Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 19 - Phần 1

Chương
19: Mạc khải[1]

[1]
Mạc khải (một cách viết/đọc khác là Mặc khải), nghĩa đen trong tiếng Hán là
“vén rèm lên”; còn nghĩa tôn giáo, theo định nghĩa của Linh mục Trần Văn Kiệm
là “cho biết điều bí nhiệm”. Người dịch dùng chữ này để dịch chữ Revelation trong
nguyên tác, nhằm giữ được màu sắc và ẩn dụ tôn giáo của văn bản.

Om
Hare Khusro Have Khusrovand Om

Hãy
biết, hỡi kẻ vô thần, rằng giữa Đêm tối mịt mùng của KHOẢNG KHÔNG VŨ TRỤ giữa
buổi hồng hoang từng tồn tại tinh cầu KHUSROVAND thần thánh! Ngay cả GIỚI
KHOA HỌC HIỆN ĐẠI giờ đây cũng thừa nhận rằng hàng thế hệ qua họ
đã DỐI TRÁ hòng bưng bít NHÂN LOẠI, những người có quyền được
biết
về sự HIỆN TỒNG ĐÍCH THỰC Bấc Khả Tư Nghì[2] của
XỨ SỞ THIÊNG LIÊNG CỦA SỰ THẬT! Các Trí thức hàng đầu trên TOÀN THẾ GIỚI, kể
cả Mỹ quốc, tuyên truyền về ÂM MƯU CHỐNG TÔN GIÁO của cộng sản, DO THÁI, v.v…,
nhằm giấu giếm THÔNG TIN SỐNG CÒN này! Nay Màn đã vén lên. ĐỨC KHUSRO thần
thánh đã giáng hạ với Những Bằng Chứng Không Thể Chối Cãi. Hãy Đọc và Tin!

[2]
Tài liệu này có lẽ do mẹ của Cyrus viết ra nên có nhiều lỗi chính tả rất sơ
đẳng.

Hãy
biết rằng hành tinh Khusrovand ĐÍCH THỰC – HIỆN TỒN là nơi cư ngụ của các Thánh
mà sự Thuần khiết Tinh thần đã đạt đến Cảnh giới khiến họ, qua TU TẬP THIỀN
ĐỊNH &c., đã có được quyền năng VÌ LỢI ÍCH CHÚNG SINH, những quyền năng
Ngoài Sức Tưởng Tượng! Họ NHÌN XUYÊN thép, và có thể BẺ CONG XÀ NHÀ bằng
RĂNG!

***
BÂY GIỜ ***

Lần
đầu tiên, quyền năng ấy được sử dụng

Phục
Vụ Các Bạn! ĐỨC KHUSRO đang ở

***
ĐÂY ***

Hãy
nghe về sự Sụp Đổ của Khusrovand: tên XÍCH QUỶ Bhimutha (HẮC
ÁM thay tên hắn!) trút xuống một trận Thiên Thạch Vũ (đã được các ĐÀI THIÊN VĂN
THẾ GIỚI ghi chép kỹ càng, nhưng không Giải Thích)… một CƠN MƯA ĐÁ kinh hoàng,
đến mức Khusrovand tươi đẹp bị HỦY HOẠI và các Thánh bị TIÊU DIỆC.

Nhưng Juraell cao
quý và Khalila kiều diễm rất tỉnh táo. HY SINH BẢN THÂN trong
tư thế nhập định của Pháp môn Kundalini[3], họ đã bảo tồn được LINH
HỒN của đứa con chưa đản sinh, ĐỨC KHUSRO. Bước vào cảnh giới Nhất thể Đích
thực trong Trạng thái Nhập định Yoga Siêu việt (mà quyền năng ngày nay được
CÔNG NHẬN ở KHẮP THẾ GIỚI!), họ đã chuyển hóa Tinh thần Cao quý của mình thành
một Tia QUANG TUYẾN NĂNG LƯỢNG SINH LỰC KUNDALINI, mà tia LASER nổi
tiếng ngày nay chỉ là một sự bắt chước & Sao chép tầm
thường. Thông qua TIA này, Linh hồn Khusro chưa đản sinh phi hành, vượt qua HỐ
THẲM KHÔNG ĐÁY của Khoảng Không Vũ Trụ Vô Tận, đến khi MAY MẮN! mang nó đến
Duniya (Thế Giới) của chúng ta & và yên vị trong TỬ CUNG người nữ chủ nhân
khiêm nhường của một Gia Đình Parsi Tử Tế.

