Nguyên soái bất đắc dĩ - Chương 11 - 12
Chương 11: Đại
doanh
Đoàn người
giục ngựa chạy liên tục, chỉ dừng lại một buổi tối để nghỉ ngơi, mất gần hai
ngày mới tới được thành Nhữ Bình. Trần Ninh lại có thể trong vòng một ngày tới
cứu viện, nhất định là nghe tin tôi bị truy sát, đã điên cuồng mà chạy.
Tôi hỏi Trần
Đường, làm sao báo tin cho Trần Ninh, cậu ta bảo trong các thành đều có trạm
quan sát, dùng khói đặc thù mà đốt, ở cách rất xa cũng có thể nhận được tín hiệu.
Tôi “à” một tiếng, cảm thấy cách này không tệ, chỉ có một nhược điểm là không
thể dùng trong lúc đánh trận, bởi vì ngoài người của mình trông thấy, kẻ địch
cũng có thể.
Trước cổng
thành Nhữ Bình có cả ngàn người đứng sẵn. Một người đàn ông hơn ba mươi tuổi,
khuôn mặt vuông vức, ánh mắt chính trực, mặc quân phục trông có vẻ là tướng
quân. Anh ta không cưỡi ngựa mà đứng dưới đất, trông thấy tôi liền vui mừng tiến
lên đón, một ngàn người sau lưng anh ta cũng đồng loạt hành lễ gọi:
“Nguyên
soái”.
Trần Đường thấp giọng:
“Lục phó tướng, Lục Ca”.
Tôi gật gật
đầu. Trong quân có ba người có chức vụ cao nhất. Ngoài tôi là đại nguyên soái,
thì Trần Đường là phó tướng chinh Bắc, phụ trách bộ binh. Người còn lại, phụ
trách kỵ binh, chính là anh chàng Lục Ca trước mặt. Trần Ninh là giáo úy dưới
trướng Lục phó tướng.
Tôi mấy ngày
ở trên lưng ngựa chạy thục mạng, vết thương sau lưng đã sớm bục ra, chẳng muốn ở
nơi này khách sáo chào hỏi. Liền bảo bọn họ đứng dậy, lại nhìn Lục Ca nói:
“Lục tướng quân, chúng ta về đại doanh trước hẵng nói. Việc quân cấp bách”.
Thật ra quân
tình chẳng có gì gấp gáp, mà cái lưng tôi không chịu được lâu nữa. Tôi không muốn
lại lo nói nhảm mà mất máu ngất xỉu như lần trước.
Lục Ca ánh mắt
ngạc nhiên, song không nhiều lời, lập tức lên ngựa, hộ tống bọn tôi về chỗ đóng
quân. Tôi thấy thái độ anh ta như vậy cảm thấy hơi lạ, quay đầu nhìn Trần Đường
tỏ vẻ thắc mắc.
Trần Đường mỉm
cười:
“Bình thường đại ca đều gọi anh ta là “lão Lục”, hai người ở trong quân rất
thân thiết”.
Trần Ninh gật
đầu lia lịa:
“Đúng vậy. Đúng vậy. Lục đại nhân so với mẫu thân chúng ta còn lắm mồm hơn. Lúc
nào cũng lo lắng cho đại ca không yên. Còn sốt ruột hơn cả nhị ca và đệ. Sau
này đại ca lấy vợ, Lục đại nhân có khi sẽ khóc lóc không nỡ rời xa đại ca ấy chứ!”.
Tôi lườm Trần
Ninh:
“Tôi thấy đệ mới là kẻ nói nhiều đấy”.
Cậu ta bĩu
môi.
Về đến lều
trướng, Lục Ca lại gần hỏi tôi:
“Mạt tướng đã sai người chuẩn bị tiệc rượu để nguyên soái tẩy trần. Nhưng nếu
việc quân cấp bách, vậy để mạt tướng gọi các quan quân đến họp”.
