Những đứa con của nửa đêm - Phần III - Chương 26 - Phần 1
Chương 26: Sam
và con Cọp
Đôi
khi, núi non phải đổi dời để cố nhân được tái ngộ. Ngày 15
tháng Chín năm 1971, tại thủ đô của nước Bangladesh vừa giải phóng,
tiger (Cọp) Niazi đã đầu hàng ông bạn cố tri Sam
Manekshaw; trong khi tôi, về phần mình, tự nộp mình vào vòng tay
một cô gái có cặp mắt tròn xoe, mái tóc đuôi ngựa như
một sợi thừng đen bóng, và đôi môi ngày ấy còn chưa
có cái dáng bĩu ra đặc trưng của sau này. Hai cuộc tái ngộ này không
đến một cách dễ dàng; và để tỏ lòng kính trọng đến tất
cả những ai đã biến chúng thành sự thật, tôi sẽ tạm dừng câu chuyện,
trong giây lát, nhằm làm rõ những tại sao và những vì đâu.
Vậy
thì, hãy cho phép tôi được tuyệt đối minh xác: nếu Yahya Khan
và Z.A. Bhutto không đồng mưu thực hiện cuộc chính biến ngày 25 tháng
Ba, tôi đã không được mặc thường phục bay tới Dacca; và, trong
mọi tình huống, Tướng Tiger Niazi cũng sẽ không có mặt tại đây vào
tháng Mười hai. Để tiếp tục: việc Ấn Độ can thiệp vào xung
đột ở Bangladesh cũng là kết quả của sự tương tác giữa
những thế lực lớn lao. Có lẽ, nếu mười triệu người không vượt
biên sang Ấn Độ, buộc nhà cầm quyền Delhi phải
chi phí 200.000.000$ một tháng cho các trại tị
nạn - cuộc chiến năm 1965, mà mục đích bí mật là
tận diệt gia đình tôi, đã chỉ tiêu tốn của họ 70.000.000$! - các
binh sĩ Ấn Độ, dưới sự chỉ huy của Tướng Sam, sẽ chẳng bao
giờ vượt qua biên giới theo chiều ngược lại. Nhưng Ấn
Độ đến còn vì nhiều động cơ khác: bởi tôi sắp được biết, từ các
ảo thuật gia Cộng sản sinh sống dưới bóng Thánh đường Thứ
Sáu ở Delhi, giới sarkar[1] tại Delhi hết sức
quan ngại về ảnh hưởng đang suy giảm của Liên
đoàn Awami củaMujib cũng như việc phong trào Mukti Bahini
ngày càng lan rộng; Sam và con Cọp gặp nhau ở Dacca là
để ngăn chặn Bahini gia tăng quyền lực. Vì thế nên, nếu không
nhờ Mukti Bahini, có lẽ Parvati-phù-thủy cũng chẳng bao giờ tháp tùng quân Ấn
trong chiến dịch “giải phóng” của họ... Nhưng đấy cũng chưa phải là một
lời giải thích đầy đủ. Một nguyên nhân thứ ba buộc Ấn Độ phải can thiệp là do
lo sợ tình trạng hỗn loạn ở Bangladesh, nếu
không được khống chế kịp thời, sẽ lan rộng qua biên giới sang
Tây Bengal; cho nên Sam và con Cọp, cũng như Parvati và tôi, phải mang ơn,
ít ra là một phần, những yếu tố bất ổn của tình hình chính
trị Tây Bengal vềcuộc hội ngộ của chúng tôi: thất bại của con Cọp chỉ
là sự mở đầu của một chiến dịch chống lại cánh
Tả ở Calcutta và căn cứ địa của phe này.
[1] Tiếng Urdu, có
nghĩa là người có quyền lực, địa vị.
