Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 16 - Phần 1

Chương
16: Alpha và Omega

Bạo
loạn bùng nổ tại Bombay những tháng sau bầu cử; bạo loạn bùng nổ trong suy nghĩ
của tôi khi nhớ lại những ngày ấy. Sai lầm của tôi khiến tôi buồn phiền ghê
gớm; nên bây giờ, để lấy lại cân bằng, tôi sẽ trả mình về mảnh đất quen thuộc
của Điền trang Methwold; gạt lịch sử của Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm sang
một bên, và nỗi đau ở Pioneer Café sang bên kia, tôi sẽ kể quý vị nghe về sự
sụp đổ của Evie Burns.

Cái
tên tôi đặt cho chương này có chút kỳ cục. “Alpha và Omega” chằm chằm nhìn tôi
từ trang giấy, đòi được giải thích – một nhan đề lạ lùng cho chương sẽ đánh dấu
nửa chặng đường câu chuyện của tôi, một cái tên sặc mùi khởi đầu và kết thúc,
trong khi quý vị có thể nói nó nên liên quan hơn tới phần giữa; nhưng, không
chút hối hận, tôi không có ý định thay đổi nó, mặc dù có nhiều nhan đề khác để
lựa chọn, như “Từ Khỉ đến Vượn[1]” hay “Ngón Tay Tái Xuất,[2]” hay
- một cách bóng gió hơn – “Con Ngỗng Đực”, một sự ám chỉ, rất hiển nhiên, tới
loài chim thần thoại, hamsa hay parahamsa[3], tượng trưng cho khả
năng cư ngụ ở cả hai thế giới, vật chất và tâm linh, thế giới của đất-và-nước
và thế giới của không trung, của bay lượn. Nhưng nó đã là “Alpha và Omega”; nó
sẽ vẫn là “Alpha và Omega”. Bởi vì ở đây có những sự khởi đầu, và đủ loại kết
thúc; nhưng quý vị sẽ sớm hiểu ý tôi.

[1]
Nguyên văn: rhesus, một họ khỉ phổ biến ở châu Á.

[2]
Nguyên văn: Finger Redux. Redux là một từ phổ biến trong cách
đặt tên phim, ví dụ như Apocalypse Now Redux hay Ashes
of Time Redux
.

[3]
Hamsa trong tiếng Hindi là thiên nga, còn parahamsa tức là “siêu thiên nga”.
Đây là danh hiệu dành cho những bậc trí giả Hindu đã “đạt đạo”, nghĩa là ung
dung tự tại trong thế giới vật chất cũng như trong thế giới tâm linh, cũng
giống như thiên nga sống thoải mái cả trên cạn lẫn dưới nước.

Padma
bực bội chắt lưỡi. “Ông lại nói nhăng rồi,” cô phê bình, “Thế ông có kể chuyện
Evie không thì bảo?”

...
Sau kỳ bầu cử, Chính quyền Trung ương tiếp tục trù trừ lưỡng lự về tương lai
của Bombay. Bang sẽ được chia cắt; rồi không chia cắt nữa; rồi chia cắt lại
ngóc đầu dậy. Về phần thành phố - nó sẽ là thủ phủ của Maharashtra; hoặc là của
cả Maharashtra lẫn Gujarat; hoặc thành một bang độc lập... trong khi chính phủ
cố gắng suy tính xem phải làm cái quỷ gì, các cư dân của thành phố quyết định
phải đẩy nhanh tiến trình đó. Bạo động bùng phát (và quý vị vẫn có thể nghe
khúc chiến ca cũ của đảng Mahratta - Mi thế nào? – Tau khỏe re! – Để tau
lấy gậy nện tòe đầu mi!
– bay lên từ cuộc loạn đả); và góp phần làm
tình hình tồi tệ hơn, thời tiết cũng gia nhập cuộc hỗn chiến. Một cơn đại hạn
xảy ra; đường sá nứt nẻ; ở các làng, nông dân phải giết bò; và đúng ngày Giáng
sinh (ngày mà ý nghĩa của nó không thằng bé nào theo học trường dòng và có
người Ayah theo đạo Cơ đốc chăm sóc lại không biết) hàng loạt tiếng nổ lớn vang
lên tại Bể chứa nước Walkeshwar và các đường ống nước ngọt chính, nơi khởi đầu
nguồn sống của thành phố bắt đầu phun nước lên không như những con cá voi thép
khổng lồ. Báo chí xôn xao bàn tán về kẻ phá hoại; các phỏng đoán về danh tính
và mối quan hệ chính trị của nhóm tội phạm chen vai thích cánh cạnh những tin
tức về làn sóng sát hại gái điếm vẫn tiếp diễn. (Tôi đặc biệt lưu tâm đến việc
kẻ sát nhân để lại một “chữ ký” kỳ lạ. Thi thể các cô bướm đêm đều bị siết chết
ngạt; quanh cổ có vết bầm tím, những vết bầm quá lớn so với dấu ngón tay cái,
nhưng hoàn toàn phù hợp với dấu tích để lại bởi một cặp đầu gối vĩ đại, có sức
mạnh siêu nhiên.)