Tôi thấy anh
ta xoay người định đi gọi quan quân khác thật thì vội kêu “khoan đã”, rồi xuống
ngựa đi tới trước mặt anh ta. Nhìn người đàn ông trước mặt có vẻ mặt giống như
bị “phụ bạc” tôi dở khóc dở cười. Quan hệ của anh ta và Trần Ngạn trước kia có
lẽ rất thân thiết, tôi cũng không thể lạnh nhạt với người này được. Tôi cười cười:
“Lúc nãy tôi lấy cớ để mau chóng đi xử lý vết thương thôi, không có việc gì gấp
đâu”.
Đêm qua nghỉ
ngơi đã lau sạch máu trên người, thay bộ quần áo sạch sẽ. Nên tin tức tôi bị
thương, những người ở đại doanh còn chưa biết. Tôi vừa nói hết câu, Lục Ca đã
chộp tay lên vai tôi, xoay trái xoay phải, muốn kiểm tra xem tôi bị thương ở
đâu. Lại ngẩng đầu lên thấy ánh mắt tôi có vẻ xa cách thì lúng túng, bước lùi lại.
Tôi gãi gãi
đầu:
“Trước kia, anh gọi tôi là gì?”.
Anh ta hơi
ngẩng đầu, khẽ giọng gọi:
“A Ngạn”.
Quả nhiên là
thân thiết, tôi cười:
“Về sau, anh cứ gọi A Ngạn là được. Lúc nãy tôi không cố ý. Chuyện tôi bị mất
trí nhớ, mọi người hẳn cũng đã nghe rồi? Lão Lục, đừng trách nhé!”.
Lục Ca nghe
vậy thì tươi tỉnh mặt mày, lại hỏi tôi bị thương ở đâu. Tôi bảo lưng bị chém một
nhát, nhưng không nghiêm trọng. Trần Đường cũng đã xuống ngựa, đi tới bên này:
“Đại ca, đệ gọi quân y rồi. Huynh mau vào kiểm tra vết thương”.
Tôi “ừ” một
tiếng, nói:
“Tay đệ cũng
nên thay thuốc, đừng chủ quan”.
Trần Đường
cười gật đầu. Tôi lại quay sang Lục Ca:
“Tiệc rượu không cần hủy bỏ đâu, chỉ là làm đơn giản một chút. Lão Lục cũng nghỉ
ngơi đi, tối chúng ta uống rượu, ôn chuyện”.
Lục Ca đi rồi,
tôi dặn Trần Đường:
“Chuyện lần
này không cần để mọi người trong doanh biết. Tôi sẽ tính sổ với Khương Nguyện
sau”.
Thế lực lão
tể tướng quá lớn, không thể vạch tội ông ta. Hoàng đế thanh niên muốn dùng tôi
làm quân cờ chiến lược đối phó Khương Nguyện, nhưng không có chuyện thay tôi
đòi lại công đạo. Nếu tôi không có bản lĩnh giải quyết những chuyện như vậy,
hoàng đế thanh niên sẽ vứt bỏ tôi mà chọn kẻ khác làm nguyên soái.
Lúc quân y
thay thuốc xong rời đi, trong lều chỉ còn tôi và hai cậu em trai. Trần Ninh nắm
chặt nắm đấm, tức giận mắng rủa Khương Nguyện.
Đối với
Khương Nguyện, tôi cũng không ưa gì, nhưng cũng không cần vội vã báo thù. Nếu
tôi quyết định bằng mọi giá rời đi, thì thù này không báo cũng được. Ông ta
không phải muốn giết tôi hay giết Trần Ngạn, kẻ ông ta muốn trừ khử là con cờ của
hoàng đế thanh niên. Tôi nếu không tiếp tục làm nguyên soái, tự nhiên sẽ biến
khỏi tầm mắt lão tể tướng. Còn nếu như tôi bắt buộc phải ở lại nơi này. Muốn đối
phó với cây đại thụ Khương Nguyện, càng không được hấp tấp.
Tôi không vội,
nhưng lại có người khác vội. Trần Ninh nhìn tôi lo lắng:
“Đại ca, huynh tính thế nào? Không thể để yên cho lão hồ ly đó được”.
