền lực thuộc tập đoàn Wynand.
“Chúng tôi đã luôn đứng đại diện cho quyền lợi của tầng lớp
bình dân chống lại những con cá mập đầy đặc quyền đặc lợi” – các bài xã luận
của tập đoàn Wynand viết: “nhưng chúng tôi không thể ủng hộ sự phá hoại luật
pháp và trật tự được.” Người ta chưa bao giờ biết được liệu những tờ báo của
Wynand dẫn dắt dư luận hay dư luận dẫn dắt các tờ báo của Wynand; chỉ biết rằng
cả hai luôn sóng bước nhịp nhàng. Cũng chẳng ai, ngoại trừ Guy và một số rất ít
người khác, biết được rằng Gail Wynand là chủ của tập đoàn sở hữu cái tập đoàn
đang nắm trong tay khách sạn Noyes-Belmont.
Điều này càng làm cho Francon thêm khó chịu. Người ta đồn
rằng các hoạt động bất động sản của Wynand còn khổng lồ hơn cả đế chế báo chí
của ông ta. Đây là lần đầu tiên Francon có cơ hội làm một công trình của
Wynand, và ông ta nắm lấy nó một cách háo hức khi nghĩ đến những cơ hội mà nó
có thể mở ra. Ông ta cùng với Keating đã nỗ lực hết sức để thiết kế nên một
cung điện lộng lẫy nhất trong các cung điện kiểu Rococo1 để dành cho những vị
khách tương lai – những người có thể trả 25 đô la một ngày cho một phòng, đồng
thời là những người thích hoa văn bằng thạch cao, tượng thần ái tình bằng đá
cẩm thạch và những thang máy như những cái lồng bằng đồng, để lộ bên ngoài.
Cuộc đình công đã làm tiêu tan những cơ hội tương lai kia. Dĩ nhiên, không thể
đổ lỗi cho Francon về điều đó, nhưng cũng không thể biết Guy Wynand sẽ đổ lỗi
cho ai và vì lý do gì. Sự thất thường và vô trách nhiệm trong ý thích của
Wynand đã quá nổi tiếng, và người ta đều biết là hầu như không có kiến trúc sư
nào đã từng được Wynand thuê lại được ông ta thuê lại lần thứ hai.
Tâm trạng rầu rĩ của Francon khiến ông ta gắt gỏng chẳng về
một vấn đề cụ thể nào với một người đã luôn được miễn trừ khỏi chuyện này –
Peter Keating. Keating nhún vai và quay lưng lại Francon với một vẻ chống đối
lặng lẽ. Rồi anh đi lang thang vô định qua các sảnh, càu nhàu với những kiến
trúc sư trẻ nhưng không khiêu khích. Anh chạm trán Lucius N. Heyer ở ngưỡng cửa
và rít lên: “Đi đứng thì phải nhìn chứ!” Heyer nhìn trân trối vào Keating,
hoang mang, và chớp chớp mắt.
Chẳng có việc gì để làm trong văn phòng, chẳng có gì để nói
và cứ phải tránh mặt tất cả mọi người. Keating bỏ về sớm và đi bộ về nhà trong
một buổi hoàng hôn lạnh lẽo tháng Mười hai.
Ở nhà, anh lớn tiếng nguyền rủa mùi sơn nồng nặc tỏa ra từ
cái máy sưởi bị bật quá nóng. Anh nguyền rủa cái lạnh khi mẹ anh mở một cửa sổ.
Anh chẳng thể tìm ra lý do cho sự bồn chồn của mình, ngoại trừ sự rảnh rang đột
ngột đã khiến anh trở nên cô độc. Anh không thể chịu được việc bị bỏ lại cô
độc.
Anh chụp lấy ống nghe điện thoại và gọi cho Catherine Halsey.
Giọng nói rõ ràng của cô như một bàn tay áp lên làm dịu đi cái trán nóng bỏng
của anh. Anh nói: “Ồ không có gì quan trọng đâu em yêu, anh chỉ không biết em
có nhà tối nay hay không. Anh nghĩ anh sẽ ghé qua sau bữa tối.”
“Tất nhiên rồi, Peter. Em sẽ ở nhà.”
“Tuyệt vời! Khoảng tám rưỡi nhé?”
“Vâng... À Peter, anh đã nghe về chú
Ellsworth chưa?”
