Én Liệng Truông Mây - Hồi 11 - Phần 1

HỒI THỨ MƯỜI MỘT

Chùa Long Thiền, thầy trò vui tái hợp

Thua lôi đài, Văn Hiến định mưu sâu

*

Văn Hiến định trở lại gian tửu đình gặp Hữu
Dụng và Âu Dương Long thì cũng vừa lúc hai người lên đến bờ. Âu Dương Long cúi đầu
chào, giọng lễ phép:

- Chào Trương công tử! Chúc ngủ ngon!

Văn Hiến ngạc nhiên hỏi:

- Bỗng dưng sao Âu Dương huynh khách sáo
với tôi như thế?

Âu Dương Long nghiêm giọng đáp:

- Công tử giờ là bạn của công chúa, tôi phải
giữ lễ.

Văn Hiến phá ra cười:

- Âu Dương huynh đùa với tôi rồi. Chúng tôi
chỉ gặp nhau để nói lời tạ lỗi thôi. Huynh đừng khách sáo như vậy tôi không dám
nhận đâu. Chúc ngủ ngon!

- Cảm ơn công tử!

Văn Hiến và Hữu Dụng cùng mỉm cười, chào
Âu Dương Long rồi thả bộ trở về. Các tửu đình hầu hết đã trống, chỉ còn một số ít
người vẫn ngồi ngắm trăng. Trong gian tửu đình lớn có một nhóm khá đông người đang
nói cười coi bộ vui vẻ lắm. Sương và hơi nước phủ lờ mờ trên mặt sông, tuy vậy ánh
trăng vẫn vằng vặc sáng, soi tỏ muôn vật. Hữu Dụng hỏi:

- Cuộc tao ngộ vui vẻ chứ?

- Dạ cũng khá thú vị.

- Nàng là công
chúa thật à?

- Cháu không
tiện hỏi nhiều, nhưng có lẽ nàng là hậu nhân của Trần Viên Viên.

- Và Lý Tự Thành?

- Có thể như
vậy!

Hữu Dụng gật
gật đầu:

- Thảo nào tôi
có nghe nói về một người Lý vương gia nào đó.

Văn Hiến hỏi:

- Chú nghe ở
đâu?

- Thì cũng từ
các bạn hàng Trung Quốc.

Chợt có hai người
từ trong đám đông của gian tửu đình lớn chạy nhanh lên bờ, cản Văn Hiến và Hữu Dụng
lại. Một người nói:

- Chào thủ Hiến!
Ngài mạnh giỏi chứ?

Văn Hiến giật
mình nhìn người mới lên tiếng chào. Thì ra là Đồng Bách, một người nữa có lẽ là
Lại Thừa Ân. Chàng nghĩ chắc bọn này nhận ra mình nên chặn đường gây sự để trả mối
thù xưa. Sau một thoáng bỡ ngỡ, Văn Hiến tươi cười nói:

- Chào Đồng huynh!
Cảm ơn, tôi vẫn khỏe. Vị này chắc là Thừa Ân huynh phải không? Xin chào! Thật tình
cờ chúng ta lại gặp nhau ở đây. Đây là chú Hữu Dụng, chắc các người biết nhau chứ?

Đồng Bách đáp:

- Biết chứ, biết
chứ! Thương thuyền Cao gia tới lui ở đây mấy mươi năm, người của Cao gia ai lại
chẳng biết. Chú mạnh giỏi chứ chú Dụng?

Hữu Dụng cười
đáp:

- Vẫn khỏe, cảm
ơn Đồng huynh đệ.

Đồng Bách hỏi:

- Ngài thủ Hiến
đi cùng với đoàn thuyền của Cao gia vào Giản Phố công cán hay chỉ là du ngoạn đó
đây cho biết phong vật miền Nam?

Văn Hiến đáp:

- Nghe thiên
hạ nói Giản Phố là nơi đất vàng, nước bạc, trù phú vô cùng nên tôi muốn vào thăm
cho biết.

Đồng Bách cười
nói:

- Như vậy thì
thật là may! Chúng tôi cứ tưởng thủ Hiến vào đây theo dõi việc làm ăn của chúng
tôi. Đồng Bách tôi vừa nghe được tin ngài thủ Hiến chỉ trong vài chiêu đã phế bỏ
được võ công của Vô Tình công tử thì lấy làm khâm phục lắm. Cái tên Diệu Thủ Thư
Sinh giờ đã vang dội khắp nơi rồi. Tôi thật hâm mộ vô cùng.