Tôi ung dung
rót trà, nhấp một ngụm, nheo nheo mắt nhìn Trần Ninh:
“Nếu đệ đi
đánh nhau mà kẻ địch đông gấp mười lần, một trăm lần, còn người của đệ thì chỉ
toàn con nít hoặc thư sinh yếu đuối, đệ có định cường ngạnh tấn công nữa hay
không?”.
Trần Ninh
khoanh tay ngẩng đầu như đang tưởng tượng cảnh cậu ta dắt theo một đám tú tài
và trẻ nhỏ cầm ná bắn chim, chạy đi tìm Khương Nguyện. Mà đằng sau ông ta lại
là thiên binh vạn mã, đứng đều tăm tắp, vũ khí sắc nhọn. Trần Ninh lắc đầu rụt
cổ, khí thế giảm mất quá nửa, e dè hỏi:
“Vậy phải làm thế nào?”.
Tôi đặt cốc
trà lên bàn, nhếch môi nhìn hai người đứng trước mặt:
“Phải nhẫn!”.
Trần Đường
nghe vậy thì hỏi:
“Phải đợi đến
khi nào?”.
Tôi cũng chẳng
biết trước được khi nào thì thời cơ đến, lúc nào thì thực lực hai bên sẽ không
còn quá chênh lệch. Nhưng người sốt ruột nhất là vị ngồi trên long ỷ kia, chứ
không phải đại nguyên soái hàng rởm này. Tôi vừa nói vừa đứng dậy:
“Ông ta so với chúng ta còn gấp hơn, sẽ lại sớm ra tay. Đến lúc đó, chỉ cần
tương kế tựu kế là được”.
Trần Ninh
nóng vội nói:
“Nhỡ lão ta lại sai người ám sát đại ca thì sao? Không được, như vậy quá nguy
hiểm…”.
Tôi ngắt lời:
“Ông ta như thế lại vừa đúng ý tôi. Thế lực ông ta quá lớn mạnh, ngoài sáng
chúng ta đấu không lại. Ngược lại, ông ta muốn ở trong tối giở trò, chúng ta
còn có cơ hội tóm đuôi ông ta. Chỉ là về đến đại doanh rồi, Khương Nguyện sẽ
không hành động bất cẩn nữa, đệ chớ lo ông ta dùng lại trò cũ”.
Tôi bước tới
vén cửa lều, quay lại nhìn hai người họ, hất hất cằm:
“Trước tiên phải ăn tối cái đã. Đi nào!”.
Trần Đường
kéo Trần Ninh ra ngoài theo tôi, giọng nói đã không còn lo lắng:
“Đều nghe đại ca”.
Chương 12: Ý
định
Trong lều lớn,
quan quân đã có mặt đông đủ. Tôi thấy bọn họ lục tục đứng dậy định nghênh đón,
liền ra hiệu cho mọi người ngồi xuống.
Ngoài Lục
Ca, những người khác tôi chưa từng tiếp xúc qua. Bọn họ trước đó đã nghe đến chuyện
tôi bị mất trí nhớ nên ai nấy đều có vẻ lúng túng, không biết tỏ thái độ thế
nào. Khoan nói đến chuyện quyết định rời đi hay ở lại, trước hết còn ở trong
quân ngày nào cần phải sắm vai đại nguyên soái ngày ấy cho tròn trách nhiệm. Tôi
chào hỏi qua một lượt, lại gọi Trần Đường muốn cậu ta giới thiệu những người
quan trọng để tôi làm quen lại.
Trần Đường mỉm
cười hướng về bàn gần nhất, người đàn ông ngồi bàn đó nhìn thấy liền đứng dậy.
Người này để râu quai nón phủ kín nửa gương mặt, không rõ tuổi tác chính xác, đại
khái khoảng ba đến bốn mươi tuổi. Anh ta không cao lắm nhưng hai vai gồ lên nổi
rõ cơ thịt săn chắc, nhất định là một viên mãnh tướng. Trần Đường gọi anh ta là
Ngụy Quân. Ngụy giáo đầu, phụ trách việc huấn luyện binh sĩ toàn doanh.
