1Q84 (Tập 3) - Chương 10 - Phần 1
Chương 10: Ushikawa
Thu thập những chứng cứ chính xác
Ushikawa
đi đến Ichikawa. Y có cảm giác đây là một chuyến đi dài, nhưng kỳ thực chỉ cần
qua sông, đến địa hạt tỉnh Chiba là đã tới Ichikawa rồi, đi từ Tokyo chẳng mất
thời gian mấy. Y bắt taxi trước ga tàu hỏa, đọc địa chỉ trường tiểu học kia. Y
đến đó lúc khoảng hơn một giờ chiều. Giờ nghỉ trưa đã kết thúc, buổi học chiều
đã bắt đầu. Trong phòng học nhạc vẳng ra tiếng hét của dàn hợp xướng. Trên sân
trường có lớp đang học thể dục, thi đấu bóng đá, lũ trẻ hò hét ầm ĩ, chạy hùng
hục đuổi theo trái bóng.
Ushikawa
không có ký ức đẹp về quãng thời gian tiểu học của mình. Y không giỏi thể dục
thể thao, đặc biệt là các môn bóng. Người y thấp lùn, chạy chậm, mắt bị lòa,
thêm nữa bẩm sinh đã kém phát triển thần kinh vận động, nên giờ thể dục gần như
là ác mộng. Nhưng thành tích các môn khác thì đều ưu tú. Y vốn dĩ thông minh,
lại ham học (vì vậy năm hai mươi lăm tuổi y vượt qua được kỳ thi luật). Song
người xung quanh không ai ưa y, cũng không ai tôn trọng y. Tất nhiên, tướng mạo
là một vấn đề. Tử nhỏ bộ mặt y đã to tướng xấu xí, ánh mắt cay độc, hình dạng
cái đầu quái dị. Hai mép cặp môi dày bịch chùng xuống, tựa như sắp có nước
miếng từ chỗ khóe miệng chảy ra đến nơi (chỉ là tựa như thôi, thực tế chưa từng
chảy bao giờ). Đầu tóc y lúc nào cũng xoăn tít rối bù. Cái vẻ ngoài ấy tuyệt không
thể khiến người ta có hảo cảm được.
Hổi
học tiểu học, y rất ít khi mở miệng. Y biết rằng gặp tình huống cần thiết mình
cũng khá giỏi ăn nói, nhưng y không có người bạn nào thân thiết đến mức không
chuyện gì là không nói được, cũng chẳng có lấy cơ hội nào đứng trước mặt người
khác mà nói cho thỏa thích. Vì vậy y luôn giữ mồm giữ miệng. Đồng thời, y cũng
luyện thành thói quen cẩn thận lắng nghe người khác nói: bất kể họ nói gì, y
cũng để ý xem có thể học được gì trong đó. Cuối cùng, thói quen này trở thành
công cụ đắc lực. Nhờ nó, y phát hiện được nhiều sự thật quan trong. Một trong
số đó là: quá nửa người trên thế gian này không dùng đầu mình để suy nghĩ. Và,
càng không suy nghĩ thì lại càng không chịu lắng nghe người khác nói.
Tóm
lại, đối với Ushikawa, thời tiểu học không phải một quãng đời mà y thường vui
sướng hồi tưởng lại. Thậm chí, cứ nghĩ đến việc sắp phải ghé thăm một trường
tiểu học, y lại thấy buồn bực trong lòng. Mặc dù hai tỉnh Saitama và Chiba có
nhiều sự khác biệt, nhưng trường tiểu học trên cả nước Nhật đều gần như giống
hệt nhau. Bề ngoài tương đồng, nguyên lý hoạt động cũng tương đồng. Thế nhưng,
Ushikawa vẫn cất công đi cả quãng đường xa đến thăm ngôi trường tiểu học ở
thành phố Ichikawa này. Chuyện này quan trọng, không thể nhờ người khác làm
thay được. Y gọi điện đến phòng hành chính của trường, hẹn gặp người phụ trách
ở đó lúc một rưỡi chiều.