Dù
sao đi nữa, Ấn Độ đã đến; và sự thần tốc của cuộc hành quân này - bởi vì chỉ
trong có ba tuần Pakistan đã mất một nửa hải quân, một phần ba lục
quân, một phần tư không quân, và cuối cùng, sau khi con Cọp đầu hàng, hơn một
nửa dân số của mình - một lần nữa lại có phần công sức của Mukti
Bahini; bởi vì, có lẽ do ngây thơ, không nhận ra rằng việc Ấn Độ xuất quân vừa
nhằm tấn công lực lượng chiếm đóng của Cánh Tây vừa là một
nước cờ chiến thuật chống lại chính họ, quân Bahini đã mách nước cho
Tướng Manekshaw về cách hành binh của quân Pakistan, về các
điểm mạnh và điểm yếu của con Cọp; và cả đóng góp của Ngài Chu Ân Lai,
người đã từ chối (bất chấp sự van nài của Bhutto) cung cấp bất
kỳ khoản viện trợ vật chất nào cho Pakistan trong cuộc chiến. Bị
khước từ vũ khí Trung Quốc, Pakistan chiến đấu bằng súng Mỹ, xe tăng và
máy bay Mỹ; Tổng thống Hoa Kỳ, một mình trên cả thế giới, quyết tâm
“ngả” về phía Pakistan. Trong khi Henry A. Kissinger tranh cãi
về trường hợp của Yahya Khan, chính ngài Yahya này đang bí mật thu xếp
chuyến thăm nhà nước nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ đến Trung Quốc...
thế nghĩa là có những thế lực ghê gớm đang vận động chống
lại cuộc tái hợp của tôi với Parvati và Sam với con Cọp; nhưng bất chấp ngài
Tổng thống ngả nghiêng, chỉ còn vỏn vẹn ba tuần nữa thôi tất cả sẽ kết thúc.
Vào
đêm 14 tháng Mười hai, Shaheed Dar và Buddha đi vòng quanh khu
vực ngoại vi của thành Dacca đang bị vây hãm; nhưng cái mũi của
Buddha (quý vị chắc vẫn chưa quên) có khả năng đánh hơi vượt trội.
Dưới sự chỉ dẫn của cái mũi có thể ngửi thấy an toàn và nguy hiểm, họ
tìm được đường xuyên qua vòng vây của quân Ấn và tiến vào thành
phố dưới sự yểm trợ của bóng tối. Trong khi họ lẩn lút đi
qua những con phố không một bóng người ngoại trừ vài kẻ ăn
xin chết đói, con Cọp thề sẽ chiến đấu đến người cuối cùng;
nhưng hôm sau, ông ta lại đầu hàng. Điều chẳng ai biết: không
rõ người cuối cùng này có cảm cái ơn tha mạng hay lại hậm hực
vì lỡ mất cơ hội được vào vườn long não.
Thế
là tôi đã trở lại cái thành phố nơi, trong những giờ phút
cuối cùng trước những cuộc hội ngộ, Shaheed và tôi đã chứng kiến
những điều không phải là thật, không thể là
thật, vì các chàng trai của chúng ta không thể nào chẳng
thểnào hành động đồi bại đến thế; chúng tôi nhìn thấy những người đàn
ông đeo kính, đầu hình trứng[2] bị bắn trong các
ngõ phố, chúng tôi chứng kiến giới trí thức của thành phổ bị thảm sát
hàng trăm người một, nhưng chuyện ấy không có thật bởi
vì nó không thể là thật, con Cọp, nói cho cùng, là một tay
quân tử, trong khi các jawan của chúng ta đều
đáng mười tên babu, chúng tôi đi giữa ảo cảnh hoang đường này
của đêm, nấp sau những ô cửa khi lửa nở bừng như những vườn hoa, làm
tôi nhớ lại cái cách con Khỉ Đồng thường châm lửa đốt giày
đểtìm kiếm sự chú ý, có những người bị cắt cổ và vùi dưới
những nấm mồ không bia, và Shaheed
bắt đầu, “Không, Buddha - kinh khủng quá, allah, em không
thế tin vào mắt mình - không, không phải thế, làm
sao có thể - Buddha, anh nóiđi, cái gì đã lọt vào mắt em
thế này?” Và sau cùng Buddha lên tiếng, biết rằng Shaheed không nghe được:
“Ôi, Shaheeda,” gã nói, thể hiện một sự chán
ghét sâu xa, “con người đôi khi phải chọn cái mình thấy và cái
mình không thấy; quay mặt đi, quay mặt đi đừng nhìn
nữa.”Nhưng giờ Shaheed đang trân trối nhìn một maidan[3] nơi các
nữ bác sĩ bị đâm bằng lưỡi lê trước khi bị hiếp, rồi bị hiếp
lần nữa trước khi bị bắn. Trên đầu họ và sau lưng họ,
ngọn tháp trắng lạnh của một thánh đường mù lòa nhìn xuống cảnh
tượng ấy.