Tôi hơi cúi
người, bưng lấy vò rượu trên bàn rót vào cái chén bên cạnh, đưa cho Ngụy Quân.
Bản thân cầm vò rượu lắc lắc nhìn anh ta cười, khẽ cụng chén. Anh ta chắp tay rồi
sảng khoái uống cạn. Tôi cũng tu liền mấy ngụm, vỗ vỗ vai Ngụy Quân:
“Trước kia thế nào thì hiện tại cũng cứ như thế, chớ khách sáo. Trần Ngạn đối với
những việc đã xảy ra đều có chút mơ hồ, về sau còn cần mọi người chiếu cố”.
Anh ta nghe
tôi nói thì thả lỏng, không còn dè dặt nữa, tươi cười gật mạnh đầu:
“Nguyên soái
cứ việc phân phó là được”.
Trần Đường bước về chiếc bàn kế tiếp. Người đàn ông thứ hai khiến tôi có cảm
giác thập phần quen thuộc. Chà, người này chắc không có họ hàng gì với Dục quân
sư ở thành Bắc Bình đấy chứ?
Quả nhiên,
Trần Đường thấy ánh mắt tôi thì tủm tỉm cười:
“Quách Đông tiên sinh, tham quân”.
Chả trách lại
quen mắt như vậy. Những người làm cái chức cố vấn quân sự này ấy mà, mười người
thì hết chín người để râu dài. Có lẽ các vị ấy cảm thấy mỗi khi bày mưu hiến kế
mà không vuốt râu lại khiến người khác nghĩ họ không “cao thâm khó lường”. Tôi
cũng uống với Quách tiên sinh, không vỗ vai ông ta mà chắp tay hơi khom lưng
vái một cái. Quách Đông vội nghiêng người, không dám nhận lễ của cấp trên. Tôi
cười cười bước tới bàn thứ ba.
Trước mặt là
một chàng trai còn khá trẻ, da dẻ trắng trẻo, trông cũng khá tuấn tú. Duy chỉ
có cặp mắt là có chút giảo hoạt. Không đợi Trần Đường mở lời, cậu ta đã lên tiếng:
“Thuộc hạ Lạc Doanh, phụ trách lương thảo”.
Thì ra là một
quan quân nhu. Chức quan này đảm đương từ việc vận chuyển lương thực cho toàn
quân, đến việc phân chia thực phẩm, trang phục các mùa, binh khí các loại cho từng
bộ phận. Tôi rót rượu cho cậu ta, rồi cầm vò rượu của mình, cười đùa nói:
“Việc ăn mặc sau này đều trông cậy vào Lạc tướng quân rồi”.
Cậu ta cười
ngượng ngùng nói sẽ không phụ sự kỳ vọng của tôi, rồi uống cạn chén rượu.
Cứ đi chào hỏi
như vậy một vòng, đến chỗ người sau cùng cũng là lúc vò rượu trong tay tôi chỉ
còn vài hớp. Người đàn ông ở bàn cuối cùng trạc tuổi Trần Ngạn, khoảng hai lăm,
hai sáu. Thân thể anh ta rất cường tráng, chiếc áo vải trên người hơi bạc màu,
không che nổi vòm ngực rộng, khiến người ta dễ liên tưởng đến loài báo săn có
cơ thể linh hoạt, mạnh mẽ trong tư thế bung mình như cánh cung đuổi theo con mồi.
Trần Đường
nói cho tôi biết, người này tên Vệ Giai, là một Lữ tướng, dưới trướng Ngụy giáo
đầu, quân hàm không cao, nhưng từng cứu mạng Trần Ngạn. Nên cho dù họp bàn đánh
trận không có phần anh ta, nhưng những bữa tiệc nhỏ như thế này lại không bỏ
qua anh ta được.