Tôi
lạc đề rồi. Mấy chuyện này, cái nhíu mày của Padma chất vấn, thì liên can gì
đến Evelyn Lilith Burns? Ngay lập tức, vồ lấy sự chú ý này, tôi đưa ra câu trả
lời: những ngày sau vụ hủy hoại hệ thống cấp nước của thành phố, đàn mèo hoang
của Bombay bắt đầu hội tụ ở những khu vực trong thành phố nơi nước vẫn còn
tương đối dồi dào; nghĩa là, những khu khá giả, nơi mỗi nhà đều có bể nước ngầm
hoặc trên mái. Và, do đó, ngọn đồi hai tầng của Điền trnag Methwold đón nhận
đợt xâm lăng của một đội quân dã miêu đói khát; mèo lúc nhúc khắp bùng binh,
mèo leo lên giàn hoa giấy và nhảy vào phòng khách, mèo đánh đổ lọ hoa để uống
thứ nước thiu mùi cuống hoa, mèo cắm trại trong nhà tắm, húp chất lỏng từ bồn
cầu, mèo tràn lan trong bếp các cung điện của William Methwold. Đội ngũ người
hầu của Điền trang hoàn toàn thất bại trong nỗ lực đánh đuổi cuộc đại xâm lăng
của lũ mèo; các quý bà ở Điền trang chỉ còn biết thốt lên những tiếng cảm thán
bất lực của nỗi kinh hoàng. Những con sâu cứt mèo khô khốc rải khắp nơi; các
khu vườn bị hủy hoại chỉ vì sức mạnh quân số của bầy dã miêu; và đến đêm, giấc
ngủ trở thành điều không thể, bởi đạo quân ấy tìm ra giọng nói, và hát lên cơn
khát của mình với vầng trăng. (Nữ hầu tước Simki von der Heiden từ chối chiến
đấu với bầy mèo; nó bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu của căn bệnh sẽ sớm đẩy nó
đến chỗ diệt vong.)

Nussie
Ibrahim gọi cho mẹ tôi thông báo, “Chị Amina, ngày tận thế đến rồi.”


ta nhầm; bởi vì vào ngày thứ ba của cuộc đại xâm lăng của lũ mèo, Evelyn Lilith
Burns lần lượt đến từng nhà ở Điền trang, khẩu súng hơi Daisy hờ hững trên tay,
và đề xuất, để đổi lấy tiền thưởng, chấm dứt đại dịch mèo luôn và ngay.

Cả
ngày hôm ấy, Điền trang Methwold vang vọng tiếng súng hơi của Evie, lẫn với
tiếng ngoao đau đớn của bầy mèo, khi Evie săn trọn đạo quân, từng con một và
kiếm bộn tiền. Nhưng (như lịch sử rất thường cho thấy), thời khắc vinh quang
nhất cũng chứa đựng mầm mống của sự suy tàn tối hậu; và quả có vậy, bởi vì trò
khủng bố của Evie với lũ mèo, trong con mắt con Khỉ Đồng, đích thị là giọt nước
tràn ly.

