Biểu Tượng Một Dòng Họ - Chương 27 - Phần 1
XXVII
Khi mọi người bên nội
cũng như bên ngoại đang lo chỉnh trang cho lễ dâng hương tưởng niệm, một chiếc
xe hơi màu xanh qua cổng vào sát thềm nhà tế. Xuống xe có anh Hoan và một phụ nữ
người Âu trạc ngoại tứ tuần, đầu trọc và mặc áo cà sa nâu.
- Cháu xin giới thiệu với
toàn gia tộc đây là mẹ ruột Jeanette của cháu, từ Paris tới Hà Nội hôm qua. Mẹ
cháu về quê xin phép họ hàng được tham gia giỗ ông cháu.
Bà cung kính cúi chào,
tay không ngừng lần tràng hạt. Những người có Tây học cũng cúi chào đáp lễ. Số
còn lại cứ đứng ngây ra nhìn khách như từ một cõi hoang đường bước ra. Ừ, anh
Hoan có mẹ là bà đầm thì ai cũng biết, nhưng mẹ con thất lạc nhau cơ mà. Anh
lưu lạc mãi bên Tây vẫn tìm về được cội nguồn là nhờ đích chốt cái làng này, nhờ
anh là người cùng máu và nhờ những gì đã lặn sâu trong tâm khảm anh. Điều ấy ai
nghe cũng hiểu ra ngay. Còn bà mẹ đầm, nhà sư Tây này, tuy đã sinh cho họ Đào một
quí tử, vẫn chưa hề có một mối liên hệ keo sơn nào với dòng họ, nay nhờ phép lạ
nào để gặp được con ngay tại Việt Nam này? Và lí do gì khiến bà với nhan sắc vẫn
còn sức quyến rũ thành một nhà sư? Các bà đầm chỉ biết đi dạo, xưa nay có bà
nào lại tu nơi cửa thiền! Thế thì không ngạc nhiên sao được!
Trong lúc ông Hân còn
đang đắn đo có nên ra đón chào không, thì Hoan đã dẫn mẹ đến:
- Thưa mẹ, chắc mẹ còn
nhớ… - Hoan chỉ sang bố mình.
- Có lẽ… trông như là…
Hai chục năm, thời gian quá lâu để giữ nguyên những nét cũ…
Cả họ ồ lên cùng một
lúc, không rõ vì thấy vợ không nhận ra chồng, hay chỉ để biểu lộ sự ngạc nhiên
và lòng khâm phục một phụ nữ Pháp nói tiếng Việt sõi như người Việt chính hiệu.
- Bố con đấy, mẹ ạ.
- À… ra là anh Hân! Kêu
vậy hay gọi bằng ông thì hợp hơn nhỉ?
Bà Khiết đứng gần đấy,
vội chêm vào một ý không rõ có phải đơn thuần nhằm khôi hài hay không.
- Kêu “anh” thì hợp với
quá khứ, còn “ông” có thể hợp với bây giờ. Thì lúc “anh” lúc “ông”, mới có cũ
có, càng vui!
Nếu người ta không thấy
nét cười hồn nhiên trên môi bà, ắt sẽ nghĩ bà vừa xác định vị trí cho mẹ Hoan.
Jeanette quay sang con
chờ lời giải thích:
- Thưa… đây là mẹ Khiết,
người sinh ra 6 em con ạ.
- À, mẹ hiểu rồi - quay
sang bà Khiết - Cháu Hoan đã kể cho tôi biết rồi ạ.
- A di đà phật! Thưa
bà, tôi là nhà tu hành đã được gần hai chục năm. Mọi cám dỗ trần tục tôi từ bỏ
hết, nên nguyện ước tối cao và tối thiêng của tôi đã thấu hiểu đến cửu trùng và
được trời phật soi đường dẫn lối tìm được con. A di đà phật. Chuyện tìm cháu
dài lắm, tôi xin kể hầu bà và các chư vị sau. Có lẽ họ hàng sắp hành lễ, xin
vào việc cho. Xin cho kẻ tu hành này được cùng hành lễ với toàn gia tộc.
Dứt lời, bà cùng Hoan
tiến vào hiên chính diện của từ đường rồi quì xuống chiếu, vòng tràng hạt mầu
cánh kiến vẫn tiếp tục bò chầm chậm qua những ngón tay nuột nà, bàn tay kia
cung kính đặt trước ngực.