Hiệu
phó trường này là một phụ nữ nhỏ nhắn, chừng bốn lăm bốn sáu tuổi. Chị ta có
thân hình mảnh mai, hấp dẫn, ăn mặc khá khéo. Hiệu phó? Ushikawa lấy làm bối rối. Y
chưa từng nghe đến chức danh này. Nhưng y đã tốt nghiệp tiểu học từ rất lâu
rồi, chắc hẳn có nhiều thứ đã thay đồi. Có lẽ người phụ nữ này qua nhiều năm
tháng đã làm việc với đủ hạng người khác nhau, nên trông thấy tướng mạo bất
bình thường của Ushikawa chị ta không tỏ ra quá kinh ngạc. Nhưng cũng có thể
chỉ vì chị ta là người lịch thiệp và chu đáo. Chị ta dẫn Ushikawa vào phòng
tiếp khách ngăn nắp sạch sẽ, mời y ngồi, rồi bản thân ngồi xuống ghế đối diện,
nhoẻn miệng tươi cười, như thể đang hỏi: tiếp sau đây chúng ta sẽ nói chuyện gì
thú vị đây?
Chị
ta làm Ushikawa nhớ đến một cô bạn cùng lớp thời tiểu học. Xinh xắn, học giỏi,
nhiệt tình, có trách nhiệm. Cô rất được thầy cô giáo yêu quý. Trong lớp học,
Ushikawa thường xuyên nhìn trộm cô bé đó, chủ yếu là nhìn lưng cô. Có điều y
không nói chuyện với cô lần nào.
“Nghe
nói ông đang tiến hành điều tra các học sinh tốt nghiệp từ trường chúng tôi?”
hiệu phó hỏi.
“Xin
lỗi, tôi chưa kịp tự giới thiệu.” Ushikawa đưa danh thiếp ra. Tấm danh thiếp giống
như tấm y đưa cho Tengo, bên trên in chức danh Quản lý chuyên trách, Quỹ tài
chính Hội chấn hưng Văn học Nghệ thuật Tân Nhật Bản.” Ushikawa nói với bà hiệu
phó đúng những lời tán nhảm mà khi đó y đã nói cho Tengo nghe: Anh Kawana Tengo
tốt nghiệp quý trường giờ đã trở thành nhà văn và nằm trong danh sách ứng cử
viên vòng trong có khả năng nhận được tài trợ của quỹ chúng tôi, tôi đang tiến
hành thẩm tra lại theo thủ tục, vân vân…
“Đúng
là một tin mừng!” hiệu phó cười rạng rỡ. “Một niềm vinh hạnh lớn cho trường
chúng tôi. Nếu có điều gì có thể làm được, chúng tôi nhất định sẽ cố hết sức.”
“Nếu
có thể, chúng tôi mong có thể trực tiếp nói chuyện với giáo viên dạy anh Kawana
hồi đó,” Ushikawa nói.
“Để
tôi kiểm tra lại một chút, dù sao cũng hơn hai mươi năm rồi, không khéo người
đó đã về hưu.”
“Cám
ơn chị nhiều lắm,” Ushikawa nói.” Nếu như có thể, còn một chuyện nữa tôi muốn
phiền chị kiểm tra giúp.”
“Chuyện
gì vậy?”
“Cùng
niên cấp với anh Kawana hẳn là có một nữ sinh tên là Aomame Masami. Chị có thể
kiểm tra giúp xem anh Kawana và cô Aomame này có từng học cùng lớp không?”
Hiệu
phó thoáng ngạc nhiên. “Cô Aomame này có quan hệ gì đến việc tài trợ cho anh
Kawana lần này không?”
“À
không, tôi không có ý ấy. Trong tác phẩm của anh Kawana có một nhân vật dường
như lấy cô Aomame làm nguyên mẫu, chúng tôi chỉ cảm thấy về điểm này có mấy vấn
đề cần làm rõ. Không phải chuyện gì phức tạp đâu, chỉ là chuyện hình thức thôi
mà.”