“Anh
ạ,” con Khỉ lầm lì bảo tôi, “em đã hứa là sẽ cho con nhỏ đấy biết tay, bây giờ,
ngay bây giờ, đã đến lúc rồi.”

Những
câu hỏi không thể trả lời: phải chăng em gái tôi đã học được tiếng mèo, như với
tiếng chim? Phải chăng tình cảm của nó với đời sống loài mèo đã đẩy nó đi quá
giới hạn... khi cuộc đại xâm lăng của lũ mèo xảy ra, mái tóc của con Khỉ đã kịp
ngả sang màu nâu; nó đã chấm dứt tật đốt giày; nhưng, không hiểu vì sao, trong
nó vẫn còn một sự dữ tợn mà không ai trong tụi tôi có được; và nó đi thẳng
xuống chỗ bùng binh, rồi hét đến vỡ giọng: “Evie! Evie Burns! Mày bước ra đây,
ngay lập tức, dù mày đang ở đâu!”

Đứng
giữa lũ mèo đang tháo chạy, con Khỉ chờ đợi Evelyn Burns. Tôi bước lên hiên nhà
ở tầng một để quan sát; ở hiên nhà mình, Sonny và Mắt Chẻ và Tóc Dầu và Cyrus
đều đang theo dõi. Chúng tôi thấy Evive Burns xuất hiện từ đằng bếp của Biệt
thự Versailles; cô nàng đang thổi khói bốc ra từ nòng súng.

“Bọn
Ấn tụi mài nên tạ ơn trời vì có tao ở đây,” Evie tuyên bố, “không thì bọn mài
bị mèo ăn sạch rồi!”

Chúng
tôi thấy Evie nín lặng khi nhìn thấy thứ đang căng thẳng ngự trị trong mắt con
Khỉ; và như một cái bóng con Khỉ nhào lên Evie và một trận chiến bùng nổ và kéo
dài một quãng thời gian tưởng như vài giờ (nhưng cũng có thể chỉ vài phút).
Chìm trong đám bụi giữ bùng binh, cả hai lăn lộn đấm đá cào cấu cắn xé, từng
nắm tóc bay ra từ đám bụi và khuỷu tay và chân đi tất trắng lấm lem và đầu gối
và những mảnh váy tung ra từ đám mây; người lớn chạy đến, người hầu không thể
gỡ hai đứa ra, và cuối cùng bác làm vườn của Homi Catrack phải dùng vòi xịt
nước để tách chúng ra... con Khỉ Đồng đứng dậy, hơi xộc xệch và giũ tà váy ướt
nước, phớt lờ tiếng hét đe dọa trừng phạt phát ra từ môi Amina Sinai và Mary
Pereira; vì giữa nền đất đẫm nước của bùng binh, Evie Burns nằm đấy, niềng răng
gãy, tóc bết đầy bụi và nước bọt, khí phách và ách thống trị của cô nàng với
chúng tôi bị bẻ gãy một lần và mãi mãi.

Vài
tuần sau bố nàng cho nàng về hẳn Mỹ. “Để hưởng một nền giáo dục tử tế, tránh xa
bọn man rợ này,” thấy bảo ông ta nói vậy; tôi chỉ nghe tin về nàng một lần, sáu
tháng sau, khi đột nhiên nàng viết cho tôi một lá thư báo tin nàng vừa đâm một
mụ già vì can tội phản đối nàng hành hung một con mèo. “Tao cho mụ ấy một nhát
ra trò,” Evie viết, “Bảo con em mày nó chỉ gặp may thôi.” Tôi nghiêng mình
trước bà lão vô danh ấy: bà đã gánh nợ thay con Khỉ.