“Rồi, quỷ tha ma bắt, anh đã nghe kể
về chú Ellsworth rồi! Anh xin lỗi, Katie... Tha lỗi cho anh, anh không muốn bất
lịch sự nhưng anh đã nghe về chú em cả ngày rồi. Anh biết, thật là tuyệt, vân
vân... chỉ có điều, thế này nhé, tối nay chúng ta sẽ không nói về chú ấy nữa!”
“Không, tất nhiên là không rồi. Em
xin lỗi. Em hiểu. Em sẽ đợi anh.”
“Thế nhé Katie.”
Anh đã nghe chuyện gần đây nhất về
Ellsworth Toohey nhưng anh không muốn nghĩ lại chuyện ấy nữa bởi nó sẽ gợi lại
chuyện đình công đang khiến anh phiền muộn.
Sáu tháng trước, trong đợt sóng thành
công của cuốn Những lời răn trên đá,
Ellsworth Toohey đã được giao viết mục Một
tiếng nói nhỏ, một cột báo hàng ngày trên các tờ báo của Wynand. Mục đó
xuất hiện trên tờ Ngọn cờ và bắt đầu
với tư cách một mục phê bình nghệ thuật, nhưng đã phát triển thành một khán đài
không chính thức mà Ellsworth M. Toohey dùng để tuyên bố những phán quyết về
nghệ thuật, văn học, về các nhà hàng ở New York, về các cuộc khủng hoảng quốc
tế và về các vấn đề xã hội – chủ yếu là các vấn đề xã hội. Mục báo thành công
lớn. Tuy nhiên cuộc đình công xây dựng đã đặt Ellsworth M. Toohey vào một tình
thế khó khăn. Ông không che giấu sự cảm thông của mình với những người đình
công nhưng ông không phát biểu gì trong cột báo của mình, bởi vì, ngoại trừ
Gail Wynand, không ai được phép nói bất cứ cái gì anh ta thích trên mặt báo của
Gail Wynand. Tuy nhiên một cuộc họp đông đảo của những người ủng hộ đình công
đã được tổ chức trong buổi tối hôm nay. Rất nhiều người nổi tiếng sẽ phát biểu,
trong đó có Ellsworth Toohey. Ít nhất thì tên của Toohey đã được thông báo.
Sự kiện này gây nên rất nhiều suy
đoán tò mò và người ta đã cá cược với nhau liệu Toohey có dám xuất hiện không.
“Ông ấy sẽ đến,” Keating đã nghe một anh chàng vẽ kiến thiết khẳng định chắc
chắn như thế, “ông ấy sẽ hy sinh bản thân. Ông ấy là người như thế. Ông ấy là
người trung thực duy nhất trong giới báo chí.”
“Ông ấy sẽ không đến,” một người khác
lại nói, “Anh có biết chơi một trò liều mạng như thế với Wynand là như thế nào
không? Một khi mà Wynand đã muốn diệt một người nào đó, ông ta chắc chắn sẽ
thiêu cháy người đó như lửa địa ngục vậy. Không ai biết ông ta sẽ làm gì hay
ông ta sẽ làm như thế nào, nhưng mà ông ta sẽ làm, và chẳng ai có thể chứng
minh điều gì, và anh chắc chắn hết đời một khi Wynand quyết diệt anh.” Keating
không quan tâm đến chuyện này – những thứ bung xung này làm anh khó chịu.
Tối đó anh ăn tối trong một sự yên
lặng bực bõ và khi bà Keating vừa mới mở miệng: “Ồ nhân tiện...” để lái câu
chuyện sang một hướng mà anh nhận ra, thì anh liền gắt: “Mẹ đừng nhắc đến
Catherine. Mẹ đừng nói gì hết.”
Bà Keating không nói gì nữa và chỉ
tập trung vào việc tiếp thêm thức ăn vào đĩa cho Keating.
Anh bắt tắc-xi tới Greenwich Village.
Anh vội vã lên cầu thang. Anh giật chuông cửa. Anh đợi. Không có tiếng trả lời.
Anh đứng dựa vào tường và bấm chuông hồi lâu. Catherine sẽ không đi ra ngoài
khi biết là anh sẽ tới; cô ấy không thể như thế được. Anh đi xuống cầu thang
trong tâm trạng hoài nghi, rồi bước ra đường và nhìn lên cửa sổ căn hộ của
Catherine. Các cửa sổ đều tối om.