“Ra
là vậy,” khóe miệng cân đối của bà hiệu phó hơi nhếch lên một chút, “chỉ có
điều, thiết nghĩ ông cũng hiểu, có một số thông tin riêng tư của cá nhân chúng
tôi không thể cung cấp cho ông được, ví dụ như thành tích học tập, hoàn cảnh
gia đình chẳng hạn.”
“Chuyện
này tôi hiểu. Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu xem cô ấy và anh Kawana có phải đã
từng học cùng lớp hay không thôi. Ngoài ra, trong trường hợp đúng là cùng lớp,
nếu chị có thể cho chúng tôi biết tên họ và phương thức liên lạc với giáo viên
chủ nhiệm của họ hồi đó, tôi sẽ rất lấy làm cảm kích.
“Tôi
hiểu rồi. Nếu chỉ cần thông tin đến thế thôi thì chắc không có vấn đề gì. Cô ấy
họ Aomame phải không?”
“Đúng,
Aomame, tức đậu xanh ấy. Một cái họ tương đối hiếm gặp.”
Ushikawa
viết bốn chữ “Thanh Đậu Nhã Mỹ”[1] vào sổ rồi xé trang ấy ra đưa
cho hiệu phó. Chị ta đón lấy mảnh giấy, xem trong vài giây rồi cho vào một túi
nhỏ trong kẹp hồ sơ để trên bàn.
[1] Tên Aomame viết bằng chữ Kenji.
“Phiền
ông đợi đây một lát. Tôi đi kiểm tra lại hồ sơ hành chính. Tôi sẽ bảo họ sao
lại những thông tin có thể công khai cho ông.”
“Chị
đang bận rộn mà tôi lại chiếm dụng thời gian của chị thế này, tôi thực tình xin
lỗi,” Ushikawa cám ơn hiệu phó.
Hiệu
phó ra khỏi phòng tiếp khách, chiếc váy xòe nhẹ nhàng phấp phới. Dáng người
đẹp, dáng đi thanh nhã, kiểu tóc cũng hấp dẫn. Chị ta có tuổi tác theo một kiểu
khiến người ta dễ chịu. Ushikawa chỉnh lại tư thế ngồi, đọc quyển sách bìa mềm
mà y mang theo để giết thời gian.
Khoảng
mười lăm phút sau, hiệu phó quay lại, trước ngực ôm một phong bì màu trà.
“Anh
Kawana hồi đó là một học sinh rất xuất sắc. Kết quả học tập luôn xếp hàng đầu,
lại còn là vận động viên có thành tích ưu hạng nữa. Anh ấy đặc biệt giỏi tính
toán, hoặc có thể nói là môn toán, học cấp một đã giải được đề toán cấp ba rồi.
Anh ấy từng giành giải nhất
trong một kỳ thi toán, còn được báo chí gọi là thần đồng nữa.”
“Thật
phi thường,” Ushikawa nói.
Hiệu
phó nói: “Nhưng cũng thật lạ, thần đồng toán học nổi tiếng hồi đó sau khi
trưởng thành lại thể hiện tài năng trong văn giới.”
“Tài
năng dồi dào thì cũng như nước ngầm cuồn cuộn, hẳn có thể tìm được lối ra ở
nhiều nơi khác nhau. Giờ anh ấy vừa làm thầy giáo dạy toán vừa viết tiểu
thuyết.”
“Chẳng
trách,” hiệu phó nhướng hai hàng lông mày thành một đường cong đẹp đẽ, nói.” So ra
thì tôi không tìm được nhiều thông tin về cô Aomame Masami. Cô ấy chuyển trường
năm lớp năm. Nghe nói là được một người họ hàng lập nghiệp ở Tokyo nhận nuôi,
nên chuyển đến học tiểu học ở đó. Cô ấy học cùng lớp với anh Kawana năm học lớp
ba và lớp bốn.”
Đúng
như mình đã nghi ngờ, Ushikawa thầm nhủ. Hai người này quả nhiên có một mối
liên hệ.
“Chủ
nhiệm lớp họ khi đó là một cô giáo họ Ota. Ota Toshie. Giờ bà ấy dạy ở một
trường tiểu học công lập ở thành phố Narashino.”