Đáng
chú ý hơn cả thông điệp cuối cùng của Evie là một suy nghĩ giờ đây chợt nảy ra
trong tôi, khi tôi nhìn ngược đường hầm thời gian. Giữ trước mắt hình ảnh con
Khỉ và Evie lăn lộn trên đất, tôi dường như đã nhận ra động lực của trận chiến
sinh tử ấy, một động cơ sâu xa hơn nhiều chuyện ngược đãi bầy mèo: hai đứa đánh
nhau vì tôi. Evie và em tôi (hai đứa, trên nhiều khía cạnh, không hề khác biệt
nhau) đấm đá và cào cấu, ngoài mặt là vì số phận của dăm con thú hoang đói
khát; nhưng có lẽ những cú đá của Evie là nhằm vào tôi; có lẽ đó là bạo lực
xuất phát từ nỗi giận dữ trước việc tôi xâm nhập vào đầu nàng; và chắc hẳn sức
mạnh của con Khỉ là sức mạnh lòng trung thành của anh em một nhà, và hành vi
gây chiến của nó kỳ thực là hành động của tình yêu.

Máu,
hồi ấy, đã đổ giữa bùng binh. Một cái tên bị gạt bỏ khác cho chương sách này –
chắc quý vị cũng biết – là “Đặc Hơn Nước Lã”. Giữa những ngày khan hiếm nước ấy,
một thứ nước đặc hơn nước lã đã chảy xuống mặt Evie Burns; lòng trung thành của
huyết thống đã thôi thúc con Khỉ Đồng; và trên đường phố, những kẻ bạo loạn làm
cho nhau đổ máu. Những vụ giết người đẫm máu xảy ra, và có lẽ không thích hợp
lắm nếu kết thúc bản danh sách điệp huyết này bằng cách đề cập, một lần nữa,
việc máu dồn lên má mẹ tôi. Năm ấy, mười hai triệu lá phiếu được tô màu đỏ, và
đỏ là màu của máu. Máu sẽ sớm đổ nữa: các nhóm máu, A và O, Alpha và Omega – và
một loại nữa, một khả năng thứ ba – cũng phải được tính đến. Cả các nhân tố
khác: tính tương đồng hợp tử, và kháng thể Kell, và đặc tính bí hiểm nhất của
huyết dịch, có tên là rhesus, đồng thời cũng là một loài khỉ[4].

[4]
Rhesus factor là một dạng protein đi kèm với hồng cầu. Đây là hệ tiêu chí phân
loại nhóm máu quan trọng thứ hai sau hệ ABO. Khoảng 85% nhân loại mang Rh dương
tính, còn lại là âm tính. Những người có Rh- chỉ có thể nhận máu từ người cùng
có Rh-.

Vạn
vật đều có hình dạng, nếu ta tìm kiếm nó. Không thể né tránh hình thái.

Nhưng
trước khi tới ngày của máu, tôi sẽ cất cánh (như loài ngỗng parahamsa có thể
bay từ môi trường này sang môi trường khác) và quay lại, trong chốc lát, với
câu chuyện của thế giới bên trong tôi; bởi vì mặc dù sự sụp đổ của Evie Bunrs
chấm dứt giai đoạn tẩy chay tôi của lũ trẻ trên đồi, tôi vẫn thấy khó lòng tha
thứ; và trong một thời gian, giữ thái độ cô độc và xa cách, tôi đắm mình vào
những sự kiện trong đầu tôi, trong giai đoạn lịch sử sơ khai của hiệp hội những
đứa trẻ nửa đêm.

Thành
thật mà nói: tôi không thích Shiva. Tôi ghét sự cục cằn trong giọng lưỡi, sự
thô tục trong ý tưởng của hắn; và tôi bắt đầu nghi ngờ hắn về một loạt những
tội ác khủng khiếp, bởi vì hắn, duy nhất trong lũ trẻ nửa đêm, có thể đóng cửa
chặn tôi khỏi bất kỳ dòng suy nghĩ nào mà hắn muốn giữ cho riêng mình – một
việc, tự thân nó, càng gia tăng nỗi căm ghét và nghi ngờ của tôi với thằng cha
mặt chuột ấy hơn. Tuy nhiên, gì thì gì tôi vẫn là đứa công bằng; và sẽ là bất
công nếu cách ly hắn khỏi các thành viên khác của Hội nghị.