[3]
Tiếng Sanskrit, nghĩa là con rắn. Yaga quan niệm rằng năng lượng tiềm ẩn của
phụ nữ nằm cuộn tròn như rắn ở gốc xương sống.

Vậy
là Đứa Trẻ ra đời & Nhân phẩm chân chính & TRÍ TUỆ Vô song (ĐẬP TAN
luận điệu DỐI TRÁ, rằng mọi người Sinh Ra Đều Bình Đẳng! Tiểu nhân và Thánh
nhân có bình đẳng không? TẤT NHIÊN LÀ KHÔNG!) Nhưng có một THỜI GIAN khí chất
thực sự của người bị Ẩn giấu, cho tới khi vào vai một vị Thánh Địa Cầu trong
một bộ phim TÂM LÝ (được CÁC NHÀ PHÊ BÌNH HÀNG ĐẦU khen ngợi, sự Thuần Khiết
trong Diễn Xuất của Người Thách Thức mọi Tín Nệm), người THỨC TỈNH & biết
MÌNH LÀ AI. Nay người đã lấy lại TÊN THẬT của mình,

ĐỨC

KHUSRO

KHUSROVANI

*BHAGWAN*


khiêm nhường Xuất Thế, với Vạch Tro trên Lông Mày Đấng Khổ Hạnh[4],
để chữa lành Bệnh Tật và chấm dứt Hạn Hán & CHIẾN ĐẤU chống những Đạo quân
của Bhimutha ở bất cứ đâu chúng TỚI. HÃY BIẾT SỢ! Vì MƯA ĐÁ
của Bhimutha CŨNG sẽ trút xuống đầu chúng ta! Chớ tin những
lời DỐI TRÁ của đám chính khách thi sĩ Cộng sản & vân vân. GỬI TRỌN NIỀM
TIN vào Đức Thánh Duy Nhất Đích Thực.

[4]
Thần Shiva thường được minh họa có ba vạch tro màu trắng trên trán, tượng trưng
cho ba vị thần, hoặc ba thế giới. Tro theo quan niệm của đạo Hindu là biểu
tượng của cái chết và sự tái sinh. Các nhà tu khổ hạnh thờ Shiva thường bôi tro
lên khắp cơ thể.

KHUSRO
KHUSRO KHUSRO

KHUSRO
KHUSRO KHUSRO

&
gửi tiền Quyên góp đến PO Box 555, Bưu Điện Trung Tâm,

Bombay-1.

PHÚC
LÀNH! CÁI ĐẸP! SỰ THẬT!

Om
Hare Khusro Have Khusrovand Om

Cyrus-đại-đế
có một nhà vật lý nguyên tử ở cương vị người cha và, trong vai trò người mẹ,
một giáo đồ cuồng tín mà đức tin trong bà ta đã lên men do bị đè nén nhiều năm
dưới tư duy lý tính độc đoán của ông Dubash; và khi bố của Cyrus chết hóc vì
một quả cam mà mẹ nó quên không gỡ hột, Bà Dubash đã tận lực xóa bỏ dấu ấn của
người chồng quá cố khỏi tính cách của con trai – và nhào nặn lại Cyrus theo
hình mẫu kỳ quái của chính bà ta, Cyrus-hôi-hám, đẻ trong nồi cám, vào
năm bốn tám ­
– Cyrus thằng thần đồng ở lớp – Cyrus vào vai Thánh Joan trong
vở kịch của Shaw – tất cả những thằng Cyrus này, mà chúng tôi đã trở nên thân
thuộc, mà chúng tôi đã lớn lên cùng, nay đã biến mất; và ở chỗ chúng mọc lên
hình ảnh khoa trương, bình thản tựa cừu của Đức Khusro Khusrovand. Ở tuổi lên
mười, Cyrus biến mất khỏi trường Cathedral và sự nổi lên như sao băng của vị
guru giàu nhất Ấn Độ bắt đầu. (Có bao nhiêu người Ấn thì có bấy nhiêu Ấn Độ;
và, khi đặt cạnh Ấn Độ của Cyrus, Ấn Độ của tôi xem ra quá đỗi trần phàm.)