[2]
Egghead (đầu trứng) là một từ lóng chỉ giới tri thức. Rushdie rất
thích dùng chữ này (xem thêm Haroun và Biển truyện, Nhã
Nam và NXB Văn học liên kết xuất bản năm 2010).
[3] Tiếng
Urdu, nghĩa là quảng trường.
Như
thể cự nói với mình, Buddha lẩm bẩm, “Cái cần nhất lúc này
là tìm cách bảo toàn tính mạng; Chúa mới biết vì sao chúng
ta quay lại.” Gã bước qua ngưỡng cửa một ngôi
nhà bỏ hoang – lớp vỏ vỡ nát, bong tróc của một kiến
trúc đồ sộ từng chứa một quán trà, một một tiệm sửa xe
đạp, một nhà chứa và một chiếu nghỉ bé tí chắc hẳn từng là chỗ ngồi của
một công chứng viên, vì vẫn còn đó chiếc bàn thấp nơi bác ta đã vứt lại một cặp
kính nửa tròng, còn đó những con dấu và xấp tem đã một thời cho phép bác
không chỉ là một ông già vô danh - tem và dấu biến bác thành trọng tài
phân định cái gì là thật và cái gì không. Người công chứng viên vắng mặt,
vì thế tôi không thể yêu cầu bác chứng thực những gì đã xảy ra,
tôi không thể đưa ra một lời khai có tuyên thệ; nhưng trên manh chiếu phía
sau cái bàn của bác là một chiếc áo rộng và suôn như một
tấm djellabah, và không chần chừ gì nữa tôi trút bỏ quân phục,
kể cả phù hiệu chó cái của đội CUTIA, và biến thành một người vô
danh, một kẻ đào ngũ, giữa một thành phố mà ngôn ngữ của nó tôi không hề biết.
Shaheed
Dar, tuy vậy, vẫn đứng ngoài phố; dưới tia sáng ban mai đầu tiên, gã chứng kiến
quân lính lẩn lút rút khỏi những-điều-chưa-hề-xảy-ra; và rồi quả lựu đạn
bay đến. Tôi, Buddha, vẫn ở trong ngôi nhà trống; nhưng
Shaheed thì không có được sự bảo vệ của những bức tường.
Khó
mà biết tại sao thế nào do ai; nhưng có điều chắc chắn là quả lựu đạn đã
được ném ra. Vào khoảnh khắc sau cùng của sinh mệnh chưa-bị-xẻ-đôi của gã,
Shaheed đột nhiên không thể cưỡng nổi cơn thôi thúc phải nhìn lên... sau
đó,ở chuồng bồ câu của người muezzin, gã bảo Buddha, “Lạ
lắm, Allah - quả lựu ấy - trong đầu em, cứ như thế, chưa bao giờ
nó to và sáng thế -anh biết đấy, Buddha, như một cái bóng
đèn -Allah, em biết làm gì, chỉ biết nhìn thôi!” - Và đúng thế,
nó đấy, lơ lửng trên đầu gã, quả lựu đạn trong giấc mơ của gã, lơ lửng ngay
trên đầu gã, rồi rơi rơi, phát nổ ngang lưng gã, thổi bay đôi chân
gã đốn một phần nào đó của thành phố.