Tôi
phải giải thích rằng khi năng lực trí tuệ của tôi phát triển, tôi nhận ra mình
không chỉ thu nhận được tín hiệu từ lũ trẻ; và gửi đi được thông điệp của mình;
tôi còn có thể (bởi tôi có vẻ không thoát được cái ẩn dụ “đài phát thanh” này)
đóng vai trò một mạng lưới quốc gia, nghĩa là bằng cách mở tâm trí mình cho tất
cả lũ trẻ, tôi có thể biến nó thành một dạng diễn đàn, nơi chúng có thể nói
chuyện với nhau, qua tôi. Vậy là, trong những ngày đầu năm 1958, năm trăm tám
mươi mốt đứa trẻ sẽ tề tựu, trong một tiếng, từ nửa đêm đến một giờ sáng, tại
Lok Sabha[5]hay là Nghị viện của não bộ của tôi.

[5]
Hạ viện của Quốc hội Ấn Độ.

Chúng
tôi cũng hỗn tạp, ầm ĩ và vô kỷ luật như bất kỳ hội năm trăm tám mươi đứa trẻ
mười tuổi nào; và bổ sung cho sự hoạt náo tự nhiên ấy, còn có sự hứng khởi của
chúng tôi khi phát hiện ra nhau. Sau một tiếng đồng hồ hò hét huyên thuyên cãi
cọ cười cợt đến khản cổ, tôi sẽ là đi vào một giấc ngủ sâu đến mức không thể
gặp ác mộng, và tỉnh dậy với một cơn nhức đầu; nhưng tôi mặc kệ. Khi thức, tôi
phải đối mặt với nỗi đa bất hạnh từ sự dối trá của mẫu thân và sự suy sụp của
phụ thân, từ sự tráo trở của tình bằng hữu và đủ kiểu bạo hành học đường; còn
khi ngủ, tôi là trung tâm của thế giới hấp dẫn nhất mà trẻ con từng khám phá
ra. Cho dù có Shiva, được ngủ vẫn thích hơn.

Việc
Shiva quả quyết rằng hắn (hay hắn-và-tôi) là lãnh đạo tất nhiên của nhóm chúng
tôi hay do hắn (và tôi) ra đời vào đúng nửa đêm, tôi buộc phải thừa nhận, có
một lý lẽ ủng hộ khá vững chắc. Đối với tôi hồi ấy – và bây giờ vẫn vậy – phép
mầu của nửa đêm về bản chất quả thật có tính thứ bậc rất rõ ràng, năng lực của
bọn trẻ suy giảm đáng kể theo khoảng cách từ thời điểm ra đời của chúng đến nửa
đêm; nhưng ngay điều này cũng là một quan điểm bị tranh cãi gay gắt. “Ý cậu là gì
sao cậu có thể nói thế,” chúng đồng thanh, thằng bé từ rừng Gir có gương mặt
trống trơn không đường nét (trừ mắt lỗ mùi và khoang miệng), và có thể biến
thành bất kỳ khuôn mặt nào theo ý nó, rồi Harilal người chạy nhanh như gió, và
có Chúa mới biết còn có bao nhiêu đứa nữa... “Ai dám bảo cái này tốt hơn cái
kia?” Rồi, “Mày biết bay không? Tao biết này!” và “Ờ, tao nữa, mày
biêt biến một con cá thành năm mươi không” và, “Hôm nay tao đã đến thăm ngày
mai. Mày làm được không. Không thì -”... đối diện với một cơn bão phản đối cỡ
đó, cả Shiva cũng phải đổi giọng; nhưng hắn sẽ tìm ra một giọng điệu mới, nguy
hiểm hơn nhiều – nguy hiểm cho Lũ Trẻ, và cho tôi.