Ngày ông Bá từ trần,
đám tang - đúng ra chỉ nên gọi việc chôn cất - ông tiến hành không thể nào tươm
tất. Thi thể được khâm liệm ngay tại pháp trường, rồi 4 dân quân khiêng quan
tài tới huyệt đã được đào từ sáng sớm, tiễn đưa ông chỉ có 3 bà Bá, bà Quỳnh và
2 em gái là bà Bê và bà Úc cùng cậu út Hoàng. Nhiều thân nhân rất muốn đưa tiễn
ông nhưng chỉ dám lẽo đẽo cách xa một đoạn, như những người đi xem mà lệ chảy
ngược vào tim. Họ sợ rồi sau sẽ bị Đội trù dập. Nên cả họ muốn nhân lần giỗ này
làm thật trang nghiêm và quảng đại để phần nào bù lại.
Ông Hân khấn đúng bài
thân phụ vẫn khấn trong các ngày kị. Tiếp theo là anh Bỉnh thay mặt cha đương
quyền trưởng tộc do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt không thể về, đọc lời truy
điệu:
Toàn
gia tộc kính cẩn nghiêng mình trước anh linh ông với húy danh Đào Quýnh, vẫn được
người đời kêu “ông Bá” và kính thỉnh ông giáng trần, đáo lai chứng giám toàn
gia tộc gồm các em của Người ruột thịt và dâu rể, cùng các cháu con nội ngoại
thành tâm dâng hương tưởng niệm Người…”
Nhớ
xưa, Người luôn là vị thuyền trưởng, là biểu tượng của dòng họ, đức cao như
núi, tình sâu như biển, nhân nghĩa bao la như trời xanh. Với Người, sự vĩ đại
luôn thuộc về dòng họ, vinh quang bao giờ cũng thuộc về cháu con, sau hết, mới
đến bản thân.
Vốn có khiếu, Bỉnh chẳng
cần cố ý mà giọng cũng rền rĩ, bi ai, có lúc nghẹn lại, hoặc run run lạc hẳn,
khiến gần 200 người đầu thắt khăn tang đang chắp tay quì kín thềm từ đường và
sân xép, lan ra cả nhà tế, phải gai người, không ít người đã nghẹn ngào với cái
miệng méo xệch và cái cuống họng nhiều lần nuốt khan. Có người như nhìn thấy cụ
Bá với vóc gầy nhưng quắc thước, đang huấn luyện võ cho dân quân, người khác thấy
Người cưỡi bạch mã vừa phi nước đại qua đây, cũng có một số thấy rõ mồn một Người
đang nã đạn vào băng cướp, trong lúc bồn xăng cháy như một biển lửa… Riêng ông Hân, Bạch-tạng, Lông-mũi lại thấy Người cho quan Tây ngã chổng vó giữa phố
Paul Bert.
…
Nhờ ân đức của Người, của gia tiên đã linh ứng đưa đường Đào Văn Hoan, tức nhà
văn Albert Hải về với cội nguồn, để trang viên này được khôi phục, mở ra thời kỳ
vực lại thanh danh của dòng họ.
Nhớ
xưa Người… Chỉ duy nhất một bà Loan thấy hiện lên
hình ảnh của một ngày hội tạo niềm hân hoan cho hàng trăm con cháu, nhưng lại
gây bi lụy cho một người con gái, và kì lạ thay, những giọt lệ của nàng đã gieo
mầm cho hạnh phúc vĩnh cửu của mình sau đó.
Nhớ
xưa Người… Mận nhìn rõ cả trăm người gầy guộc với bộ mặt đờ đẫn,
im lìm đứng chờ những nắm cơm chẩn
ở cổng trang viên vào những sáng chưa nhìn thấy mặt nhau. Và Hoan đang thấy vú
Tàm đứng ngoài cổng trại Dục Anh Đường ngóng đứa con nuôi ra để bế nó trốn về…
Rồi xác vú trôi lập lờ trong dòng sông Văn Úc… Trong khi đó, Bỉnh nhìn thấy
chính mình hồi bé đang đọc câu đối cho các quan để ăn tiền thưởng…
Khi bài điếu đến câu kết
thì mẹ Hoan đứng lên:
- Xin các chư vị cho kẻ
tu hành này tụng bài kinh giải oan cho vong linh ông nội cháu Hoan được tiêu
sinh tịnh độ. Hoan, con vào bàn thờ đem cho mẹ mượn chuông mõ.
- Boong… Cốc cốc cốc!...
