Biểu Tượng Một Dòng Họ - Chương 16

XVI

Đại đội dân quân từ vị chỉ huy xuống càng nghiền ngẫm
càng nhận ra việc đánh Tây giữ làng không đơn giản như suy nghĩ ban đầu nữa, mà
là một việc còn gian khó, hiểm nghèo hơn đội đá vá trời, nên cần thiết phải luyện
tập thật nhiều phương án tác chiến. Nhưng trong ban chỉ huy chẳng ai biết chiến
thuật. Kiểu đánh cướp thì ông Bá am hiểu. Còn việc đánh quân mũi lõ mắt xanh có
súng bắn gần, súng bắn xa, có xe tăng, máy bay, thì hoàn toàn chưa ai thấy, nói
gì đến biết cách đánh. Vậy bó tay sao? Ông Bá nói:

- Người ta phỏng làm được việc gì khác thường, đều
phải nhờ trước hết dám nghĩ. Việc dễ, nghĩ mau. Việc khó, phải nghĩ lâu, cuối
cùng cũng ra cách. Thằng Phú Lang Sa đầu tiên cũng phải nghĩ mới làm ra được tầu
bay, tầu bò, súng ống đạn dược. Tôi cũng đã nghĩ nát óc mới trừ được thằng Sình
và đảng cướp của nó. Bây giờ cũng vậy, phải nghĩ. Việc này khó nhiều, phải nghĩ
nhiều. Một người nghĩ không nổi thì nhiều người cùng nghĩ. Người hiến mưu này,
kẻ góp kế kia. Thế là thành cách đánh thôi. Ý kiến của ông xua tan được nỗi âu
lo và hoang mang, thậm chí sợ sệt ít hôm rồi đè nặng lên hàng quân. Sau đó, 10
vị (với tư cách tham mưu) được đề cử vào một ban có tên gọi “Ủy ban tác chiến”
gồm phần lớn thành viên họ Đào. Sau ông Bá là Luyện, Hân, Bích, Trai, Đích,
Ích, Úc. Ông đồ Nghiên cũng được mời tham gia với tư cách cố vấn.

Tại nhà anh Bích, ủy ban tác chiến đang bàn cách bắn
máy bay. Nó bay cao và nhanh thế, nếu đạn ta ăn may trúng thì cũng như cái gãi
ngứa cho nó, hay xuyên qua được? Còn bán tín bán nghi thì thử một phát xem sao.
10 lá sắt tây áp vào nhau làm mục tiêu chịu một phát mút-cô-tông ở khoảng cách
500 thước. Đầu đạn chỉ xuyên thủng hai lá. Vậy là súng trường không thể hạ máy
bay. Vậy phương án là: Khi Tây oanh tạc, ta phải xuống trú hết dưới tăng-xê(1).
Khi nó ngừng oanh tạc là lúc nó để cho bộ binh tiến, khi đó quân ta khẩn trương
ngoi lên xung trận, đánh giáp lá cà. Còn tầu bò, xe tăng? Hình như nó dầy hơn
máy bay. Có lẽ thế, vì nó sinh ra để bò, nên dù có nặng do vỏ dầy, vẫn không ảnh
hưởng mấy. Dù sao vẫn phải thử. Ước đoán vỏ nó dầy nhất là 10 li. Nào, kiếm đâu
ra sắt tấm dầy cỡ ấy ở thôn quê này? Cuộc họp bị bế

_______________________________

(1) Tranchée: hầm trú ẩn.

tắc, chỉ vì miếng sắt. Vừa lúc bà mẹ anh Thóc vào hỏi
xin gia chủ nắm lá chua me về đánh dấm nước rau, gợi đến anh con bà là phó rèn.
Thế là cử người đến mượn sắt nhà anh phó… Đoàng! Cách 5 chục thước, đạn xuyên
thành lỗ nhưng rắt lại. Tang này có lẽ phải nhờ đạn trái phá mới trị được, loại
này chỉ bộ đội mới có. Ông Bá lên tiếng:

- Dùng xăng đốt chắc là độc kế?