tôi đã nhận ra mình không miễn nhiễm với sự cám dỗ của vai trò lãnh đạo. Rốt
cuộc, ai phát hiện Lũ Trẻ? Ai sáng lập Hội nghị? Ai cung cấp chỗ họp? Tôi chẳng
phải là người đồng lớn tuổi nhất đó ư, và chẳng lẽ tôi không được tiếp nhận sự
tôn trọng và phục tùng xứng với vai bề trên của tôi? Chẳng phải người cung cấp
trụ sở hội cũng là người điều hành hội hay sao?... Nghe vậy, Shiva, “Quên mày
đi. Cái trò hội hè ấy chỉ dành cho bọn cậu ấm chúng mày thôi!” Nhưng – riêng
lần này – hắn đã bị yếu thế. Parvati-phù-thủy, con gái của nhà ảo thuật từ
Delhi, thế chỗ tôi (cũng như, nhiều năm sau, cô sẽ cứu mạng tôi), lên tiếng,
“Không, nghe này, tất cả mọi người: thiếu Saleem ta sẽ không đi đến đâu cả,
không thể nói chuyện hoặc làm gì khác, cậu ấy nói đúng. Hãy để cậu ấy làm thủ
lĩnh!” và tôi, “Không, gì mà thủ lĩnh, hãy xem tớ như một... một
đại ca, thế thôi. Phải; chúng ta là một gia đình, kiểu vậy. Tớ chỉ là người lớn
tuổi nhất, tớ ấy.” Nghe vậy Shiva bèn đáp, đầy khinh miệt, nhưng không phản bác
được, “Được rồi, đại ca: vậy giờ chúng em phải làm gì?”

Lúc
này tôi bèn giới thiệu cho Hội nghị về ý niệm đã đeo đẳng tôi bấy lâu nay: ý
niệm về mục đích, và ý nghĩa. “Ta phải nghĩ,” tôi nói, “xem ta sinh ra làm gì.”

Tôi
ghi lại, một cách chính xác, quan điểm của một số thành viên tiêu biểu của Hội
nghị (trừ những quái-nhân-rạp-xiếc, và những người, giống như cô bé ăn xin bị
rạch mặt ở Sundari, đã mất năng lực, và có xu hướng im lặng suốt các cuộc tranh
luận, như những người bà con nghèo trong bữa cỗ): trong số các triết lý và mục
tiêu được nêu ra có chủ nghĩa tập thể - “Ta nên tập hợp lại và sống ở đâu đó,
nhỉ? Ta có cần gì từ người khác đâu?” – và chủ nghĩa cá nhân – “Cậu bảo chúng
ta
; nhưng việc chúng ta ở bên nhau không quan trọng; quan trọng là mỗi
người trong chúng ta có một tài năng để sử dụng vì lợi ích của bản thân” – báo
hiếu – “Dù có thể đỡ đần cha mẹ bằng cách nào, đó cũng là điều chúng ta sinh ra
để làm” – và cách mạng con nít – “Giờ đây ta phải cho tất cả trẻ con biết rằng
có thể sống không cần cha mẹ!” – chủ nghĩa tư bản – “Thử xem ta có thể kinh
doanh những gì! Bọn ta, lạy đức Allah, sẽ giàu phải biết!” – và chỉ nghĩa vị
tha – “Đất nước cần người tài; ta nên hỏi chính phủ muốn sử dụng năng lực của
chúng ta ra sao” – khoa học – “Nên cho họ nghiên cứu chúng ta” – và tôn giáo –
“Hãy công bố cho cả thể giới về chúng ta, để tất cả có thể vinh danh Đức Chúa”
– dũng cảm – “Ta phải xâm lược Pakistan!” – và hèn nhát – “Trời ơi, phải giữ bí
mật, thử nghĩ xem họ sẽ làm gì ta, ném đá vì tội phù thủy rồi gì nữa không
biết!”; những tuyên bố về nữ quyền và đòi hỏi cải thiện tình hình cho tiện dân;
những đứa trẻ không đất mơ có đất và những bộ tộc trung du mơ xe Jeep; và cả
những ảo tưởng về quyền lực. “Họ không thể ngăn chặn ta! Bọn ta biết phép
thuật, biết bay, biết đọc suy nghĩ, biết biến người thành ếch, hóa phép ra vàng
ra cá, và họ sẽ đem lòng yêu chúng ta, và chúng ta có thể biến mất vào gương và
thay đổi giới tính... làm sao họ đánh lại ta được?”