Tại
sao nó để điều đó xảy ra? Tại sao poster chăng khắp thành phố, và quảng cáo rải
kín báo chí, mà không có lấy một lời càu nhàu từ cậu bé thần đồng?... Bởi vì
Cyrus (mặc dù nó thường lên lớp bọn tôi, một cách không phải là không tinh
quái, về các Bộ Phận trên Cơ Thể Phụ Nữ) kỳ thực là một thằng nhóc thuộc loại
dễ bảo nhất, và không bao giờ nghĩ đến chuyện bật lại mẹ nó. Vì mẹ, nó mặc một
thứ váy kim tuyến và đội khăn xếp; để trọn đạo làm con, nó cho phép hàng triệu
tín đồ hôn ngón tay út của mình. Nhân danh lòng hiếu thảo, nó hết lòng vào vai
Đức Khurso, đức thánh hài đồng thành công nhất trong lịch sử; chẳng bao lâu nó
đã được những đám đông nửa triệu người tung hô, rồi gán cho mọi điều kỳ diệu;
những tay guitar người Mỹ đến ngồi dưới chân nó, tất cả đều mang theo sổ séc.
Đức Khusrovand sở hữu một đội kế toán, các thiên đường thuế[5], một
du thuyền sang trọng đặt tên là Khusrovand Starship, và một
chiếc máy bay – Chuyên cơ Ngàn sao của Đức Khusro. Và đâu đó
trong thằng bé với nụ cười yếu ớt, không ngừng rắc rải hồng ân ấy… ở một nơi
vĩnh viễn bị ẩn giấu dưới cái bóng có uy lực đáng sợ của mẹ nó (bà ta, xét cho
cùng, từng sống dưới một mái nhà với đám phụ nữ nhà Narlikar; ai biết bà ta
thân cận với họ thế nào? Ai biết cái oai phong ghê gớm của họ đã rỉ sang bà ta
tới đâu?), phảng phất bóng ma của một thằng bé từng là bạn tôi.

[5]
Những quốc gia/vùng lãnh thổ có thuế thu nhập thấp. Giới nhà giàu thường chuyển
tài sản đến hoặc định cư ở đây để tránh phải đóng nhiều thuế.

“Là
Đức Khusro ấy à?” Padma hỏi, vẻ kinh ngạc. “Ông định nói về vị mahaguru[6] vừa
chết đuối ở biển năm ngoái?” Phải, Padma; ông ta không thể đi trên mặt nước; và
rất ít người từng tiếp xúc với tôi lại được an hưởng một cái chết tự nhiên… hãy
cho phép tôi thú nhận rằng tôi có phần cay cú trước việc Cyrus được tôn sùng
như thánh sống. “Lẽ ra đó phải là mình,” tôi đã nghĩ vậy. “Mình mới là đứa trẻ
thần kỳ; thế mà không chỉ vị thế độc tôn trong nhà, mà kể cả phẩm chất đích
thực, sâu thẳm trong tôi, nay cũng đã bị nẫng mất.”

[6]
Maha + guru. Maha tiếng Hindi nghĩa là lớn, vĩ đại.

Padma:
tôi chưa từng trở thành một “mahaguru”; hàng triệu người chưa từng ngồi dưới
chân tôi; và đó là lỗi của tôi, bởi vì một ngày, nhiều năm trước, tôi đã đi
nghe bài giảng của Cyrus về các Bộ Phận trên Cơ Thể Phụ Nữ.

“Hả?”
Padma lắc đầu, khó hiểu. “Lại gì nữa đây?”