Văn Hiến nghe
cách nói có vẻ châm chọc và cay cú của Đồng Bách thì biết hắn đang tìm cách gây
sự nên vội nói:

- Đồng huynh
quá lời rồi. Đồng huynh chặn đường chỉ để nói chuyện này hay còn việc gì khác nữa
không?

- Hôm trước thất
thủ dưới tay thủ Hiến, Đồng Bách tôi thật tâm phục khẩu phục. Khi nghe kể lại sự
việc, nhị sư ca của tôi rất ngưỡng mộ, muốn được gặp mặt Thủ Hiến một lần. Nay tình
cờ gặp đây, không biết Thủ Hiến có chịu cho một cái hẹn để nhị sư ca tôi có dịp
diện kiến chăng?

- Nhị sư ca của
Đồng huynh là ai?

- Chỉ là một
kẻ vô danh. Anh ấy tên Tạ Tứ.

Văn Hiến suy
nghĩ rất nhanh rồi đáp:

- Đồng huynh
và Tạ huynh đã có lòng, Hiến tôi lẽ nào không đáp lễ? Đồng huynh muốn chúng ta gặp
mặt lúc nào, ở đâu?

- Cảm ơn thủ
Hiến đã nể tình. Đầu tháng chín là lễ kỷ niệm sáu mươi năm xây dựng miếu Quan Đế
và năm năm khai sáng Kim Cương Môn ở Giản Phố, chúng ta gặp nhau ở đó được chăng?

- Được! Tôi sẽ
đến. Chào Đồng huynh, chào Ân huynh.

Đồng Bách và
Thừa Ân đồng thanh nói:

- Chào thủ Hiến,
chào chú Dụng! Hẹn gặp lại!

Văn Hiến và Hữu
Dụng chào hai người rồi tiếp tục thả bộ trở về. Hữu Dụng hỏi:

- Hình như họ
đã biết cậu có mặt ở đây nên tính toán trước. Theo cậu thì tại sao họ không âm thầm
ra tay mà lại hẹn thi tài ở miếu Quan Đế, trước mặt đông người?

- Họ không âm
thầm ra tay thanh toán cháu vì họ vẫn nghĩ cháu là người của Hình bộ. Họ làm ăn
lớn khắp nước cho nên không muốn ra mặt hành hung người trong quan chế. Việc họ
chọn ngày lễ kỷ niệm thành lập đền và khai sáng Kim Cương Môn để thách đấu thì theo
ý cháu, có lẽ họ muốn nhân cơ hội này tỏ rõ cho mọi người biết tài nghệ của Kim
Cương Môn – những con cháu Hán tộc của đức Quan Đế.

- Vì sao?

- Họ bắt đầu
giai đoạn chuyển từ sức mạnh tiền bạc sang vũ lực. Họ muốn đánh bại cháu trước mặt
mọi người để vừa trả thù chuyện hôm trước, vừa thị uy thiên hạ.

- Có nghĩa là
họ nhất định phải thắng? Cậu thấy thế nào?

- Trước sau gì
cũng sẽ đụng nhau. Cứ thử cho biết họ có đủ ba đầu sáu tay hay không.

- Nói hay lắm!
Tôi thật phục cậu về sự bình tĩnh, tự tin và gan dạ. Đó là ba yếu tố rất cần thiết
cho một cuộc tỉ thí. Nó quyết định ba mươi phần trăm chiến thắng, còn lại là tài
năng.

- Cảm ơn sự khích
lệ của chú. Sắp tới sẽ còn nhiều chuyện gay go, hung hiểm lắm, không chừng mất mạng
như chơi. Khi nào đoàn của chú trở về lại Quy Nhơn?

- Định cuối tháng
này, nhưng tôi sẽ nấn ná vài hôm chờ xem cuộc vui này đã.

- Vui thì có
vui đấy nhưng coi chừng chú phải thất vọng.

- Thắng bại là
chuyện thường, cậu không phải lo.