Ông Nghiên gạt ngay:

- Làm sao áp sát được để đổ xăng? Súng trong xe đâu
có bị câm!

Chẳng biết anh Bích nghĩ gì, chỉ thấy anh mủm mỉm và
ra khỏi cuộc họp, vào buồng ngồi.

- Mệt à, anh Bích?

- Không ạ, ngoài ấy cứ bàn đi.

Bàn đã nát lời vẫn chưa tìm ra cách áp sát tầu bò mà
không bị giặc bắn hạ. Lát sau anh Bích xách ra một chai xăng được hút từ cái
bình bịch của anh, gọi mọi người:

- Các vị ra sân chấm giùm tôi cái phát minh vặt này…
Giả dụ cái đống gạch đầu vườn kia là cái tầu bò – Thoắt cái anh liệng chai xăng
lên, tức thì lửa trùm lên đống gạch, trước những con mắt vừa ngạc nhiên vừa
khâm phục. Anh giải thích – Gắn vài cái kíp đạn vào đít chai, phải bó thật chặt
kẻo nó long ra. Kíp đạn nhà tôi vẫn dùng sạc(1) đạn cho khẩu caliber
seize(2) còn nhiều; chiến sĩ nắm cổ chai liệng, đít chai hướng tầu
bò phi tới, khi đụng, kíp nổ, 3-4 kíp không thể xịt hết, lửa bắt xăng, tầu bò
cháy. Ngồi dưới hố cách tàu bò 5 chục mét mà ném là ăn chắc mười mươi. Đốt tầu
bò cách này coi như được duyệt.

___________________________________

(1) Charger: nạp thuốc, kíp và chì
viên và tút đạn.

(2) Cỡ nòng 16 mm.

Ông Nghiên vẫn chưa rời mắt khỏi vầng lửa vẫn còn
ngùn ngụt trên đống gạch:

- Thần thật! Xin toàn tâm bái phục họ Đào nhà các vị.

Quay trở vào nhà, ông Bá phát biểu ngay tức thì, như
thể chậm, ý kiến sẽ nguội theo ngọn lửa đang bập bùng trên cái tầu bò giả định
ngoài vườn:

- Chỉ cần hai chai là đủ hỏa táng một tầu. Còn đánh
quân bộ? – Không chờ ý kiến của các ủy viên, ông tự giải đáp – Tôn Tử, tác giả
của những binh thư vĩ đại cho nhiều đời có dạy: Nếu phải giữ chốt thì việc thiết
yếu là xây thành lũy và đào hào xung quanh. Tiến quân mà phải lóp ngóp bơi lội
qua hào, sau đó lại phải leo lũy là khó khăn to và lúng túng lớn rồi. Đúng lúc,
đòn ta tung ra, tiêu diệt giặc dễ hơn rất nhiều so với lúc chúng hành quân trên
đất bằng. Một đại đội dân quân không đủ sức đào hào đắp lũy, theo nhẩm tính vội
của tôi cũng phải hơn 2 cây số chạy dài và cao ít nhất 3 mét, hào sâu không thể
dưới 2 mét. Ý các đồng chí thế nào, hiến kế đi.

Anh Luyện vừa phát biểu vừa thúc thúc đầu ba toong
xuống nền nhà:

- Theo quan điểm quần chúng mà Việt Minh vẫn áp dụng
là hô hào lực lượng nhân dân. Huy động được lực lượng ấy, không việc gì không
giải quyết được.

- Vâng, quả là như vậy! – Ông Nghiên rướn người lên,
gật gật đầu với anh Luyện, vẻ rất tâm đắc. – Một cây làm chẳng nên non. Ba cây
chụm lại nên hòn núi cao.