Bài kinh của bà vang
lên khoan thai theo nhịp mõ, thỉnh thoảng được điểm một tiếng chuông ngân dài ảo
não. Nhờ giọng nữ cao lanh lảnh, thánh thót, bài kinh góp phần tôn thêm sự
trang nghiêm của lễ truy điệu.
- Nam mô quan thế âm bồ
tát. Nam mô đại thế chí bồ tát.
Câu kinh điệp khúc ấy
chốc chốc lại vút lên, nghe như những tiếng kêu ai oán, xói vào mọi con tim
đang đập những nhịp thổn thức, ngậm ngùi, khiến cho bầu không khí càng đượm màu
u uất. Chẳng mấy lúc bài kinh đã dâng đầy ắp không gian trầm mặc. Lời kinh như
thế người ta đã nghe nhiều lần trên chùa, chỉ thấy khô lạnh và khó hiểu. Giờ
đây, vẫn lời ấy do một người đàn bà Pháp đã dầy công tu hành và nhập tâm từ bên
trời Tây xa lắc, nay đem về niệm để cầu khấn cho một linh hồn Việt Nam - của một
người thực chất là bố chồng mình… nên người ta cảm nhận đó là những tiếng lòng,
tiếng than, tiếng nấc ảy sinh từ niềm thương đau trước người thiệt phận, cũng
là lời cầu nguyện từ tận cùng lòng thành kính.
Đúng lúc ấy, ông Mấm
cùng con gái lớn, cô Hoàn bước lên nhà tế. Bà Mận quì ở cạnh, quay sang thì
thào:
- Bê cái gì thế? Cái gì
mà phải bọc giấy xi măng kín thế?
Hai bố con hoàn mải
nhìn nhà sư đầm tụng kinh nên không để ý đến câu hỏi.
- Lạ quá bố nhỉ. Sư ta
có lẽ tụng không hay bằng.
- Mẹ đẻ anh Hoan đấy.
- Thế hả bố. Sao bác ấy
biết giỗ ông ở đây mà về?
- Ông xui khiến, dẫn đường
cho.
Bài kinh vừa kết thúc,
hai bố con ông Mấm lách vào tận hiên chính từ đường. Hoàn đặt vật đang bê vào
chỗ nhà sư vừa rời khỏi và mở giấy ra ngay.
Thêm một phen cả họ
tròn mắt. Lúc nãy ngạc nhiên, giờ phải kinh ngạc: Cái tráp có khảm hình cụ Bá.
Thay vì đứng dậy, mọi người vẫn quì nguyên tại chỗ, có lẽ vì cơn sửng sốt quá tầm
làm người ta chưa định thần kịp. Cái tráp cho tới trước phút này vẫn còn là một
bí ẩn, đã từng được phỏng đoán này nọ, thậm chí có bà em ông Bá nghi oan cho vợ
bé của ông đã ỉm đi vì lòng tham số vàng đầy ắp bên trong. Nhưng có vẻ bên
trong không phải đựng vàng vì thấy Hoàn bê nhẹ nhõm lắm.
- Thưa cụ Giáo, thưa
các cụ bà, thưa cả họ - ông Mấm bằng vẻ mặt trang nghiêm và xúc động lên tiếng.
Ngay từ lúc trẻ ông không bao giờ chủ động diễn đạt ý mình, nhất là trước đông người
- Nhà con nghe thấy đội Xảo hở ra sắp bắt giam cụ Bá, trèo tường sang ngay, báo
cho cụ biết. Cụ giao cho nhà con giữ cái tráp và mảnh giấy này. Con cháu Hoàn
đã học tới lớp 10 vẫn không đoán ra ông cháu viết gì - ông móc túi ra mảnh giấy
đặt lên tráp - Cụ dặn trong này có tờ di chúc và những cái khác quan trọng, khi
có mặt đông đủ họ hàng thì đem ra trình. Cụ đã có lòng tin vợ chồng nhà con thì
chúng con phải cố giấu nó bằng được. Con cho nó nằm hầm bí mật hồi xưa con giấu
cán bộ ta, đến nay vẫn chưa lấp đầy. Mươi hôm lại lấy lên xem có bị sao không,
sợ mối xông. Hồi ấy bị Đội khám ra là cả nhà con chết rồi.