“Nếu
tôi liên lạc với trường đó thì chắc có thể gặp bà ấy chứ?”
“Tôi
đã liên lạc rồi,” hiệu phó mỉm cười, “bà ấy nói, trong trường hợp này bà ấy rất
vui lòng gặp ông Ushikawa.”
“Tôi
vô cùng biết ơn,” Ushikawa nói. Chị ta không chỉ xinh đẹp mà làm việc cũng rất
nhanh nhẹn dứt khoát.
Hiệu
phó viết vào mặt sau tấm danh thiếp họ tên của cô giáo kia và số điện thoại của
trường tiểu học Tsudanuma nơi bà làm việc, đưa cho Ushikawa. Ushikawa trân
trọng nhận lấy, cất vào trong ví da.
“Nghe
nói cô Aomame có xuất thân trong một gia đình ngoan đạo.” Ushikawa nói, “về
chuyện này, chúng tôi có hơi lo một chút.”
Hiệu
phó chau mày, khóe mắt tụ lại những nếp nhăn nhỏ li ti. Chỉ những phụ nữ trung
niên hết sức chú trọng tự rèn luyện bản thân trong một thời gian dài mới có thể
sở hữu kiểu nếp nhăn thông minh, quyến rũ. Có nhiều hàm nghĩa tinh tế như vậy.
“Xin
lỗi, đây là một trong những vấn đề mà chúng ta không thể thảo luận ở đây được,”
chị ta nói.
“Liên
quan đến quyền riêng tư của cá nhân phải không?” Ushikawa hỏi.
“Đúng
vậy. Đặc biệt là những vấn đề chạm đến lĩnh vực tôn giáo.”
“Có
điều, nếu gặp mặt cô giáo Ota, chắc là tôi có thể hỏi về chuyện này chứ?”
Chiếc
cằm nhỏ nhắn của hiệu phó hơi nghiêng sang trái, khóe miệng nở ra một nụ cười
nhiều ẩn ý. “Nếu cô Ota nói chuyện này từ góc độ cá nhân, chúng tôi không cần
thiết phải can thiệp.”
Ushikawa
đứng dậy, lễ độ cám ơn hiệu phó. Hiệu phó giao chiếc phong bì giấy đựng hồ sơ
cho y. “Những tư liệu có thể cung cấp cho ông, chúng tôi đều đã sao lại trong
này. Đây là tư liệu về anh Kawana. Cũng có một ít tư liệu về cô Aomame. Hy vọng
có ích cho ông.”
“Chắc
chắn là có ích. Phiền chị quá, tôi thật hết sức biết ơn.”
“Chuyện
tài trợ ấy, nếu như có kết quả gì, xin thông báo với chúng tôi một tiếng. Đối
với nhà trường, đây là một niềm vinh dự.”
“Tôi
tin rằng nhất định sẽ có kết quả tốt,” Ushikawa nói, “chúng tôi đã gặp nhau vài
lần, anh ấy là người trẻ tuổi tài hoa, có tương lai rộng mở.”
Ushikawa
vào một nhà hàng trước cửa ga Ichikawa, ăn qua quýt cho xong bữa trưa, vừa ăn
vừa lấy tư liệu trong phong bì ra xem xét. Đây là những ghi chép vắn tắt về quá
trình học tập của Tengo và Aomame tại trường. Các văn bản khen thưởng Tengo vì
kết quả học tập tốt và hoạt động thể thao cũng nằm ở trong này. Đích thực anh
ta là một học sinh ưu tú khác thường. Hẳn anh ta chẳng bao giờ nghĩ trường học
là ác mộng. Còn có bản sao của một bài cắt từ báo ra, biểu dương anh ta giành
được giải nhất trong kỳ thi toán học nào đó. Ảnh thời niên thiếu của Tengo cũng
được đăng trong bài báo, tuy không rõ nét lắm vì đã quá cũ.