Tuy nhiên,
người đối diện ánh mắt rất sáng, mày rậm, mũi thẳng, nhìn tôi chắp tay gọi:
“Nguyên soái”. Không hề tỏ vẻ được coi trọng mà làm cao. Anh ta tự rót rượu rồi
nâng chén, cung kính giơ ra trước mặt. Trông thấy cách Vệ Giai uống rượu, tôi
biết đây là một người biết uống. Tôi cười nói nhỏ, bảo anh ta rảnh rỗi cứ tìm
mình uống rượu. Vệ Giai vui vẻ đáp ứng.
Quay trở lại
bàn của mình, tôi có chút cồn cào trong bụng. Không phải vì uống nhiều, từ năm
mười bảy tuổi đến tận lúc chết vì động đất, hầu như mỗi ngày tôi đều bầu bạn với
rượu. Trước khi đi ngủ đều uống vài ly mới có thể an ổn thiếp đi. Chỉ là bụng
đói uống rượu, nên có cảm giác không được thư thái.
Tôi đặt vò rỗng
xuống bàn, đưa mắt nhìn khắp lượt những người đang có mặt trong lều. Bọn họ cũng
tập trung ánh mắt nhìn tôi chăm chú. Tôi hơi cười, nói:
“Chuyện tôi
mất đi ký ức, mọi người hẳn đều đã nghe nói. Lần này về kinh, hoàng thượng có lệnh
muốn Trần Ngạn tiếp tục giữ ấn soái, cùng mọi người hợp lực đuổi quân giặc ra
khỏi quan ải. Đối với quân tình, tôi có rất nhiều điều đã quên nên không nắm rõ
tình hình. Các vị tướng quân nếu cảm thấy tôi nói sai, làm sai, nhất định phải
lên tiếng cảnh báo, chớ để Trần Ngạn mắc sai lầm mà làm hỏng việc. Trong quân
cũng không cần quá câu nệ, chúng ta tuân thủ quân quy là được, lễ tiết rườm rà
thì nên bỏ qua. Mọi người có ý kiến gì không?”.
Lục Ca ngồi
bên phải kéo tôi ngồi xuống:
“Đệ trước
tiên ăn chút gì đi, trước kia cũng không biết đệ có thể uống nhiều như vậy”.
Trần Đường
ngồi bên trái cũng cười:
“Đại ca lúc nãy còn than đói, nãy giờ lại mải uống rượu”.
Nói rồi gắp
đồ ăn vào đĩa trống trước mặt tôi.
Những người
khác tươi cười phụ họa, nói không có ý kiến gì. Tôi thấy bọn họ không dám đụng
đũa trước mà đều đợi mình, thì gắp thức ăn cho vào miệng, lại bảo mọi người chớ
khách sáo.
Trong lều
không khí khá hòa hợp, ấm áp. Nghĩ một chút, tôi ngước mắt hỏi:
“Không biết
tình hình quân ta và địch chênh lệch thế nào? Đối với việc hoàng thượng giao
phó, các vị tướng quân có kế sách gì không?”.
Ngụy giáo đầu
đặt đũa xuống bàn, ngẩng đầu đáp:
“Về quân số,
địch và ta chênh lệch không lớn. Trong tay Tô Khải Bạch có khoảng ba mươi vạn
binh mã. Bộ binh hai mươi lăm vạn, kỵ binh năm vạn. Đại doanh của chúng ta có
hai mươi vạn, các thành khác có thể tập hợp thêm mười lăm vạn. Chỉ là việc mượn
quân từ nơi khác sẽ mất thời gian”.
Tôi hiểu rõ
gật đầu. Muốn xin viện quân phải hỏi ý hoàng đế thanh niên, cho dù anh ta đồng
ý, việc đi lại, điều động nếu nhanh cũng phải nửa tháng. Dùng đầu ngón chân
nghĩ cũng biết, Tô Khải Bạch sẽ không cho tôi có cơ hội tập hợp thêm binh mã.