Văn Hiến về đến
Trần gia thì thấy Đại Kỳ và Hồng Liệt đang ngồi uống rượu trong ngôi đình nhỏ bên
góc phải trước trang viện. Hồng Liệt hỏi:

- Ngươi đi uống
rượu với chú Dụng à?

- Ừ! Hai người
chưa nghỉ sao?

Đại Kỳ đáp:

- Chúng tôi có
chút chuyện của môn phái phải bàn với nhau nên còn ngồi đây. Nhân tiện đợi Trương
huynh về. Trương huynh gây hấn lớn với bọn Diệp Sanh Ký mà đi một mình ở Giản Phố
thì khá là nguy hiểm đấy. Hai người đi uống rượu có gặp rắc rối gì không?

- Có, nhưng cũng
không đến độ.

Hồng Liệt nói
ngay:

- Ngồi xuống
kể nghe đi.

Văn Hiến ngồi
vào bàn. Đại Kỳ rót rượu ra chung, Văn Hiến uống cạn một hơi rồi nói:

- Ta gặp lại
bạch y công chúa.

- Vậy sao? Nàng
có tát cho ngươi vài cái tát nảy lửa nữa không?

- Không! Trái
lại.

- Trái lại là
sao?

- Trái lại là
nàng mời ta uống rượu và cảm ơn ta.

Hồng Liệt háo
hức giục:

- Kể đầu đuôi
nghe đi.

Văn Hiến bèn
kể lại cuộc gặp gỡ vừa rồi. Đại Kỳ cười nói:

- Trương huynh
thật tốt số đào hoa. Đã có thể biến một nàng công chúa kiêu kỳ băng tuyết thành
một cô gái thùy mị đa tình.

Văn Hiến cười
nói:

- Trần huynh
quá lời rồi. Chỉ là bèo nước gặp nhau, nhân cảnh trăng nước hữu tình nên tâm tình
cởi mở một chút mà thôi, sao lại gán cho hai chữ đào hoa vào đó.

Hồng Liệt hỏi:

- Ngươi có nghĩ
là nàng đang dùng mỹ nhân kế để tìm hiểu xem vì sao ngươi ba lần bốn lượt nhúng
mũi vào chuyện làm ăn của Diệp Sanh Ký không?

Văn Hiến rót
thêm rượu vào các chung:

- Lúc đầu ta
cũng có ý nghĩ giống như ngươi vậy nhưng về sau ta thấy không đúng. Dường như nàng
có một nỗi khổ riêng nào đó không thể giải tỏa được nên tâm tình mới không được
bình ổn.

- Thật ư? Theo
ngươi đó là chuyện gì?

- Ta làm sao
biết được. Tuy nhiên ta nghĩ nỗi khổ tâm của nàng có liên quan đến Trần Viên Viên.

- Nàng nói mong
còn gặp lại, ngươi có định gặp lại nàng không?

- Ta không biết.
Sắp tới còn một việc khác lớn hơn cần phải lo.

Đại Kỳ hỏi:

- Việc lớn gì?

- Trên đường
về tôi gặp lại Đồng Bách và Lại Thừa Ân. Họ nói nhị sư huynh của họ là Tạ Tứ muốn
gặp tôi nên hẹn vào ngày lễ kỷ niệm sáu mươi năm khánh thành miếu Quan Đế và năm
năm thành lập Kim Cương Môn ở Giản Phố để tỉ thí với nhau.

Hồng Liệt nóng
nảy hỏi:

- Rồi ngươi nhận
lời?

- Ngươi bảo ta
từ chối à?

Đại Kỳ nói:

- Họ kỷ niệm
ngày thành lập Kim Cương Môn mà hẹn gặp Trương huynh là họ có ý đả bại huynh để
thị uy với thiên hạ đấy.

Văn Hiến gật
đầu:

- Tôi biết!

Đại Kỳ nói tiếp:

- Tạ Tam và Tạ
Tứ là hai đại đệ tử của Phùng Đạo Đức. Họ được chân truyền của Nam Thiếu Lâm, Trương
huynh cần phải cẩn thận lắm mới được.

- Thì cứ tận
sức mình. Nếu thua thì cũng là do công phu của mình còn kém người.

- Tôi tin bọn
họ sẽ cho mời tất cả những nhân vật có vai vế ở Giản Phố đến dự. Tôi phải bàn với
Trần An Hảo xem sắp tới chúng ta nên làm gì.