Anh đứng đó nhìn lên các cửa sổ như
thể nhìn vào một sự phản bội ghê gớm. Rồi một cảm giác cô đơn ghê gớm tràn đến,
như thể anh là một người vô gia cư trong một thành phố lớn; trong phút chốc anh
quên mất cả địa chỉ nhà mình và thậm chí cả sự tồn tại của nó nữa. Rồi anh nghĩ
đến cuộc mít tinh, cuộc mít tinh lớn nơi mà đêm nay, bác của Catherine sẽ công
khai biến mình thành một kẻ tử vì đạo. Đó chính là chỗ cô ấy đến, anh nghĩ,
thật là ngu ngốc chết tiệt! Anh rủa to: “Quỷ tha ma bắt cô ta!”.. Rồi anh rảo
bước về phía cuộc mít tinh.
Có một bóng điện trần treo trên khung
cửa hình vuông dẫn vào đại sảnh – đó là một bóng đèn nhỏ màu trắng xanh, tỏa
một thứ ánh sáng quái gở, quá lạnh lẽo và quá sáng. Nó thình lình nhảy ra từ
con phố tối, chiếu sáng một dòng nước mưa mảnh chảy từ một cái gờ ở phía trên,
biến dòng nước mưa trở thành một cây kim thủy tinh lấp lánh – quá mảnh và nhẵn
đến nỗi Keating có ý nghĩ điên rồ về những câu chuyện có những người bị đâm
bằng nhũ băng cho đến chết. Một vài kẻ rỗi hơi đứng hờ hững trong mưa quanh lối
vào, và cả một vài tay cảnh sát cũng đứng đó. Cánh cửa của sảnh đang mở. Hành
lang sáng lờ mờ, đầy những người không chen được vào tiền sảnh lúc này đã chật
cứng, họ đang lắng nghe một cái loa được gắn ở đó để phục vụ buổi mít tinh. Ở
ngưỡng cửa có ba bóng người mờ mờ đang phát tờ rơi cho người qua lại. Một trong
những cái bóng đó là một người thanh niên gầy yếu không cạo râu với cái cổ dài
để trần; người thứ hai là một thiếu niên thanh mảnh mặc một chiếc áo đắt tiền
có cổ áo bằng lông thú; và người thứ ba chính là Catherine Halsey.
Cô đứng trong mưa, co ro, bụng hơi
ưỡn ra phía trước do thấm mệt, chiếc mũi bóng và đôi mắt sáng lên trong sự phấn
khích. Keating dừng lại, nhìn chằm chằm Catherine.
Tay cô máy móc đưa cho Keating một tờ
rơi, rồi cô ngước mắt lên và nhìn thấy anh. Cô mỉm cười không hề ngạc nhiên và
vui vẻ nói: “À Peter! Anh thật tốt khi đến đây!”
“Katie...” Anh hơi nghẹn giọng.
“Katie, em làm cái quái...”
“Nhưng em phải làm, Peter.” Giọng cô
không có biểu hiện gì xin lỗi cả. “Anh không hiểu, nhưng em...”
“Ra khỏi trời mưa. Vào trong đi.”
“Nhưng em không thể! Em phải...”
“Đồ ngốc, ít nhất cũng ra khỏi trời
mưa!” Anh đẩy mạnh cô qua cánh cửa vào góc hành lang.
“Peter, anh yêu, anh không giận đúng
không? Anh thấy đấy, thế này nhé: Em đã không nghĩ là chú sẽ cho em đến đây tối
nay, nhưng vào phút cuối cùng chú nói em có thể đi nếu em muốn, và em có thể
giúp phát tờ rơi. Em biết là anh sẽ hiểu và em đã để lại lời nhắn trên bàn
phòng khách để giải thích và...”
“Em để lại lời nhắn? Ở trong nhà?”