Nhà
vật lý nguyên tử Dubash sở hữu một bức tượng tuyệt mỹ bằng cẩm thạch – một
thiếu nữ khỏa thân – và với sự trợ giúp của pho tượng, con trai ông sẽ thuyết
trình những bài giảng chuyên môn về giải phẫu sinh lý phụ nữ cho khán giả là
một bọn nhóc cười rúc rích. Không cho không; Cyrus-đại-đế có tính phí. Đổi lấy
bài học giải phẫu, nó đòi truyện tranh – và tôi, quá đỗi ngây thơ, đã nộp cho
nó tập quý giá nhất trong bộ Supermam, tập giới thiệu cốt
truyện, về vụ nổ ở Hành tinh Krypton và chiếc phi thuyền-tên lửa mà Jor-El cha
cậu bé đã gửi cậu vượt không gian, hạ cánh xuống trái đất và được vợ chồng nhà
Kent hiền lành, trung hậu nuôi nấng… chẳng lẽ không ai nhìn ra? Suốt ngần ấy
năm, chẳng lẽ không ai hiểu rằng điều Bà Dubash đã làm là cải biên rồi tái chế
huyền thoại có tầm ảnh hưởng nhất trong số các huyền thoại hiện đại – truyền
thuyết về sự xuất hiện của Siêu nhân? Tôi nhìn những biển quảng cáo thổi kèn
giong trống về sự giáng hạ của Đức Khusro Khusrovand Bhagwan; và thấy mình, một
lần nữa, buộc phải nhận trách nhiệm về những sự kiện của cái thế giới hỗn độn,
hoang đường của tôi.

Tôi
ngưỡng mộ cơ chân của Padma chăm chú của tôi biết mấy! Cô ngồi xổm ở đó, cách
tôi vài bước, sari xắn lên kiểu dân chài. Cơ bắp chân không có dấu hiệu gì là
căng cứng; cơ đùi, hằn lên những nếp dưới lớp sari, bộc lộ sự dẻo dai đáng khen
ngợi. Đủ khỏe để ngồi xổm mãi, đồng thời thách thức cả trọng lực và cơn chuột
rút, Padma của tôi nhẩn nha lắng nghe câu chuyện dài dòng tôi kể; Ôi nữ cường
nhân rau quả dầm! Yên lòng biết bao vẻ chắc nịch, vỗ về biết mấy cảm giác vững chãi
toát ra từ bắp tay cô… vì niềm ngưỡng mộ của tôi còn lan sang cánh tay cô, đôi
tay có thể vật tay tôi xuống trong tích tắc, và, khi siết lấy tôi hàng đêm
trong những cái ôm vô ích, không cho tôi cơ hội trốn thoát. Giờ đã qua cơn
khủng hoảng, chúng tôi sống trong sự hòa hợp tuyệt đối: tôi kể, cô nghe tôi kể;
cô chăm sóc, và tôi vui lòng đón nhận sự chăm sóc của cô. Tôi, trên thực tế,
hoàn toàn mãn nguyện với chất cơ bắp không phàn nàn ở Padma Mangroli, người,
không hiểu vì đâu, lại hứng thú với tôi hơn là câu chuyện của tôi.


sao tôi lại quyết định diễn giải về hệ thống cơ bắp của Padma: những ngày này,
bởi, vì chính những cơ bắp ấy, không kém bất cứ điều gì hay người nào (chẳng
hạn con trai tôi, hãy còn chưa biết đọc), mà tôi kể câu chuyện này. Bởi tôi
đang lao về phía trước với tốc độ chóng mặt; sai sót là khó tránh, và cường
điệu, và những biến đổi xung đột nhau về giọng điệu; tôi đang chạy đua với
những vết nứt, nhưng tôi vẫn ý thức được rằng đã có những sai sót, và rằng, khi
quá trình phân rã của tôi tăng tốc (tốc độ viết của tôi phải chật vật mới theo
kịp), nguy cơ về tính bất khả tín tăng lên… trong hoàn cảnh ấy, tôi đang học
cách lấy cơ bắp của Padma làm chỉ dấu cho mình. Khi cô chán, tôi phát hiện
trong thớ thịt cô những nếp nhăn hờ hững; khi cô thấy thiếu thuyết phục, má cô
bắt đầu giật khẽ. Vũ điệu của hệ thống cơ bắp của cô giúp tôi không chệch đường
ray; bởi vì trong tự truyện, cũng như trong mọi loại hình văn học, điều thực sự
diễn ra không quan trọng bằng điều tác giả thuyết phục được độc giả tin vào…
Padma, với việc chấp nhận câu chuyện về Cyrus-đại-đế, đã cho tôi dũng khí đẩy
nhanh tiến độ, bước vào thời kỳ thê thảm nhất trong năm thứ mười một của đời
tôi (những điều tồi tệ hơn còn, đã còn, ở phía trước) – vào tháng Tám-và-Chín,
khi mạc khải trào ra nhanh hơn máu.