Hồng Liệt hỏi:

- Trần An Hảo
là ai?

- Là con út của
phó tướng Trần An Bình, người đã sang Đại Việt cùng với Trần Thượng Công. Ông ta
kể như là người có uy tín nhất trong số những con cháu của những người có công khai
sáng Giản Phố này đấy.

- Đúng là sư
huynh nên kêu gọi họ đoàn kết lại thành một khối thì mới mong đủ lực chống chọi
lại với bọn Diệp Sanh Ký.

- Được. Ngày
mai, sau khi làm lễ cho bọn đệ tử ra mắt nhị sư thúc, tôi sẽ đi lo việc ấy.

Hồng Liệt chợt
nói:

- À, đồ gàn.
Lúc nãy sư huynh và Bạch muội cùng đồng ý việc đưa bọn trẻ vào đây sống, ngươi nghĩ
sao?

Văn Hiến đáp:

- Đưa chúng vào
đây thì tốt rồi nhưng có lẽ nên chờ xem diễn tiến tình hình ở đây biến động như
thế nào đã. Tránh nguy hiểm cho bọn nhỏ.

- Ta cũng đã
nói với Bạch muội như thế.

Đại Kỳ nói:

- Đã vậy thì
hãy đợi thêm một thời gian nữa.

***

Hôm sau trong
khi Đại Kỳ và những người được coi là đối lập với Kim Cương Môn họp bàn cách thống
nhất lực lượng để đối phó bọn Diệp Sanh Ký, Văn Hiến rủ Hồng Liệt và Bạch Mai đi
thăm chùa Long Thiền gần núi Châu Thới. Họ dùng ngựa ra đi từ sáng sớm, dạo qua
vùng thủ phủ Trấn Biên lần nữa rồi theo quan lộ dọc sông Đồng Nai đi về hướng tây
bắc.

Văn Hiến bỗng
hỏi Bạch Mai:

- Nghe nói ở
Trấn Biên có một ngôi Văn Miếu, Bạch muội biết nó ở đâu không?

Bạch Mai đáp:

- Nhà Văn Miếu
nằm rất gần chùa Long Thiền, tại núi Long Sơn. Đó là nơi có ngôi trường rất lớn
để cho mọi người ở Trấn Biên này đến học. Ca ca của muội cũng từng là môn sinh ở
đó. Nếu Trương huynh muốn, chúng ta có thể đến thăm Văn Miếu trước rồi sang chùa
Long Thiền sau cũng được.

- Vậy chúng ta
đến đó thăm trước đi.

Bạch Mai cho
ngựa rẽ sang con đường nhỏ, đi chừng dặm rưỡi đã có thể thấy thấp thoáng nóc ngôi
Văn Miếu với mái cong ẩn hiện sau rừng cây xanh. Ngôi Văn Miếu được xây dựng vào
ba mươi năm trước theo lối kiến trúc mang màu sắc Trung Hoa dùng để thờ Đức Khổng
Tử. Bên cạnh là một ngôi nhà lớn làm trường học cho sĩ tử cả vùng Trấn Biên. Văn
Hiến vốn là con của một nhà nho, sư phụ chàng cũng là một vị nho hiệp nên đối với
Đức Khổng Tử chàng luôn có sự kính trọng đặc biệt. Sau khi thắp hương cho vị Vạn
Thế Sư Biểu, chàng gặp người quản sự ở miếu để hỏi thăm về tình hình sinh hoạt ở
đây. Người quản sự nói:

- Ngôi Văn Miếu
này là do Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan trấn thủ Nguyễn Phan Long và quan ký lục
Phạm Khánh Đức xây dựng vào năm Minh Vương thứ mười sáu (năm 1715) để cổ xúy và
phát huy nền Nho học cho cả miền Nam.

- Sĩ tử ở đây
có đông không, thưa chú?

- Sĩ tử khắp
Trấn Biên về đây học rất đông. Đa phần là con cháu các quan địa phương và con cháu
những nhà giàu có ở miền này. Hôm nay nhằm ngày trường đóng cửa nên vắng vẻ như
thế đó. Ba vị từ xa đến à?

- Dạ vâng! Bọn
cháu ở tận ngoài Thuận – Quảng.