Ăn
xong bữa trưa, y gọi điện thoại đến trường tiểu học Tsudanuma, nói chuyện với
cô giáo tên là Ota Toshie kia, hẹn gặp nhau ở đó lúc bốn giờ chiều. Bốn giờ trở
đi thì có thể nói chuyện thoải mái được, cô giáo Ota đáp.
Đã đành
là vì công việc, nhưng một ngày mà liên tiếp ghé thăm hai trường tiểu học quả
có hơi nhiều! Ushikawa thở dài. Nghĩ đến thôi là y đã thấy nặng nề rồi.
Nhưng cho đến thời điểm hiện tại, đích thân đến tận nơi thật chẳng uổng công. Y
đã xác nhận được Tengo và Aomame từng có hai năm học chung lớp thời tiểu học.
Đây là một tiến triển quan trọng.
Tengo
giúp Fukada Eriko làm cho Nhộng không khí trở thành tác phẩm văn chương,
biến nó thành sách bán chạy. Còn Aomame thì đã bí mật ám sát cha của Fukada
Eriko, Fukada Tamotsu, trong một gian phòng suite ở khách sạn Oruka. Hai người
này dường như có chung mục đích, đó là tấn công giáo đoàn Sakigake, mỗi người
theo cách của mình. Có khả năng họ còn phối hợp với nhau. Người bình thường hầu
hết sẽ cho là thế.
Thế
nhưng, tốt nhất là tạm thời không nói chuyện này cho bộ đôi kia của Sakigake
biết. Ushikawa không thích đưa ra thông tin một cách vụn vặt. Cách làm y thích
là vơ vét mọi thông tin vơ vét được, cẩn thận kiểm chứng mọi tình huống, đợi
khi chứng cứ đã rành rành, y mới chỉ rõ ràng “thực ra là như thế đấy.” Hồi còn
làm luật sư đã mê mệt cái kiểu mang sắc thái phường tuồng này, đến tận bây giờ
vẫn thế. Hạ mình xuống thấp làm đối phương lơ là cảnh giác, đến khi sự việc gần
như kết thúc thì y đột nhiên tung ra bằng chứng vững như bàn thạch, khiến tình
thế hoàn toàn đảo ngược.
Trên
tàu đi Tsudanuma, Ushikawa thử xây dựng trong đầu vài giả thiết khác nhau.
Tengo
và Aomame có thể có quan hệ nam nữ. Tuy không đến nỗi từ năm mười tuổi đã bắt
đầu yêu nhau, nhưng có khả năng là, sau khi tốt nghiệp tiểu học, hai người gặp
lại nhau ở đâu đó, rồi dần dần qua lại thân mật. Sau đó, vì nguyên nhân nào đó
chưa rõ, hai người đã đồng tâm hiệp lực tìm cách hủy diệt Sakigake. Đây là một
giả thiết.
Nhưng
theo Ushikawa thấy, không có dấu hiệu cho thấy Tengo có qua lại với Aomame. Anh
ta vẫn duy trì quan hệ thể xác định kỳ với người phụ nữ hơn anh ta mười tuổi,
có chồng. Với tính cách của Tengo, nếu anh ta và Aomame gắn kết sâu xa đến thế
thì chắc chắn anh ta sẽ không duy trì mối quan hệ xác thịt vụng trộm với một
phụ nữ khác. Anh ta không phải loại người có khả năng lừa dối trơn tru kiểu ấy.
Ushikawa từng dành ra hai tuần liên tục điều tra mô thức hành vi của Tengo. Mỗi
tuần anh ta dạy ở trường dự bị ba ngày, còn thì hầu hết thời gian là một mình ở
nhà, chắc là viết tiểu thuyết. Ngoài những lúc thỉnh thoảng đi mua thức ăn, tản
bộ, anh ta hầu như không ra ngoài. Một cuộc sống rất giản dị, đơn điệu, rõ ràng
và dễ hiểu, không có điểm nào khó giải thích. Chẳng hiểu vì sao, Ushikawa không
thể hình dung được Tengo lại tham gia vào một âm mưu giết người.
Về
mặt cá nhân, Ushikawa có thiện cảm với Tengo. Tengo là một người trẻ tuổi chân
chất, tính cách thẳng thắn, có ý chí tự lập, không dựa dẫm vào người khác.