Ông Hân cầm mảnh giấy,
lật đi lật lại, ngắm mãi, sau cùng lắc đầu để nó lên chỗ cũ. Tờ giấy có một cạnh
bị xé nham nhở, vẻn vẹn 3 chữ theo chiều dọc:
Cái
ở
con
Lúc ấy mắt cụ Thư tuy
còn hoen lệ, vẫn sáng lên đột ngột. Cụ đứng phắt dậy, vừa hấp tấp đến chỗ ông
Hân vừa móc trong túi một mảnh giấy, hình dạng y hệt mảnh trước, chỉ khác chữ:
mở
họng
Lu
- Người dặn: đây là một
nửa do chính tay Người xé ra. Ghép hai nửa theo vết xé thì biết chìa mở tráp cất
ở đâu. Người cũng dặn chỉ khi cái tráp được trình ra trước cả họ thì tôi mới được
phép tiết lộ mảnh giấy.
Ông Hân không để phí một
giây, ghép hai mảnh lại. Ôi trời, trác tuyệt đến thế này thì thôi: “Cái mở ở họng
con Lu!” Ông đọc to cho cả họ nghe và mọi người đều đứng cả dậy chen nhau đến
sát cái tráp, xoa xoa hình ảnh cụ Bá, một vài người giật phắt lấy hai mảnh giấy
để ngắm nghía nét chữ nắn nót trên giấy đã ngả vàng. Cùng lúc có rất nhiều lời
bình đan xen:
- Cứ như là truyện cổ
tích ấy nhỉ. Ở truyện Tấm Cám, quả thị vỡ ra thành cô Tấm thảo hiền, đây hai mảnh
giấy ráp lại thành cái chìa khóa. Hay đáo để cơ. Không biết cụ nghĩ thế nào mà
ra được? Mà làm sao phải rắc rối thế! Cứ đưa luôn cả chìa cho bà Tàm giữ có gọn
không!
- Chắc cụ có điều gì ngại.
Cụ Bá đã làm việc gì thì cấm chê vào đâu được. Tôi đồ chừng trong tráp có gì bí
mật, ngộ nhỡ ông bà Mấm mở ra xem, bị lộ toét thì hỏng
bét.
- Nghe ông đoán có vẻ
sát đấy!
- Em hồi hộp quá, chị ạ - bà
Phượng nói với bà Loan rồi quang sang ông Hân - Cậu ơi ra lấy chìa đi.
- Ừ, cậu ra đây. Kính mời
cả cụ Giáo, vị chủ nhân của con Lu. Ta phải thắp hương khấn xin nó. Chín năm ngậm
giữ hộ, công lớn lắm. Hoàn đốt cho bác 3 thẻ hương rồi cầm ra lăng. Cả chú Mấm
cũng ra ngoài ấy cùng.
Cụ Giáo nhờ Hoàn tinh mắt
nhìn xem, rồi đến ông Mấm ghé sát mắt vào, thò cả ngón tay vào khua. Không có
gì ngoài lá khô và ít bụi. Đến lượt ông Hân, cũng không thấy cái cần tìm.
- Hay có ai lấy trộm rồi?
- Nói thật nhá, dân
làng mình bố bảo cũng chẳng dám lai vãng gần nó, nói gì đến thò tay vào mõm. Nó
không đớp cho cụt ngay!
Lúc ấy, Hoàng hớt hải
tìm ông Hân ở từ đường:
- Ơ, anh Hân vừa mới ở
đây, đi đâu mất rồi?
Khi các chữ trên tờ giấy
được giải mã, Hoàng vốn là đứa ranh ma và nhanh trí, lẻn ra lăng con Lu rồi thò
tay vào khoắng họng nó, thấy vật gì, ghé nhìn: Hóa ra một đồng chinh tiền cổ.
Loay hoay cho que vào khều mãi không được, liền kiếm đoạn dây thép đem uốn
thành cái móc kiểu lưỡi câu thế là lôi được nó ra. Lạ nhỉ, thầy dặn là chìa khóa
cơ mà! Hoàng nắm đồng chinh ra sau từ đường lật đi lật lại xem có gì lạ không.
Cuối cùng đành phải đem vào trao cho anh, thì anh đã ra lăng.
- Anh ơi, em tìm thấy
cái này trong họng con Lu. Không phải chìa khóa.
Ông Hân chộp lấy, chưa
kịp nhìn thì Hoàng đã thưa:
- Có khắc chìm chữ
“Hoan” anh ạ. Thầy khắc tên con anh để làm gì?
Ông Hân nhìn không rõ,
phải cài kính lên mắt… đột nhiên ông reo ầm cả sân, làm mọi người đang mải bàn
tán trong từ đường, phải im bặt và cùng nghển cổ ngánh ra.