- Ồ! Như vậy
thì các vị gần đất kinh kỳ rồi. Nhà Văn Miếu ở Phú Xuân hẳn là lớn và khang trang
hơn ở đây rất nhiều phải không?

- Dạ không ạ.
Phú Xuân tuy là đất kinh đô nhưng lại chưa chính thức lập nhà Văn Miếu.

Người quản sự
ngạc nhiên thốt lên:

- Thế à? Thế
mới biết Chúa Minh thời đó đã rất coi trọng việc mở mang nền Nho học ở miền Nam
này.

- Dạ. Có lẽ Chúa
thấy vùng thương cảng Giản Phố trù phú này đã quy tụ được nghiều người Hoa đến sinh
sống.

- Theo công tử
thì tại sao ở Phú Xuân đến nay vẫn chưa chính thức lập nhà Văn Miếu?

- Theo cháu nghĩ
có lẽ do ảnh hưởng quá lớn của Phật giáo trong phủ Chúa. Tuy Chúa Minh cổ xúy việc
“Tam Giáo Đồng Lưu” nhưng dù sao hiện nay Phật giáo vẫn là Quốc giáo của chúng ta.

Người quản sự
sau đó hướng dẫn ba người bọn họ đi thăm quang cảnh Văn Miếu. Ông chỉ tay về dòng
sông Đồng Nai uốn lượn ở phía Nam giải thích:

- Vùng đất Văn
Miếu này và ngôi chùa Long Thiền phía bên kia hồ Long Vân (còn gọi là hồ Long Ẩn)
đều có địa thế rất tốt. Trước mặt cả hai đều có dòng Đồng Nai uốn lượn, quanh năm
nước lai láng chảy. Ngôi Văn Miếu thì phía sau có núi Long Sơn làm chỗ dựa, còn
chùa Long Thiền có núi Châu Thới làm hậu sơn trải dài như long mạch. Hồ Long Vân
như miệng rồng còn ngọn Bửu Long bên kia ví như trái châu vậy.

Văn Hiến nghe
người quản sự giải thích cảm khái nói:

- Chọn nơi này
để xây Văn Miếu và chùa thật là hợp lý. Với thế đất này, hẳn miền Nam sau rồi sẽ
phát triển rất tốt, nhân tài sản sinh rất nhiều. Đất đai phì nhiêu, kinh thương
phồn thịnh, nhân tài đông đảo. Miền Nam sẽ là chỗ dựa cho cả nước, cháu nói có đúng
không chú?

- Nhận xét của
công tử rất giống với một vị túc nho, bạn của thầy Phật Chiếu trụ trì chùa Long
Thiền.

- Có lẽ vì sự
thật hiển nhiên như thế nên ý mọi người đều giống nhau. Vị túc nho đó danh tự là
gì, thưa chú?

- Ông ta chỉ
mỉm cười khi tôi hỏi đến danh tánh. Ông nói, ông là người thích ngao du đây đó không
muốn lưu tên họ với đời.

Văn Hiến nghe
người quản sự nói thì liên tưởng ngay đến thầy mình. Thầy chàng lúc nào cũng dùng
câu nói này để trả lời mỗi khi chàng hỏi đến tên người. Chàng vừa mừng vừa hồi hộp
hỏi nhanh:

- Vị túc nho
ấy đến đây lúc nào? Chú có thể mô tả hình dáng của ông ta cho cháu biết được không?

Quản sự thấy
thái độ của Văn Hiến, lấy làm lạ hỏi:

- Công tử biết
vị túc nho ấy à? Ông ta đến đây cùng thầy Phật Chiếu vào ngày vía đức Phu Tử, hai
mươi tám tháng tám năm ngoái.

Văn Hiến bồn
chồn hỏi:

- Tận năm ngoái
à? Gần đây người ấy không ghé nữa sao chú?

- Không thấy.
Đó là một người có dáng dấp hết sức phong trần, tiêu sái. Tóc trắng, chòm râu bạc
dài đến ngực, trán tròn thông thái. Nơi dái tai phải có...

Văn Hiến nói
ngay:

- Có một nốt
ruồi son lớn. Đúng không chú?

Quản sự ngạc
nhiên:

- Đúng rồi! Sao
công tử biết?