Giống như trường hợp thường thấy ở những người cao lớn, anh ta có khuynh hướng
không được linh hoạt lắm, nhưng không hề nhỏ mọn và láu cá. Anh ta là kiểu
người hễ đã quyết việc gì là sẽ thực hiện đến cùng. Người như vậy mà làm luật
sư hay nhân viên giao dịch chứng khoán thì đừng hòng có tiền đồ, chắc chắn sẽ
bị người ta chơi điểu để rồi thất bại ở thời điểm mấu chốt nhất. Nhưng nếu làm
thầy dạy toán hay tiểu thuyết gia thì sẽ khá. Anh ta không giỏi giao thiệp, cũng
không giỏi nói năng, nhưng lại có thể khiến một típ phụ nữ nào đó mê mẩn. Nói
gọn một câu, anh ta là dạng người đối lập rõ ràng với Ushikawa về mặt tính
cách.
So
ra, Ushikawa hầu như không biết gì về Aomame. Y chỉ biết cô ta sinh ra trong
một gia đình tín đồ cuồng nhiệt của hội Chứng nhân Jehovah, vừa mới hiểu chuyện
là đã bị dắt đi truyền giáo… những chuyện kiểu như vậy. Nhưng còn tính cách của
Aomame như thế nào - thói quen tư duy của cô ra sao, có ưu điểm và nhược điểm
gì, cuộc sống riêng tư có gì đặc biệt - y hoàn toàn không rõ. Thứ y có trong
tay lúc này chẳng hơn gì những điều người ta có thể tìm được trong một bản sơ
yếu lý lịch.
Nhưng
khi đặt lý lịch của Aomame và Tengo cạnh nhau trong đầu, y phát hiện ra có mấy
điểm chung. Trước tiên, thời thơ ấu của hai người chắc chắn đều không hạnh
phúc. Aomame bị buộc phải theo mẹ đi khắp hang cùng ngõ hẻm, ấn chuông từng nhà
để truyền giáo. Con cái của hội Chứng nhân Jehovah thảy đều buộc phải làm việc
đó. Còn cha Tengo là nhân viên thu phí của đài NHK, công việc này cũng phải đi
đến từng nhà gõ cửa. Liệu ông ta có dẫn con trai đi thu tiền giống như các bà
mẹ trong hội Chứng nhân Jehovah dẫn con theo không? Chắc có. Nếu mình là cha
Tengo, nhất định mình sẽ làm thế. Dắt con theo thì thành tích thu tiền sẽ tốt hơn,
lại không phải trả tiền bảo mẫu theo giờ. Một công đôi việc. Nhưng đối với
Tengo điều này chắc chắn chẳng vui vẻ gì. Không khéo, hai đứa trẻ từng gặp nhau
ở đâu đó trên đường phố Ichikawa cũng nên.
Thứ
đến, cả Tengo lẫn Aomame kể từ khi hiểu chuyện đều đã bắt đầu phấn đấu, lần
lượt giành được học bổng thể thao, cố tách khỏi cha mẹ mình càng sớm càng tốt.
Trên thực tế, hai người đều là tuyển thủ thể thao xuất sắc. Hẳn là có thiên phú
bẩm sinh. Nhưng đồng thời, bọn họ đều có lý do để buộc phải trở nên xuất sắc. Đối với bọn họ, trở thành
tuyển thủ thể thao được mọi người công nhận, lập nên thành tích ưu tú, đó gần
như là cách duy nhất để có thể tự lập, là chiếc vé quý giá họ cần để tự mình có
thể sinh tốn. Họ suy nghĩ khác với những cô bé cậu bé thông thường, họ phải
trực tiếp đối mặt với thế giới theo một cách khác.
Nghĩ
lại, trường hợp của Ushikawa cũng có nhiều nét tương tự với hai người.