Khi
tôi chạy đến, Shaheed vẫn còn tỉnh, dù bị cắt đôi người, và
chỉ tay, “Đưa em lên đó, Buddha, em muốn lên em
muốn,” thế nên tôi mang thứ giờ đây chỉ còn là một nửa gã trai
(và do vậy khá nhẹ) theo cây cầu thang xoắn ốc hẹp leo
lên đỉnh ngọn tháp trắng lạnh, nơi Shaheed lảm nhảm về những
bóng đèn trong lúc hai đàn kiến đen và kiến đỏ đánh nhau giành một con gián
chết, giao tranh dữ dội dọc theo những rãnh nhỏ trên sàn bê tông trát dối bằng
bay. Bên dưới, giữa những ngôi nhà cháy đen, kính vỡ và khói mù, những con
người nhỏ như kiến đang ló ra, chuẩn bị cho hòa bình; tuy
nhiên, bầy kiến, phớt lờ những kẻ-giống-kiến, tiếp tục chiến
đấu. Và Buddha: gã đứng yên ánh mắt mờ đục
nhìn xuống chung quanh, đặt mình vào vị trí giữa nửa người trên của Shaheed và
món đồ vật duy nhất trong cái tổ chim này: một cái bàn
thấp ở trên đặt một chiếc máy quay đĩa nối với loa phóng
thanh. Buddha, đứng chắn cho người bạn đồng
hành còn một nửa khỏi vỡ mộng vì nhìn thấy vị muezzin cơ
khí hóa này (chủ nhân của một tiếng gọi cầu
nguyện sẽ luôn bị vấp ở những chỗ giống nhau), rút
trong vạt áo choàng lùng thùng ra một vật lấp lánh, rồi hướng ánh
nhìn mờ đục của gã vào cái ống nhổ bạc.
Chìm trong dòng suy tưởng, gã giật mình khi tiếng thét vang
lên; ngẩng nhìn và thấy một con gián bị vứt bỏ.
(Máu đã rỉ theo những rãnh bê tông; bầy
kiến, lần theo vệt sẫm màu sền sệt này, đã tìm đến nguồn chất
lỏng đang ứa ra, và Shaheed đã bày tỏ sự
phẫn nộ khi trở thành nạn nhân của không chỉ một, mà hai cuộc
chiến tranh.)
Chạy
đến giải cứu, đôi chân nhảy múa trên bầy kiến, Buddha vô tình huých
khuỷu tay vào một cái công tắc; hệ thống loa được bật lên, và kể từ đó
người dân Dacca sẽ không bao giờ quên chuyện một thánh đường đã rú
lên nỗi đau đớn hãi hùng của chiến tranh.
Sau
một lúc, im lặng. Đầu Shaheed gục về phía trước. Còn Buddha, sợ bị
phát hiện, liền giấu cái ống nhổ đi và leo xuống
thành phố khi Quân đội Ấn Độ tiến vào; bỏ lại Shaheed, người đã không
còn lấy thế làm phiền, để giúp vui cho bữa tiệc hòa giải của loài kiến, tôi hòa
mình vào phố phường buổi sớm để chào đón Tướng Sam.
Lúc ở trên
tháp, tôi nhìn cái ống nhổ bằng ánh mắt mờ đục; nhưng tâm trí của Buddha khi
đấy không trống rỗng. Nó chứa đựng ba chữ, mà nửa trên của
Shaheed cũng liên tục nhắc lại, cho tới khi bầy kiến: chính ba
chữ từng, sặc sụa mùi hành, đã làm tôi nức nở trên vai Ayooba Baloch -
cho đến khi con ong, vo ve... “Không công bằng,” Buddha nghĩ,
và rồi, như một đứa trẻ, nhắc đi nhắc lại, “Không công bằng,” hết lần
này đến lần khác.
Shaheed, bằng
việc hoàn thành tâm nguyện thiết tha của người cha,
cuối cùng đã xứng với tên gã; nhưng Buddha thì vẫn không
thể nhớ nổi tên mình.