Mấu chốt của
chuyện tôi có thể an toàn rời khỏi nơi nước sôi lửa bỏng này, chính là cái mũ đại
nguyên soái đội ở trên đầu. Chỉ cần không còn là đại nguyên soái chinh Bắc, thì
tôi giả chết hoặc bỏ đi mới không có người truy tung. Mà biện pháp duy nhất
chính là đá chân Tô Khải Bạch ra khỏi Chu quốc. Không còn giặc ngoại xâm, thì sẽ
không còn cần đến đại nguyên soái gì nữa.
Tôi bắt đầu
suy nghĩ nghiêm túc, gọi binh sĩ mang sa bàn vào. Trên sa bàn mô tả chi tiết địa
hình khu vực các thành trì và sông núi xung quanh. Đại bộ phận các thành đều cắm
cờ nhỏ màu đỏ, biểu trưng chủ quyền của Đại Chu. Có một điểm cắm cờ đen, chính
là thành Tùy Châu, bị quân Bắc Tề chiếm đóng. Tô Khải Bạch đang đóng quân ở đấy.
Thành Tùy
Châu cách nơi này mấy ngọn núi, nếu vẽ thành một đường thẳng thì ở giữa chính
là thành Bắc Bình. Lần trước Ngô Phi mà thực hiện gian kế thành công, phá được
thành Bắc Bình, thì sẽ mở được đường cho quân Bắc Tề đánh thẳng tới đây. Chỉ cần
hạ được thành Nhữ Bình, tập trung binh lực hạ thêm hai thành lớn sẽ chiếm được
toàn bộ phía Bắc của Đại Chu, nuốt trọn nửa giang sơn của hoàng đế thanh
niên.
Ngược lại,
muốn đuổi Tô Khải Bạch cuốn gói về quê cày ruộng, phải chiếm lại thành Tùy
Châu. Mà địa hình xung quanh nơi này nhiều sông ngòi, rừng núi, ít thảo nguyên.
Không thích hợp dùng kỵ binh, quân số bên này so với kẻ địch lại chỉ bằng hai
phần ba. Giao chiến trực diện phần thắng quá nhỏ. Nếu đánh du kích, dùng mưu lấy
ít thắng nhiều lại cần thời gian. Bởi vì Tô Khải Bạch là danh tướng của Tề quốc.
Đấu trí với anh ta, tôi cũng không biết có phải bản thân không biết tự lượng sức
hay không. Nhưng anh ta không về nước, tôi cũng sẽ không thể phủi mông bỏ đi được.
Có lẽ tôi
suy nghĩ quá nhập tâm, Lục Ca thấy tôi ngưng thần không nói gì thì khẽ gọi:
“A Ngạn?”.
Tôi lắc lắc
đầu nói không có gì, lại quay sang hỏi Lạc Doanh:
“Tình hình
quân thảo của ta và địch thì thế nào?”.
Hiện tại đã
sắp vào đông. Thời tiết rét lạnh không thể đánh nhau. Thứ nhất, lương thực, quần
áo ấm, thuốc men quá tốn kém. Các vị hoàng đế đều cảm thấy bỏ ra nhiều tiền như
vậy thì rất lỗ vốn, có thắng được cũng mất đi quá nhiều tài vật. Thà để tiền ấy
may xiêm áo, mua trang sức tặng cho mỹ nhân còn có ích hơn. Thứ nhì, gió lạnh,
tuyết rơi, mọi người sẽ không có tâm trạng đi đánh trận. Mùa đông mà, so với việc
đứng trong tuyết lạnh hô hào chém giết, chân tay run lẩy bẩy, thì ở trong nhà
trùm chăn, uống rượu chẳng phải tốt hơn sao?
Không ngoài
dự liệu, Lạc Doanh nói:
“Hoàng đế Bắc
Tề đối với Tô Khải Bạch không bạc, quân lương cung cấp cho hắn rất đầy đủ. Chỉ
là chiến sự kéo dài từ đầu năm đến giờ, nếu còn kéo dài quá lâu, hai bên đều sẽ
bị giữ chân. Các nước khác nếu muốn nhân cơ hội làm ngư ông, chúng ta cùng bọn
chúng chỉ có thể đình chiến. Chúng ta không muốn mất thành Tùy Châu, mà Tô Khải
Bạch cũng không muốn thất bại quay về. Đầu năm sau, nhất định sẽ lại có chiến sự.