“Vâng... Ôi... Ôi... ôi trời, em
không hề nghĩ đến chuyện đó, tất nhiên anh không thể vào nhà được, em thật ngốc
quá, nhưng lúc đó em vội quá! Không, chắc anh sẽ không giận đâu, anh không thể
giận em được! Anh không thấy chuyện này có ý nghĩa như thế nào với chú sao? Anh
không thấy đến đây là chú em đang phải hy sinh cái gì sao? Và em biết là chú sẽ
đến. Em đã nói thế với họ – bọn họ bảo là chú sẽ không đến, đó sẽ là dấu chấm
hết với chú ấy – và có thể là như thế nhưng chú ấy không quan tâm. Chú ấy là
như thế đấy. Em rất sợ và rất hạnh phúc; vì những gì chú em đã làm – nó khiến
cho em tin tưởng vào con người. Nhưng em sợ, vì anh biết đấy Wynand sẽ...”
“Đừng nói nữa! Anh biết hết. Anh phát
ốm lên vì chuyện đó. Anh không muốn nghe về chú em hay Wynand hay cuộc đình
công chết tiệt này nữa. Hãy đi khỏi đây.”
“Ôi không, Peter! Chúng ta không thể!
Em muốn nghe chú ấy nói và...”
“Mấy người kia im lặng đi!” ai đó từ
đám đông rít lên với hai người.
“Chúng ta sẽ lỡ mất,” cô thì thầm.
“Austen Heller đang phát biểu. Anh không muốn nghe Austen Heller nói à?”
Keating nhìn lên loa với sự ngưỡng mộ
nhất định – anh luôn cảm thấy thế với tất cả những cái tên nổi tiếng. Anh chưa
đọc nhiều về Austen Heller, nhưng anh biết Heller là cây bút ngôi sao của tờ Thời Báo, một tờ báo độc lập nổi bật,
đối thủ lớn nhất của tập đoàn báo chí Wynand; rằng Heller sinh trưởng từ một
gia đình lâu đời, nổi tiếng và đã tốt nghiệp trường Đại học Oxford; rằng ông ta
ban đầu là một nhà phê bình văn học và cuối cùng trở thành một tín đồ lặng lẽ
và tận tụy với sự nghiệp đập tan mọi hình thức áp bức, cả công lẫn tư, trên
thiên đàng cũng như dưới hạ giới; rằng ông ta có dáng vẻ quý tộc hơn cả giới
thượng lưu mà ông thường chế nhạo, và có một thể chất mạnh khỏe hơn cả những
người lao động mà ông ta vẫn thường bảo vệ; rằng ông ta có thể bàn luận về vở
kịch mới nhất ở rạp Broadway, về thơ ca Trung cổ hay về tài chính quốc tế; rằng
ông ta không bao giờ đóng tiền từ thiện nhưng lại tiêu nhiều tiền hơn mức có
thể chịu được để bảo vệ các tù nhân chính trị ở bất cứ nơi đâu.
Giọng nói phát ra từ loa là một giọng
khô, chính xác với một chút dấu vết của người Anh.
“... và chúng ta phải cân nhắc,”
Austen Heller nói bằng giọng vô cảm, “rằng, bởi vì – thật không may – là chúng
ta buộc phải sống cùng nhau nên điều quan trọng nhất chúng ta cần phải nhớ là:
cách duy nhất để chúng ta có thể có được trật tự là phải có càng ít luật lệ
càng tốt. Tôi không thấy có tiêu chuẩn đạo đức nào có thể hoàn toàn bao quát
khái niệm phi đạo đức NHÀ NƯỚC; mà chúng ta chỉ có thể đo nó qua lượng thời gian,
chất xám, tiền bạc, nỗ lực và sự tuân thủ mà một xã hội bóp nặn ra từ các thành
viên của nó. Giá trị và sự văn minh của một nhà nước tỷ lệ nghịch với sự bóp
nặn kia. Không có một luật lệ chính đáng nào lại có thể bắt một người phải làm
việc theo bất kỳ điều kiện lao động nào, ngoại trừ những điều kiện mà anh ta
lựa chọn. Không có một luật lệ chính đáng nào lại ngăn người đó đặt ra các quy
tắc lao động – cũng như không có luật nào buộc ông chủ của anh ta chấp nhận các
điều kiện đó. Sự tự do trong việc đồng ý hay không đồng ý là nền tảng của xã
hội của chúng ta – và quyền tự do đình công là một phần của tự do đó. Tôi đề
cập đến vấn đề này như một lời nhắc nhở đến quý ngài Pertronius nào đó từ
Hell’s Kitchen[2] –
một gã quý tộc vô lại mà gần đây dám lớn tiếng rằng cuộc đình công này thể hiện
sự phá hoại luật lệ và trật tự.”