Buddha đã
tìm lại tên gã ra sao: Ngày xưa, lâu rồi, vào một ngày độc lập khác,
cả thế giới mang màu xanh và nghệ. Sớm nay,
ba màu chủ đạo là xanh, đỏ và vàng. Và các thành phố reo
vang “Jai Bangla!” Và phụ nữ cất lên tiếng hát
“Bengal Hoàng Kim Của Chúng Ta”, làm tim họ mê cuồng một nỗi hân hoan...
tại trung tâm thành phố, trên bục dành cho kẻ chiến bại, tướng Tiger
Niazi chờ đợi Tướng Manekshaw.(Lý lịch trích ngang: Sam là người
Parsee. Ông ta quê ở Bombay. Dân Bombay hôm ấy được một bữa
vui ra trò.) Giữa biển màu xanh và đỏ và vàng, Buddha trong tấm áo choàng vô
danh lùng thùng bị đám đông xô đẩy; thế rồi, Ấn Độ đến. Ấn Độ, dẫn đầu là Sam.
Đây
có phải là ý tưởng của Sam? Thậm chí của Indira? - Né tránh
những câu hỏi vô ích này, tôi chỉ ghi nhận rằng cuộc hành quân của Ấn Độ
vào Dacca vượt xa một cuộc diễu binh thuần túy; để xứng đáng với một
chiến thắng, nó được tô điểm bằng những màn tạp kỹ. Một chiếc quân vận cơ đặc
biệt của I.A.F. đã bay tới Daccamang theo một trăm lẻ một nghệ nhân
tạp kỹ và thuật sĩ xuất sắc nhất mà Ấn Độ có thể sản sinh ra.
Từ ghetto lừng danh của giới ảo thuật Delhihọ đã đến đây,
nhiều người, nhân dịp này, đã khoác lên bộ đồng phục có sức gợi mạnh mẽ của các
fauj Ấn Độ, khiến nhiều người dânDacca nảy sinh suy nghĩ thắng lợi của Ấn
Độ từ đầu đã là tất yếu, bởi ngay các jawan mặc đồng phục của họ
cũng là các pháp sư cao tay ấn nhất. Các nhà ảo thuật và các nghệ nhân khác
diễu hành cạnh đoàn quân, mua vui cho đám đông; có các diễn viên nhào lộn xếp
hình kim tự tháp trên những cỗ xe do bò thiến trắng kéo; những nữ nghệ sĩ uốn
dẻo phi thường có thể nuốt chân mình đến tận đầu gối; những nghệ sĩ tung hứng
biểu diễn vượt khỏi quy luật của trọng lực, khiến đám đông phấn khích mắt
chữ o mồm chữ a khi họ tung hứng lựu đạn đồ chơi, và giữ bốn trăm hai
mươi quả trên không cùng lúc; những tay thần bài có thể rút quân bài nữ hoàng
của chiriya (chúa tể của muôn chim, vương hậu của chất nhép[4]) ra
từ sau tai phụ nữ; có vũ công lừng danh Anarkali, cái tên nghĩa là “hoa lựu”,
biểu diễn những màn bật nhảy uốn éo xoay vòng trên cỗ xe lừa với chiếc khuyên
bạc khổng lồ, kêu leng keng trên lỗ mũi bên phải; có Đại sư Vikram,
nghệ nhân sitar, cây đàn có quyền năng hưởng ứng và phóng đại những cảm
xúc mơ hồ nhất trong tim khán giả, đến nỗi có lần (người ta đồn thế) ông
từng chơi đàn trước một nhóm khán giả đang rất bực bội, và đã kích thích
tâm trạng ức chế ở họ mãnh liệt đến nỗi, nếu người chơi tabla[5] không
ngăn khúc raga của ông lại giữa chừng thì súc mạnh từ tiếng đàn của ông
hẳn đã xui khiến tất cả rút dao đâm nhau và phá
sập cả khán phòng... hôm nay, tiếng đàn của Đại sư Vikram đã
khơi dậy niềm hoan hỉ ăn mừng của người dân tới đỉnh điểm;
nó làm tim họ, ta hãy nói rằng, mê cuồng một nỗi hân hoan.