- Chìa đây rồi! - ông
cứ giơ đồng chinh lên quá đầu mà chạy vào, khiến người ta chẳng hiểu đầu cua
tai nheo ra sao - Ô hay, chìa khóa gì lại là đồng chinh? Các cụ ngạc nhiên, thắc
mắc là phải. Khóa này là khóa chữ, người khóa đã dùng chữ gì để khóa thì người
mở phải đặt đúng chữ ấy mới mở được. Tên cháu đích tôn của Người: Hoan! - ông vứt mạnh chìa xuống kêu đánh
“keng” như để phụ họa với điều mình khẳng định. Nào, chú Mấm bên giùm cái tráp ra ngoài này cho
sáng mới nhìn được, chữ nhỏ lắm. H này, O này, A này, cuối cùng là… thôi, còn
chữ cuối, Hoan này, bố để con đặt nốt.
Hoan nhanh nhảu bước lại:
“N này, xong rồi”. Hoan rút còng khóa ra khỏi ổ, giơ lên cho cả họ nhìn. Ông
Hân như phát cuồng, nói rất to, mà đáng lẽ chỉ cần nho nhỏ cũng đủ vì bầu không
khí đang im phăng phắc:
- Trời ơi, sao kì lạ thế
này! “Hoan” là chìa mở ra những điều ông nội trăng trối. Chỉ có Hoan thôi. Là
Hân, là Bỉnh, Bính hay Jeanette cũng không thể. Con ơi, đó là đặc ân Người dành
cho con trước khi Người đi vào cõi vĩnh hằng.
Ông càng nói, lời càng
thăng hoa lưu loát đầy hình tượng, như đã được soạn và học thuộc kĩ.
Ông ngừng nói vì lời cụ
Bê chen vào, cụ đang sốt ruột:
- Mở tráp xem cụ Bá dặn
gì.
- Vâng, con mở đây…
Nhưng có lẽ để mọi người thừa lộc cụ xong rồi mở cũng chưa muộn. Tôi xin ý kiến
của cả họ.
Ông Hãm-phanh, hơn chục năm ra Hải
Phòng làm ăn, đã thành con sâu rượu của phố Belgique, giọng uể oải:
- Quá Ngọ lâu rồi. Đưa
cay cái đã, rồi có giở giói gì mới mạnh bạo được. Nam mà chậm tửu thì chẳng
khác kì chậm phong.
Nhằm đạt được sự chan
hòa gia đình, cụ Giáo rất khôn khéo xếp một liên mâm gồm cả nhà ông Hân, anh em
Bỉnh, vợ chồng Loan cùng mẹ con Jeanette. Cụ chủ động vào đề:
- Chú cảm thấy may mắn
hơn cha ông các cháu là còn sống tới phút này để được ăn giỗ anh, được tái đoàn
tụ với con cháu, đặc biệt là cháu Hoan và mẹ ruột. Sự kiện này nói lên hồng
phúc họ ta còn vượng lắm, rồi đây mọi cháu con sẽ được ngẩng cao đầu trở lại,
và chẳng phải đợi đâu, đã bắt đầu rồi. Dù quá khứ có thế nào, trong giờ phút đặc
biệt hiếm hoi này, chú rất hi vọng chúng ta chỉ nhằm một mục đích duy nhất: gia
đình hòa hợp. Jeanette cũng vậy, có nên tạm một lúc đặt vị trí tu hành sang một
bên để đạt mục đích đó chăng? Trước khi là nhà sư, cháu đã là một người mẹ hoàn
toàn trần tục. Và giờ đây con cháu đang là một thực thể cũng hoàn toàn trần tục
cơ mà.
- Thưa chú -
Jeanette rụt rè đáp - Đó là điều cháu vẫn tâm đắc, khắc khoải mong chờ.
Hai mươi năm cháu dốc lòng vì phật tổ dù ăn chay niệm phật vẫn khao khát phút
giây thiêng liêng ấy.
- Chú đã nhờ em Loan sửa
cơm chay cho cháu. Chắc xong rồi, phải không Loan?
- Thưa chú vâng. Mận
ơi, bưng mâm cơm chay lên đây giúp chị với.
Rất mau chóng, họ trò
chuyện chan hòa, không ai không chạnh lòng khi nghe Jeanette kể về cuộc hành
trình tìm con mình.