Tôi
không phủ nhận mình đã thất vọng. Đáng ra tôi không cần phải thế; ở bọn trẻ này
không có gì khác thường ngoài năng lực của chúng; đầu óc chúng chứa toàn những
điều bình thường, bố mẹ tiền bạc cái ăn đất đai của cải danh vọng quyền lực
Chúa Trời. Không đâu, trong suy nghĩ của Hội nghị, tôi có thể tìm được điều gì
mới mẻ như chính bản thân chúng tôi... nhưng hồi ấy tôi cũng đi nhầm đường; cái
nhìn của tôi cũng không tỉnh táo gì hơn người khác; và ngay khi Soumitra thằng
bé vượt thời gian bảo, “Tao bảo thật nhé, mấy chuyện này vô ích thôi – họ sẽ
kết liễu cả bọn trước khi ta kịp bắt đầu!” chúng tôi đều phớt lờ nó; với niềm
lạc quan của tuổi trẻ - một thể độc hại hơn của căn bệnh từng nhiễm vào ông
tôi, Aadam Aziz – chúng tôi khước từ nhìn vào mặt tối, và không một đứa nào
trong bọn cho rằng mục đích của Lũ Trẻ của Nửa Đêm có khả năng là hủy diệt;
rằng chúng tôi sẽ không có ý nghĩa gì cho đến khi chúng tôi bị triệt hạ.


sự riêng tư của mọi người, tôi sẽ không phân biệt các giọng nói với nhau; vì cả
những lý do khác. Trước hết, câu chuyện của tôi không thể xử lý được toàn diện
năm trăm tám mươi mốt tính cách; thứ nữa, lũ trẻ, mặc dù có những năng lực
riêng rẽ và khác biệt, song vẫn là, trong đầu tôi, một dạng quái vật nhiều đầu,
nói chuyện bằng vô số ngôn ngữ của tháp Babel; chúng là kết tinh của sự đa
dạng, và tôi không thấy có lý do gì để phân tích chúng vào lúc này. (Nhưng có
một số ngoại lệ. Cụ thể, là Shiva; và Parvati-phù-thủy.)

...
Định mệnh, vai trò lịch sử, thiên ý: đây là những miếng ăn quá lớn với thực
quản những đứa trẻ lên mười. Kể cả, có lẽ, với tôi; bất chấp sự khiển trách
thường xuyên từ ngón tay đang chỉ của người ngư phủ và lá thư của Thủ tướng,
tôi không ngừng sao nhãng khỏi những sự diệu kỳ mà việc khịt mũi mang lại, do
những điều nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày, do thấy đói hay buồn ngủ, do chơi
trò khỉ cùng con Khỉ, hay ra rạp xem Cobra Woman hay Vera
Cruz
, do niềm mong mỏi được mặc quần dài ngày một tăng, do cảm giác hừng
hực không thể giải thích dưới-thắt-lưng, bắt nguồn từ buổi Giao lưu Học đường
sắp tới, khi chúng tôi, lũ con trai của trường Trung học Nam sinh Cathedral và
John Connon, sẽ được phép nhảy kiểu boxstep và điệu Nón Mexico[6] với
các cô gái từ trường kết nghĩa – như Masha Miovic nữ vô địch bơi ếch (“Yahooo,”
Keith Colaco Nội tiết rú lên) và Elithzabeth Purkiss hay Janey Jaskson – các cô
gái châu Âu, lạy Chúa, với tà váy buông lơi và các kiểu hôn! – tóm lại, sự tập
trung của tôi liên tục bị chiếm lĩnh bởi những nỗi dày vo đau đớn, choán đầy
tâm trí của sự trưởng thành.