Mấy
tấm biển gật gù được hạ xuống chưa bao lâu thì đội giải phóng mặt bằng của đám
đàn bà nhà Narlikar đã tiến vào; Biệt thự Buckingham bị bao trùm trong cơn bão
bụi ầm ào từ những cung điện đang chết của William Methwold. Được bụi che khuất
tầm nhìn từ đường Warden phía dưới, chúng tôi mặc dù vậy vẫn bị tổn thương qua
đường điện thoại; và chính điện thoại đã báo tin, qua giọng nói run rẩy của mợ
Pia, về việc chú Hanif thân yêu của tôi đã tự tử. Mất đi khoản thu nhập từ Homi
Catrack, cậu tôi đã đem theo giọng nói rền vang và nỗi ám ảnh về những con cơ
và về hiện thực lên nóc tòa nhà ở Marine Drive; cậu đã bước ra giữa làn gió
biển buổi tối, và (khi rơi xuống) làm cho đám ăn mày kinh hãi tới mức họ thôi
giả mù mà vừa la hét vừa chạy tán loạn… lúc chết cũng như lúc sống, Hanif Aziz
giương cao ngọn cờ sự thật và khiến giả tạo phải tháo chạy. Cậu mới gần ba mươi
tư tuổi. Án mạng sản sinh ra cái chết; khi giết Homi Catrack, tôi đồng thời đã
giết cậu mình. Đó là lỗi của tôi; và chết chóc vẫn chưa dừng ở đó.

Cả
đại gia đình họp mặt tại Biệt thự Buckingham: từ Agra, Aadam Aziz và Mẹ Bề
trên; từ Delhi, cậu Mustapha, người Công Chức đã trau chuốt kỹ năng tán đồng ý
kiến của cấp trên đến độ họ không buồn lắng nghe cậu nữa, nguyên do khiến cậu
chẳng bao giờ được đề bạt; cùng cô vợ Sonia nửa Iran và mấy đứa con bị đánh nhừ
tử đến đần đụt cả người đi, khiến tôi không nhớ nổi là có bao nhiều đứa; và từ
Pakistan, bác Alia cay đắng, cả Đại tướng Zulfikar và dì Emerald, mang theo hai
mươi bảy kiện hành lý với hai người hầu, và không ngừng xem đồng hồ và hỏi hôm
nay ngày mấy. Thằng Zafar con họ cũng tới. Và, để cho đủ mặt, mẹ tôi đưa mợ Pia
đến ở nhà chúng tôi, “ít ra là trong bốn mươi ngày tang kỳ, em dâu ạ.”

Suốt
bốn mươi ngày, chúng tôi bị vây hãm trong bụi; bụi luồn vào dưới những tấm khăn
bông ướt chẹn quanh mọi cửa sổ, bụi ranh mãnh lẻn vào theo mỗi người đến viếng,
bụi ngấm qua tường rồi lơ lửng như một vòng hoa tang không hình thù trong không
khí, bụi nhấn chìm những tiếng khóc than theo nghi thức và những lời rỉa rói
cay nghiệt của đám họ hàng đau khổ; tàn dư của Điền trang Methwold lắng xuống
người bà tôi và kích động bà nổi một cơn cuồng nộ; chúng làm lỗ mũi bị bóp hẹp
của Đại tướng Zulfikar mặt Punchinello ngứa ngáy và khiến ông ta hắt xì vào cằm
mình. Giữa màn sương bụi ma quái, đôi khi chúng tôi dường như có thể nhận thấy
những hình hài của quá khứ, ảo ảnh chiếc pianola bị nghiền nát vụn của Lila
Sabarmati hay song sắt nhà tù trên cửa sổ xà lim của Toxy Catrack; bức tượng
khỏa thân của ông Dubash nhảy múa dưới dạng bụi qua các phòng, và đám poster
đầu bò của Sonny Ibrahim viếng thăm chúng tôi như những đám mây. Đám đàn bà nhà
Narlikar đã dọn đi trong lúc xe ủi làm việc; chỉ còn lại mình chúng tôi giữa
cơn bão bụi, khiến tất cả mọi người có vẻ ngoài của đồ đạc bị bỏ quên, như thể
chúng tôi là những bàn ghế bị vứt bỏ hàng thập niên không ga phủ; tất cả nhìn
như hồn ma của chính mình. Chúng tôi là một vương triều sinh ra từ một cái mũi
– con quái vật mỏ khoằm trên mặt Aadam Aziz, và bụi, xâm nhập vào lỗ mũi chúng
tôi trong thời kỳ tang trở, phá vỡ sự kiềm chế của mọi người, bào mòn các khuôn
khổ cho phép mỗi gia đình tồn tại; trong cơn bão bụi của những cung điện đang
chết, tất cả đã nói và thấy và làm những điều mà từ đó chúng tôi vĩnh viễn
không thể phục hồi.