[4] Ở đây
tức là con Q nhép. Ở miền Bắc Ấn Độ, chất nhép tượng trưng
cho loài chim (chiriya).
[5] Một loại trống
nhỏ trong âm nhạc dân gian Ấn Độ.
Và
có cả Picture Singh bằng xương bằng thịt, một người
khổng lồ cao trên hai mét và nặng một tạ, nổi tiếng là
Người Đàn Ông Dụ Hoặc Nhất Thế Gian
nhờ thuật mê hoặc rắn độc nhất vô nhị. Tài năng của
anh ngay cả những tubriwaliah huyền thoại của Bengal cũng không
thể vượt qua; anh sải bước, giữa đám đông đang rú lên hớn hở, từ
đầu đến chân quấn đầy rắn hổ mang, rắn lục, rắn cạp nong chết người,
tất cả vẫn còn nguyên túi nọc... Picture Singh, nhân
vật sau cùng trong danh sách những người sẵn lòng trở thành cha
tôi... và đi ngay sau anh là Parvati-phù-thủy.
Parvati-phù-thùy
mua vui cho đáp đông với đạo cụ là một cái giỏ lớn có nắp, đan bằng
liễu gai; những khán giả tình nguyện hớn hở chui vào giỏ,
và Parvati làm họ biến mất triệt để đến nỗi họ chỉ có
thể quay lại khi cô muốn; Parvati, người được nửa đêm ban
tặng ma thuật chân chính, đã sử dụng nó để phục vụ cái nghề
nghiệp tầm thường của một ảo thuật gia; đâm ra ai cũng
hỏi cô, “Mà em làm thế nào vậy?” Và, “Thôi nào,
cô em xinh đẹp, tiết lộ đi, việc gì mà
ngại?” - Parvati, tươi cười rạng rỡ lăn lăn cái giỏma thuật của cô,
tiến về phía tôi cùng đoàn quân giải phóng.
Quân
đội Ấn Độ tiến vào thị trấn, những người hùng của nó theo chân các
ảo thuật gia; trong số đó, về sau tôi
được biết, có cả gã chiến thần nọ, tên Thiếu tá mặt
chuột với cặp đầu gối sát thủ... nhưng lúc này các ảo
thuật gia xuất hiện ngày một nhiều, bởi những thuật sĩ sống sót của
thành phố đã chui ra từ chỗ trốn, và bắt đầu một
cuộc đua tài tuyệt vời, tìm cách vượt mặt mỗi và mọi
màn biểu diễn của các ảo thuật gia phương
xa; nỗi đau của thành phố được gột rửa và
nguôi ngoai dưới trận phun trào tươi tắn của ma thuật
mà họ đem lại. Thế rồi Parvati-phù-thủy nhìn thấy tôi, và trả lại tên cho tôi.
“Saleem! Ôi
trời ơi Saleem, Saleem Sinai, có phải cậu không Saleem?”
Buddha giật
mình, ngơ ngác như con rối. Mắt đám đông nhìn chòng chọc. Parvati sấn lại gần
gã. “Này, đích thị là cậu rồi!” Đôi mắt tròn xoe tìm kiếm trong vùng xanh mờ
đục. “Lạy Chúa, cái mũi này, tớ không có ý gì đâu, nhưng đích thị rồi!
Này, tớ đây, Parvati đây! Ôi Saleem, đừng có ngớ ra thế, coi nào coi nào...!”
“Đúng
rồi,” Buddha nói. “Saleem, đúng rồi.”
“Ôi
Chúa ơi, vui quá là vui!” cô kêu lên, “Arre baap, Saleem, cậu nhớ không -
Lũ Trẻ, yaar, Ôi, hay quá đi mất! Mà sao mặt cậu nghiêm trọng thế, trong
khi tớ chỉ muốn ôm cậu đến vỡ vụn ra? Bao nhiêu năm tớ chỉ nhìn thấy cậu ở
đây,” cô gõ vào trán, “và giờ cậu đứng đây, mặt nghệt ra như cá. Nào, Saleem! Coi
kìa, ít nhất cũng chào nhau một câu chứ.”