- Khi cháu bị bắt cóc ở
phố Paul Bert Hải Phòng, cả nhà không ai nghĩ do bố nó chủ mưu…
- Cậu Hân, cậu vẫn tập
trung thính lực đấy chứ - Tân hất
hàm và nháy mắt ranh mãnh - Cậu vừa bị lên án xong: chủ mưu bắt cóc trẻ
con! Sẽ ra tòa là cái chắc.
Jeanette với nét cười
thoáng qua, tiếp câu chuyện:
- … Nên không định ra
được phương hướng truy tìm. Sau khi về Pháp, hi vọng tìm ra cháu hoàn toàn mờ mịt.
Ít lâu sau có một người bạn Việt kiều khuyên dốc lòng tụng niệm, sẽ được trời
phật phù hộ độ trì soi đường chỉ lối cho. Đó là kinh nghiệm vàng chị ấy rút được
từ sự tái đoàn tụ sau gần chục năm thất lạc gia đình. Một lần thấy văn sĩ
Albert Hải trả lời phỏng vấn, tôi thầm quả quyết đúng nó là con mình.
- Linh cảm hay nhận ra
đặc điểm nào? - bà Khiết
hỏi, chỉ vì tò mò muốn biết người mẹ này có nắm chắc nhận dạng đặc biệt của con
mình hay không.
- Hai cái tai của nó
thì không lẫn vào đâu được. Chỉ còn ngờ cái vành tai có mềm không. Còn cái nốt
ruồi giữa yết hầu, văn sĩ đó có không? Cravate che mất cổ. Đành thông qua hội
văn sĩ Paris để biết địa chỉ nó. Đến nơi, thấy một người Pháp xưng là cha, một
người Việt xưng là mẹ nó. Ông bà cho biết văn sĩ đã đi Việt Nam. Trong hoàn cảnh
ấy, không thể hỏi thêm, sợ mang tiếng thọc mạch đời tư. Thế là đành phải tự an ủi:
Người đời tai giống nhau vẫn thường thấy đấy thôi.
- Thế nó trả lời phỏng
vấn có gì hé rạng? - bà
Khiết hơi sốt ruột.
- Phóng viên hỏi: “Độc
giả mê tác phẩm của văn sĩ, cũng mê luôn anh nên muốn biết nhiều hơn về anh.
Xin văn sĩ nói đôi điều về mình, chẳng hạn về song thân, nếu có thể…” Chỉ nghe
đáp: “Song thân và gia đình tôi không có gì đặc biệt hơn người để có thể nói.
Thành thật cảm kích trước tình cảm của độc giả. Tôi chỉ biết nói lời cảm ơn sâu
sắc.” Thế là sau 2 chục năm sống trong hi vọng, chỉ thấy lóe một tia rồi tắt
ngay, lại phải chấp nhận sự thống trị của cô quạnh, kinh kệ và chuông mõ. Nhưng
từ đây, quả là nhờ có linh cảm mách bảo: Cái đích đã tới gần lắm rồi, nên bóng
dáng của cháu, đặc biệt lúc nó còn nhỏ qua hình dung lúc nào cũng sáng lòa và sắc
nét. Đến một hôm, trước lúc đi ngủ, theo thói quen tôi vẫn mở ti vi, mục “Tìm
thân nhân” thì thấy:
“Tôi hi vọng bà
Jeanette đã nghe và đọc hết lời con nhắn. Nếu chưa, xin bà vui lòng đọc lại
cũng vào giờ này ngày mai.”
Đó là lời cuối cùng của
phát thanh viên, trước khi màn hình chuyển sang lời nhắn kế tiếp. Tôi tiếc ngẩn
vì bật máy muộn mất vài phút. “Jeanette” liệu có phải Jeanette Dupont? Nếu đúng
thì “lời con” trong thư là của con ruột mình. Cả đêm ấy tôi không thể ngủ, ra
ra vào vào, nhìn đâu cũng thấy hình ảnh cháu. Cả ngày hôm sau ngồi trong lớp học
Việt văn mà chẳng hiểu thầy dạy gì, chỉ nghĩ đến cái ti vi và hi vọng… Hồi hộp
gấp trăm lần thí sinh trước giờ thi. Tôi chuẩn bị récordeur(1) phòng
khi bị quá xúc động mà không nhìn không nghe được gì - bà dừng lại như để trấn an cơn hồi hộp trước đây
đang tái hiện.
_____________________________
(1) Máy thu thanh, ghi hình.