Và chỉ một lúc sau khi cuộc họp giải tán, mõ ra khắp
đường quang ngõ hẻm:

- Cốc cốc cốc… tôi chiềng làng nước… giặc Tây sắp
kéo đến làng ta, giày xéo mồ mả, giết hại dân lành, hiếp tróc phụ nữ, cướp của,
đốt nhà. Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh. Mọi nhà phải hợp sức với dân quân đào
hào đắp lũy để cản bước tiến của giặc. Ủy ban tác chiến kêu gọi nam phụ lão ấu,
thanh niên, phụ nữ ngay tối nay ra đầu làng, mang theo mai cuốc, quang sảo. Tôi
chiềng làng nước, ngay tối nay… Cốc cốc cốc…

Nghe mõ rao rành mạch, đúng như ý đồ đã truyền đạt,
ông Bá rất hứng khởi, vì tin chắc việc đại sự này sẽ được dân chúng hưởng ứng
nhiệt liệt. Và như thế, công cuộc bảo vệ làng mạc không còn là việc quá khó nữa
rồi.

Công bằng mà nhận định: Tuy không khí cách mạng cứ từng
phút hừng hực và ngùn ngụt bốc cao, song sự dấy lên ấy chỉ hoàn toàn mang tính
tự phát và tự phong, mà chưa hề được một bàn tay sắp đặt nào của lãnh đạo Việt
Minh. Âu cũng là nét rất đáng yêu và đáng trân trọng. Dăm ba vị có đầu óc ra tỉnh
chỉ để thỏa tính hiếu kỳ, thấy cách mạng ở đó hấp dẫn và cuốn hút đến lạ lùng,
sinh mê rồi đem về thuật lại cho làng nước. Thế là cả làng bắt chước, vừa bắt
chước vừa nâng cao, sáng tạo. Không ai chịu ngồi yên, đứng xem. Toàn bộ cái
làng Mây đang quen cuộc sống lặng thầm truyền kiếp nay vụt thành ào ạt, réo
sôi, rùng rùng chuyển động từ trong lòng người tới mọi ngõ ngách. Cả những chiến
thuật đánh Pháp giữ làng cũng chỉ đơn thuần xuất phát từ lòng nhiệt huyết yêu
nước, mà không thấy toát lên một kiến thức khoa học quân sự nào. Họ đâu biết xe
tăng và bộ binh Pháp chẳng dại gì cứ phải leo qua chiến lũy và con hào, mà chẳng
khó gì rẽ sang mé sườn để tràn vào làng. Hoặc khi dân quân chưa nhìn thấy một
lên lính Pháp nào thì đã bị trúng đạn moóc-chi-ê không rõ từ đâu câu đến dồn dập.
Hơn thế, với số đạn ít ỏi mua được của bọn Tầu phù tháu cáy trong kho phỏng họ
bắn được bao lâu, trong khi Pháp thừa sức vãi đạn hàng mấy giờ liền.

Quả nhiên chuyện không còn lạc quan như ông Bá cảm
thấy lúc chiều nữa, khi Mấm chạy hộc tốc về trang viên, gọi ông như bị cháy
nhà:

- Ông ơi, ông ơi, ông ơi, họ đang đào mả cụ Hội, họ
đang đào mả cụ mình. Con can họ không nổi. Ông dậy mau!

Ông bật dậy như bị đàn ong đốt dưới lưng, rồi chạy
thục mạng cùng Mấm ra hiện trường: giao thông hào đào tới sát mộ cụ Hội. Trước
ánh đèn pin, không còn nghi ngờ nữa, nước đùn lên như mạch sủi thân đê. Ông xệp
xuống bờ hào, mắt không rời mạch ngầm dội lên không ngớt, cảm thấy như một luồng
khí độc thổi thốc lên mặt, khiến ông tức thở và hoa mắt. Thôi chết rồi, long mạch
đã đứt! Ông linh cảm một thảm họa tày đình đang treo lơ lửng. Ông quát hỏi:

- Đứa nào cho đào vào đây? Đứa nào?

Mọi người dừng tay mai tay cuốc ngơ ngác nhìn nhau.

- Chúng mày biết đây là mộ thân phụ tao, thế mà vẫn
cố tình!

- Thưa ông, người ta chỉ đâu, chúng con đào đấy ạ.