[6]
Boxstep là một kỹ thuật khiêu vũ phổ biến, các bước nhảy chuyển động thành hình
vuông. Nhiều điệu nhảy như waltz, rumba... đều sử dụng kỹ thuật này. Điệu
Mexican Hat là điệu nhảy chính thức của Mexico.

Kể
cả một con ngỗng biểu tượng, cuối cùng, cũng phải hạ cánh xuống mặt đất; vì thế
với tôi lúc này (cũng như hồi ấy), giới hạn câu chuyện trong những khía cạnh
thần kỳ còn xa mới là đủ; tôi phải trở lại (như đã từng trở lại) với sự bình
phàm; tôi phải cho máu được đổ.

Thương
tích đầu tiên của Saleem Sinai, và nhanh chóng được tiếp nối bằng vết thương
thứ hai, xảy ra vào một ngày thứ Tư đầu năm 1958 – thứ Tư của buổi Giao lưu rất
được chờ đợi – với sự bảo trợ của Hiệp hội Giáo dục Anh-Scotland. Nghĩa là, nó
xảy ra ở trường.

Kẻ
tấn công Saleem: đẹp trai, hung hăng, với bộ ria bờm xờm của dân man rợ: tôi
xin giới thiệu chân dung hùng hổ, chuyên bứt tóc của Thầy Emil Zagallo, người
dạy chúng tôi địa lý và thể dục, và là người, sáng hôm đó, đã vô tình thúc đẩy
cuộc đời tôi rơi vào khủng hoảng. Zagallo tự nhận mình là dân Peru, và ưa gọi
chúng tôi là bọn Anh điêng rừng rú, mê hột cườm[7]; lão treo bức
tranh in hình một người lính cứng đờ, đầy mồ hôi, đội mũ thiếc chóp nhọn và mặc
quần chẽn bằng kim loại trên bảng và có cái kiểu chọc ngón tay vào bức tranh
mỗi khi bực bội và quát lên, “Nhìn thới chưa, lũ mọi rợ? Người nầy chính lờ văn
minh! Liệu mà kíng trọng hắn ta, hắn ta có kiếm đới!” Rồi lão
vút cây can trong không khí giữa bốn bức tường đá. Bọn tôi gọi lão là
Pagal-Zagal, Zagallo khùng, vì bất chấp mọi chuyện ba hoa của lão về loài lạc
đã không bướu và conquistador[8] và Thái Bình Dương, tụi tôi
biết tỏng, với sự chính xác tuyệt đối của tin đồn, là lão sinh ra trong một
chung cư tại Mazagaon và bà mẹ người Goa[9] của lão bị một tay
đại lý tàu biển bỏ rơi khi về nước; vậy nên lão không những chẳng phải là người
“Anh quốc” mà khéo còn là con hoang cũng nên. Biết vậy, chúng tôi hiểu tại sao
Zagallo nhái giọng Nam Mỹ, tại sao lão luôn cáu kỉnh, tại sao lão hay đấm vào
tường đá ở lớp; nhưng hiểu biết ấy không làm chúng tôi hết sợ. Và sáng thứ Tư
này, chúng tôi biết sẽ gặp rắc rối, bởi vì tiết học Nhà Thờ Không Bắt Buộc đã
bị hủy.

[7]
Khi khám phá ra châu Mỹ, người châu Âu nhầm đây là Ấn Độ, nên gọi thổ dân ở đây
là người Anh điêng (Indian - tức người Ấn). Zagallo coi thổ dân châu Mỹ là
người Anh điêng “xịn”, nên gọi người Ấn là “Anh điêng rừng rú”. Thổ dân châu Mỹ
rất thích hột cườm, đây là một mặt hàng người châu Âu thường dùng để trao đổi
với dân bản xứ.

[8]
Llama là một loài lạc đà không bướu phổ biến ở Nam Mỹ. Conquistador là danh
hiệu chỉ những người Tây Ban Nha đi chinh phục Mexico và Peru vào thế kỷ 16.

[9]
Mazagaon là một trong bảy hòn đảo tạo thành Bombay ngày nay. Goa là một tộc
người ở bang Goa miền Tây Ấn Đ
ộ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3