Tất
cả bắt đầu từ Mẹ Bề trên, có lẽ vì năm tháng đã làm bà lên cân cho đến khi
trông bà giống ngọn núi Sankara Acharya tại Srinagar quê bà, nên bà phơi bày
diện tích bề mặt lớn nhất cho bụi tấn công. Từ cơ thể như núi của bà sầm sập đổ
xuống một âm thanh như tuyết lở, mà, khi biến thành lời, trở thành một trận
công kích dữ dội nhắm vào mợ Pia, người góa phụ đang đau khổ. Chúng tôi đều
nhận thấy mumani của tôi đang xử sự bất thường. Có một cảm giác không ai nói
ra, rằng một diễn viên với vị thế như mợ lẽ ra phải đáp ứng thách thức cho vai
trò quả phụ một cách xứng tầm; trong vô thức chúng tôi háo hức được thấy mợ đau
khổ, chờ đợi được xem một đào thương tài sắc biên diễn thảm kịch của bản thân,
mong ngóng một vở raga[7] bốn mươi ngày trong đó tài hoa và
nhuần nhị, đau thương thảm thiết và tuyệt vọng âm thầm hòa quyện trong một tỷ
lệ chuẩn mực của nghệ thuật; nhưng Pia vẫn câm lặng, mắt khô, và trấn tĩnh đến
mức làm ai nấy đều cụt hứng. Amina Sinai và Emeralad Zulfikar gào khóc rồi bứt
tóc, cô gắng khơi dậy ngọn lửa tài năng trong Pia; nhưng cuối cùng, khi có vẻ
như không gì lay chuyển nổi Pia, Mẹ Bề trên mất kiên nhẫn. Bụi ngấm vào cơn
thịnh nộ vì thất vọng ở bà gia tăng độ cay nghiệt của nó. “Con đàn bà ấy,
cáigìkhôngbiết,” Mẹ Bề trên gầm lên, “tao đã bảo mà? Con trai tao, Allah, đáng
lẽ nó phải thành đạt lắm, nhưng không, cáigìkhôngbiết, nó buộc thằng bé hủy
hoại đời mình; nó phải nhảy khỏi mái nhà, cáigìkhôngbiết, để thoát được ả.”

[7]
Tiếng Phạn nghĩa là màu sắc, sắc thái. Đây là một loại hình âm nhạc cổ truyền
của Ấn Độ, thường dùng để biểu đạt những sắc thái cảm xúc tôn giáo.

Lời
đã thốt ra; không thể thu lại. Pia như hóa đá; nội tâm tôi lẩy bẩy như bánh bột
ngô. Mẹ Bề trên hầm hầm tiếp tục; bà thề độc trên từng sợi tóc trên đầu đứa con
trai đã chết. “Chừng nào nó chưa tỏ lòng thương xót con tao, cáigìkhôngbiết,
chừng nào nó chưa rỏ nước mắt cho đáng mặt làm vợ, đừng hòng tao sẽ ăn lấy một
miếng. Xấu xa ô nhục thay, cáigìkhôngbiết, cái cách nó ngồi đó với antimony
trên mặt thay vì nước mắt!” Ngôi nhà rung động với tiếng vọng này của cuộc
chiến cũ giữa bà và Aadam Aziz. Và đến ngày thứ hai mươi trong bốn mươi ngày,
ai nấy đều sợ bà tôi sẽ chết vì đói và bốn mươi ngày này sẽ phải bắt đầu lại từ
đầu. Bà nằm cát bụi phủ đầy trên giường; chúng tôi chờ đợi và lo sợ.