- Thế mù hay sao mà không thấy mộ nhà tao. Vậy đứa
nào hạ lệnh đào hướng này?... Không đứa nào hé răng, nhưng tao cũng biết, thằng
hội Phàm chứ gì! Chúng mày định che giấu cho nó chứ gì: Hội Phàm đâu, trả lời
đi!

Phàm biện bạch do phải lợi dụng con mương có sẵn ở
cánh ruộng bên kia, để chỉ tốn ít công mà vẫn được con hào như ý.

- Thôi đừng có lắm nhời quanh co! Tôi chẳng lạ gì tâm địa của anh! Chỉ
vì ghen tị mà anh cam tâm, muối mặt làm việc thất đức. Liệu dòng giống nhà anh
sau này được an nguyên? Ân báo ân, mà oán thì thế nào cũng được báo oán thôi.
Nghiệm xem nhá.

Ông sai lấp đoạn hào đó, thay vào là khơi đoạn khác
rẽ chệch sang phần đất gần đấy. Việc lấp thì phải lấp thôi, phỏng cứu vãn được
gì khi long mạch đã bị cắt rời! Ông quay về trên bước chân uể oải, như mất hết
trọng lượng, bước thấp bước cao, thất thểu trong đêm tối, đèn trong tay chẳng
muốn bật, tâm trạng đang bị đè nặng bởi cảm giác của người bại trận sau khi đã
tung ra toàn bộ năng lực, sức lực, trí não. Hơn ai hết, ông thừa biết mình đã cạn
kiệt những yếu tố tối thiết để vật lộn như đã làm trên đoạn đường phấn đấu suốt
gần nửa thế kỉ qua.

Rất có thể Phàm có ác ý. Song nếu một ai khác đã vạch
hướng đào, thì hoàn toàn là tất yếu, vì như thế mới đắc địa. Đó là sự nhìn nhận
khách quan, ngoài cuộc tức ngoài họ Đào. Còn từ góc độ trong cuộc, ông nhìn nó
cực kì nghiêm trọng, không khác nào một đòn hiểm, tuy vô hình, song khi dính phải
sẽ bị di hại khôn lường, cái đòn gợi lên tình trạng bại não gây mất hết trí nhớ,
không nhận ra cả vợ con, thân hình suy sụp, chân tay mất cử động, gan thành xơ,
tim loạn nhịp, mắt mù, tai điếc, huyết quản tắc đoạn này, nghẽn khúc kia. Cuối
cùng, người bệnh sẽ đi đến đâu, ta đều thấy được trước. Từ nay, ức rồng không
còn “máu” chảy đến nuôi dưỡng! Cốt thân phụ vừa mới kết phát, giờ bị rã hết rồi.
Trời hỡi! Hành trình tạo dựng và phát triển của họ Đào chẳng lẽ đến nơi sơn
cùng thủy tận rồi? Nào ngờ con hào nhằm đánh giặc ngoại xâm lại quay đánh lại
chính ta, đánh lại cả một thế mạnh như chẻ tre tồn tại suốt trăm năm qua. Hiệu
quả đánh giặc chưa thấy đâu, hậu quả giáng vu hồi vào trung tâm linh thiêng nhất
trong hệ thống mồ mả đã ở trong tầm hiển thị. Mộ thân phụ táng đúng ức rồng, hậu
vận của toàn họ vượng như long thăng, nhật hiện, thế lực tiềm ẩn như triều cường.
Tuổi của ta thọ đến hơn trăm. Bây giờ địa long bị tận huyết… sẽ không tránh khỏi
thui chột mọi thành quả, mọi kì vọng và đại họa sẽ đua nhau tác oai xuống các số
phận. Tiếng chuông báo ngày tận mệnh của mình, ngày về hầu tiên tổ đã điểm… Ông
cảm nhận và tin chắc điều ấy, bởi vốn sẵn có lòng tin vào thần linh và hồn
thiêng của cha ông linh ứng, lại thêm những gì trắc nghiệm được dựa trên cung tử
vi và gần đây nhất là việc cầu an vị tổ đế bà Đào Hương.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3