Ở
trường hợp của y, vì gia cảnh khá giả nên y không thiết phải giành được học
bổng, cũng chưa bao giờ thiếu tiền tiêu vặt. Nhưng để thi vào trường đại học
hạng nhất, để vượt qua kỳ thi tư pháp, y không thể không cố sống cố chết vùi
đầu học. Cũng như Tengo và Aomame, y không có thời gian chơi nhởn như các bạn
khác. Y phải từ bỏ mọi lạc thú của cõi đời - mà thực ra, kể cả y có dồn hết tâm
trí theo đuổi lạc thú ở đời thì cũng chẳng dễ dàng có được - mà một lòng dùi
mài học tập. Tinh thần y luôn luôn dao động mãnh liệt nơi khe hẹp giữa cảm giác
tự ti và cảm giác tự thấy mình ưu việt. Chẳng phải mình giống như Raskolnikov[2] chỉ có điều không gặp được
Sonia đấy sao? Từng có một độ y thường nghĩ như thế.
[2] Nhân vật chàng cựu sinh viên luật trong tiểu
thuyết Tội ác và hình phạt của F. Dostoyevsky.
Thôi
đi, chuyện của mình vậy là đủ rồi. Nghĩ mấy cũng chẳng ích lợi gì. Tốt hơn là quay
lại chuyện của Tengo và Aomame.
Giả
sử Tengo và Aomame tình cờ gặp nhau vào một thời điểm nào đó sau hai mươi tuổi.
Trong khi nói chuyện, họ lấy làm kinh ngạc biết rằng hóa ra mình và người kia
có nhiều điểm chung như vậy. Chắc chắn có rất nhiều điều họ muốn giãi bày. Hai
người có thể sẽ hấp dẫn nhau một cách mạnh mẽ, như một người đàn ông và một
người đàn bà. Ushikawa có thể tưởng tượng rõ nét cảnh ấy. Cuộc gặp gỡ định
mệnh. Khoảnh khắc lãng mạn tột cùng.
Cuộc
gặp gỡ ấy có diễn ra trong hiện thực không? Một cuộc tình lãng mạn phải chăng
đã nở hoa? Ushikawa không biết. Nhưng giả thiết hai người đã gặp nhau dường như
hợp tình hợp lý hơn. Vì vậy, bọn họ mới bắt tay với nhau để triệt hạ Sakigake.
Tengo dùng ngòi bút, còn Aomame sử dụng kỹ thuật đặc thù nào đó của mình, mỗi
người tấn công từ một hướng. Song Ushikawa cảm thấy khó mà chấp nhận giả thiết
này. Suy luận tuy hợp tình hợp lý đấy, nhưng thiếu sức thuyết phục.
Nếu
Tengo và Aomame đã có mối quan hệ sâu sắc đến vậy thì không thể không có chút
dấu vết gì đó được. Cuộc gặp gỡ định mệnh ắt hẳn sẽ làm nảy sinh kết quả định
mệnh, và điều đó thì không thể nào thoát khỏi đôi mắt sắc bén của Ushikawa,
Aomame họa may có thể khéo léo che giấu, nhưng Tengo thì tuyệt đối không.
Về
cơ bản, Ushikawa là người sống nhờ vào việc xây dựng logic. Không tìm được bằng
chứng, y không thể tiến lên được. Nhưng đồng thời, y cũng tin vào trực giác của
mình. Đối với giả thiết rằng Tengo và Aomame là đồng bọn, trực giác của y lắc
đầu phủ định. Nhẹ nhàng, nhưng rất kiên định. Có khi hai người này chẳng ai ý
thức được sự tồn tại của người kia cũng nên. Hai người đồng thời có vướng mắc
với Sakigake, rất có thể đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên.
Kể
cả sự trùng hợp này là thật khó tin, nhưng so với giả thiết đồng bọn, giả thiết
này được trực giác của Ushikawa chấp nhận hơn. Hai người này, vì những động cơ
và mục đích khác nhau, đã cùng lúc làm lung lay sự tồn tại của Sakigake từ
những hướng khác nhau, đây thuần túy chỉ do ngẫu nhiên. Hai mạch truyện không
chung một điểm khởi đầu, song lại cùng song song tiến lên.