Văn Hiến rươm
rướm nước mắt:

- Người là sư
phụ của cháu. Tám năm nay người lãng tích thiên nhai, cháu chưa hề gặp lại mặt người.

Bạch Mai reo
lên:

- Vậy sao? Chúng
ta thử sang chùa Long Thiền hỏi thăm xem. Biết đâu sư phụ Trương huynh còn ở lại
đó, hay ít nhất thầy Phật Chiếu cũng sẽ cho biết chút tin tức của người.

Quản sự nói:

- Đúng đó! Vài
hôm nữa là ngày lễ vía đức Phu Tử. Có khi ông ta đang có mặt bên chùa để cùng với
thầy Phật Chiếu sang dự lễ năm nay nữa không chừng.

Văn Hiến vội
nói:

- Cảm ơn chú!
Bọn cháu phải sang bên chùa ngay. Ngày lễ vía cháu sẽ trở lại thăm chú.

- Các vị cứ tự
nhiên.

Ba người từ giã
viên quản sự Văn Miếu rồi lập tức lên ngựa phóng nhanh đến chùa Long Thiền. Họ đi
vòng theo hồ nước Long Ẩn chừng nửa dặm thì đến nơi. Ba người cột ngựa rồi vào bên
trong khuôn viên. Ngôi chùa không lớn lắm, xây dựng đơn sơ, vách ván, cột gỗ và
mái lá nhưng quang cảnh thật thanh tịnh trang nghiêm. Họ vào Phật đường thắp nhang,
Bạch Mai lấy ra một thoi vàng khá lớn bỏ vào thùng công đức. Một nhà sư trẻ lo việc
tiếp khách thấy vậy chắp tay vái:

- Mô Phật, tiểu
tăng xin thay mặt nhà chùa cảm ơn chư vị thí chủ đã viếng tự và cúng dường. Sư phụ
chúng tôi đang có ý định trùng tu lại chùa cho khang trang và rộng rãi hơn để đáp
ứng nhu cầu của thiện nam, tín nữ về lễ Phật ngày càng đông.

Bạch Mai chắp
tay vái:

- Dạ, chỉ là
chút lòng thành kính Phật để chùa hương khói thôi ạ. Khi nào thì chùa khởi công
trùng tu ạ?

- Sư phụ dự tính
quyên góp đủ kinh phí lúc nào thì sẽ tiến hành ngay lúc ấy. Có lẽ năm tới.

- Đệ tử không
mang theo bên mình nhưng Trần gia của đệ tử xin góp năm trăm lạng vàng ròng để xây
dựng chùa. Vài hôm nữa đệ tử sẽ mang đến.

Nhà sư trẻ mừng
rỡ:

- Thật là quí
hóa quá! Xin Đức Phật từ bi phù hộ cho Trần gia cô nương một nhà duyên phước tròn
đầy. Mời các vị thí chủ vào trong, bần tăng sẽ thông báo với sư phụ về phúc duyên
này.

Nói xong nhà
sư đi trước đưa ba người sang phòng tri khách bên hông Phật đường.

- Mời ba vị thí
chủ ngồi uống nước. Bần tăng đi mời sư phụ.

Nhà sư vào trong
hậu đường, một lát sau đã thấy một vị hòa thượng tuổi ngoài sáu mươi, nét mặt từ
bi như một vị Bồ tát bước vào. Ba người vội đứng lên vái chào. Vị sư già chắp tay
nói:

- A Di Đà Phật!
Bổn chùa thật hân hạnh đón tiếp ba vị thí chủ quang lâm. Nghe Từ Huệ nói lại Phật
tâm phát nguyện cúng dường của ba vị thí chủ, bần đạo xin thay mặt bổn đạo khắp
nơi cảm tạ ơn đức. Cầu đức Phật từ bi phù hộ cho ba vị được nhiều duyên lành.

Bạch Mai chắp
tay vái:

- Mô Phật, xin
thầy đừng bận tâm. Chỉ là một chút công quả dâng chùa mà thôi. Ngày mai tiểu nữ
sẽ mang đến.

- Đa tạ phật
tâm của nữ thí chủ. Trần gia của nữ thí chủ có phải là...

- Dạ, Trần gia
của con là hậu nhân của Trần Thượng Công ạ.