Tôi
đã phá vỡ thế bế tắc giữa bà và mợ tôi; do vậy ít ra tôi có thể chính đáng tự
nhận là đã cứu một mạng người. Vào ngày thứ hai mươi, tôi đi tìm Pia lúc ấy
đang ngồi đờ đẫn như người mù trong căn phòng ở tầng trệt; để kiếm cớ cho cuộc
viếng thăm, tôi vụng về xin lỗi về những hành vi nông nổi của mình ở căn hộ
trên Marine Drive. Pia lên tiếng, sau một lúc im lặng xa vắng, “Bao giờ cũng
kịch,” mợ nói, bình thản, “Cả ở người thân, cả trong công việc. Anh ấy chết vỉ
căm ghét những gì kịch; vì thế ta không khóc.” Lúc đó tôi không hiểu; nhưng giờ
tôi biết Pia Aziz hoàn toàn đúng. Bị tước đi sinh kế vì vứt bỏ phong thái giật
gân rẻ tiền của điện ảnh Bombay, cậu tôi sải bước ra khỏi mái nhà; kịch đã khơi
cảm cảm hứng cho (và, có lẽ, đã làm hoen ố) cú nhảy trở lại mặt đất[8] sau
cùng của cậu. Pia nhất định không khóc là để tỏ lòng tưởng nhớ cậu… song nỗ lực
thừa nhận điều này đã khoan thủng bức tường tự chủ của mợ. Bụi khiến mợ hắt xì;
cơn hắt xì khiến nước mắt trào dâng; và giờ nước mắt chảy khôn dừng, và cuối
cùng chúng tôi đều được chứng kiến màn trình diễn tất cả đã kỳ vọng, bởi một
khi đã chảy chúng thảy như Đài phun nước Flora, và chính mợ cũng không cưỡng
lại được tài năng của mình; mợ định hình cơn lũ bằng bản năng của người nghệ
sĩ, triển khai từng chủ đề xuyên suốt và các mô típ phụ trợ, rồi đấm bộ ngực kỳ
vĩ theo một cách khiến người ta nhìn mà đau lòng, khi vò bóp, khi đập liên hồi…
mợ xé quần áo và bứt tóc. Đấy là một cơn trào dâng của nước mắt, và nó thuyết
phục được Mẹ Bề trên ăn uống. Dal và hạt dẻ cười chạy vào bà tôi trong khi nước
muối từ mợ tôi trào ra như lũ. Lúc này Naseem Aziz sụp xuống cạnh Pia, ôm lấy
mợ, biến màn độc diễn thành song tấu, pha trộn điệu nhạc chị em giảng hòa với
những hòa âm đẹp đẽ khó cầm lòng nỗi đau thương. Tay chúng tôi ngứa ngáy một
niềm tán thưởng khó bề diễn tả. Và cao trào hãy còn ở phía trước, vì Pia, người
nghệ sĩ, đã đưa nỗ lực bi tráng của mình đến một hồi kết tuyệt đích. Gục đầu
trong lòng mẹ chồng, mợ nói bằng một giọng phục tùng và trống rỗng, “Mẹ, con
bất hiếu cuối cùng xin nghe lời mẹ; mẹ bảo con làm gì, con làm nấy.” Và Mẹ Bề
trên, giàn giụa nước mắt: “Con gái ơi, Aziz cha con và ta sắp đi Rawalpindi;
chúng ta sẽ an hưởng tuổi già ở gần đứa con gái út, Emerald. Con sẽ đi cùng, ta
sẽ mua cho con một trạm xăng.” Và thế là giấc mơ của Mẹ Bề trên bắt đầu thành
sự thật, và Pia Aziz đã bằng lòng từ bỏ thế giới phim ảnh đổi lấy thế giới xăng
dầu. Cậu Hanif tôi chắc hẳn sẽ tán thành, tôi nghĩ vậy.

[8]
Nguyên văn dive to earth (nhảy xuống đất) đọc gần giống down
to earth
nghĩa là không viễn vông, thực tế.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3