Còn lương thảo của ta, vì theo quân quy, trong thời gian không có trận chiến
nào thì lương thực phải tự túc. Lương thảo dự trữ vẫn đủ để thoải mái vượt qua
mùa đông, nhưng theo quy định, các binh sĩ vẫn hằng ngày lên rừng săn bắn, ra
suối bắt cá, về doanh trồng rau, nuôi gà vịt. Cho nên, lương thảo chúng ta so với
địch thì dồi dào hơn hẳn, nguyên soái cứ an tâm”.
Tôi giật giật
khóe môi. Quá an tâm ấy chứ! Hoàng đế thanh niên à, anh cũng không phải keo kiệt
bình thường đâu. Cũng không biết anh ta trả lương cho quân lính bao nhiêu mà có
thể ngược đãi bọn họ như vậy. Lúc giặc tới thì quăng bọn họ ra tiền tuyến, đánh
thắng mới được trở về, thua phải tiếp tục đánh, tới khi nào đuổi cổ quân địch
ra khỏi quan ải mới hoàn thành nhiệm vụ. Lúc giặc nghỉ giải lao, an nhàn nghỉ
đông, anh ta lại cho quân lính của mình tham gia sản xuất, tự kiếm cơm nuôi miệng.
Đúng là vị hoàng đế có đầu óc kinh tế! Tôi thật bội phục anh ta. Chẳng qua là,
nhờ quy định đó của anh ta mà tôi không phải lo nghĩ chuyện nuôi quân. Đồng thời,
tôi lại nảy ra một ý định.
Thấy tôi bỗng
dưng cười rất gian ác, những người bên cạnh đều trố mắt nhìn. Lạc Doanh nuốt nước
bọt, hỏi:
“Có phải nguyên soái nghĩ ra diệu kế gì hay không?”.
Tôi nhếch
môi cười, liếc mắt nhìn bọn họ, vui vẻ đáp:
“Tôi có chút
ý tưởng thôi. Còn phải suy xét kĩ càng. Hôm nay chúng ta nói đến đây thôi, nếu
quân tình đã không có gì gấp gáp, chúng ta cứ án binh bất động, dưỡng sức đợi
qua Tết quyết chiến với Tô Khải Bạch bọn chúng là được”.
Bọn họ nghe
tôi nói vậy thì không hỏi thêm, chỉ có ánh mắt vẫn nhìn tôi đầy tò mò. Tôi cười
thầm trong bụng. Thứ tôi nhắm đến, chính là lương thảo của Bắc Tề!
Tôi muốn xin
viện quân từ triều đình rất phiền phức, lại mất thời gian. Tương tự, Tô Khải Bạch
cũng không thể xin thêm quân và lương thảo. Hoàng đế Bắc Tề cung cấp cho anh ta
đủ đồ chơi. Binh mã, lương thực đều không thiếu thốn. Tôi không thể mau chóng
giết bớt người của anh ta, vậy chỉ còn đường cướp đi lương thảo của anh ta.
Hoàng đế Bắc Tề hào phóng, hoàng đế thanh niên của tôi thì keo kiệt. Nhưng ngược
lại, sự keo kiệt đó lại giúp tôi. Bọn tôi bên này có thể tạo thêm lương thực,
còn Tô Khải Bạch cùng người của anh ta thì không thể!
Anh ta muốn
sang năm đánh tới? Nhưng tôi lại cứ muốn động thủ trước đấy!
Tôi vui vẻ hạ
lệnh giải tán, bảo mọi người ai về lều nấy ngủ. Tôi cũng ôm một vò rượu, định bụng
tìm một chỗ vừa uống vừa suy tính kế sách để đánh cướp lương thảo.