Thiền sư nở nụ
cười hiền từ:

- Ra là thế!
Ngày xưa Trần mẫu vẫn khuyên bần đạo trùng tu chùa lại, người sẽ chu cấp kinh phí.
Việc chưa kịp tiến hành thì tai họa đã giáng xuống cho Trần gia nên thôi. Từ khi
Trần mẫu trở về Hà Tiên đến nay phúc thể có được an khang không?

- Dạ, cảm ơn
sư phụ hỏi thăm. Bá
mẫu vẫn an khang.

Thiền sư nhìn qua ba người một lượt rồi hỏi:

- Xin hỏi quí danh tánh của ba thí chủ?

Bạch Mai đáp:

- Vị này Trương Văn Hiến, còn vị này là Đinh
Hồng Liệt. Tiểu nữ Trần Bạch Mai.

Thiền sư chắp tay nói:

- Nhà chùa hân hạnh đón tiếp ba vị thí chủ
quang lâm.

Hồng Liệt chợt lên tiếng hỏi:

- Bạch thầy, Trần gia một đời ra sức giúp
Chúa mở mang vùng đất hoang này thành một nơi trù phú, có thể nói công đức hết sức
cao dày. Họ lại có nhiều thiện tâm cúng dường tam bảo mà lại gặp tai kiếp lớn như
vậy là do đâu?

Phật Chiếu nhìn Hồng Liệt niệm Phật hiệu
rồi đáp:

- A Di Đà Phật! Thí chủ hỏi một câu rất hay.
Công đức tạo ra ở kiếp này sẽ để lại thiện nghiệp cho kiếp sau. Còn tai họa gặp
phải ở kiếp này là do ác nghiệp mình đã tạo ra ở kiếp trước. Đó là nhân quả tuần
hoàn mà Phật tổ đã dạy.

Hồng Liệt sinh ra vốn là đứa trẻ mồ côi khốn
khó nên kiến thức của chàng rất ít. Mấy chữ nhân quả tuần hoàn, kiếp sau kiếp trước,
chàng nghe thiên hạ nói đi nói lại nhiều lần nhưng vẫn mù tịt không biết là gì nên
hỏi tiếp:

- Xin thầy giảng rõ hơn về kiếp trước và
kiếp sau. Con thấy con người chết đi thân xác hóa thành cát bụi, cả xương khô rồi
cũng thành đất, có để lại gì đâu mà nói có tiền kiếp hậu kiếp, báo ứng tuần hoàn?

- Thân xác của chúng sinh chỉ là sự kết hợp
của đất, nước, gió, lửa. Phật gọi đó là thân tứ đại. Tứ đại nhờ đủ duyên nên kết
hợp lại thành thân xác chúng sinh. Nhưng vạn vật đều ở trong quy luật “thành, trụ,
hoại, không”, với sinh vật thì “sinh, lão, bệnh, tử”. Tứ đại nhờ đủ duyên nên thành,
đó là sinh. Sinh rồi sẽ trưởng, rồi lão, đó là trụ. Trụ rồi thì sẽ bệnh, rồi tử,
đó là hoại. Hoại là trở về với tứ đại, về không.

- Đã về không tức là hết, sao còn có quả
báo tuần hoàn đến kiếp sau?

- Nói không là nói về thân. Con người là sự kết hợp của
thân và tâm. Thân tứ đại về không nhưng cái tâm thì còn tồn tại. Tâm này chính là
luồng năng lượng gọi là nghiệp lực, bao gồm thiện nghiệp lực và ác nghiệp lực, trôi
chảy từ kiếp này sang kiếp khác. Người nào trong cuộc sống hiện tại tạo nhiều ác
nghiệp thì khi chết đi, luồng nghiệp lực sẽ trì trệ, kiếp lai sinh sẽ gặp nhiều
ác báo, trầm luân, trôi chảy mãi trong sinh tử luân hồi. Người nào hiện kiếp biết
tu tâm, hành thiện thì dòng nghiệp lực sẽ nhẹ nhàng thanh thoát, kiếp lai sinh sẽ
hưởng nhiều phúc lành. Những ai có thể xóa bỏ hết ác nghiệp thì được giải thoát
khỏi luân hồi, về nơi cực lạc. Đó là cõi Niết Bàn.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3