Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 12 - Phần 1
Chương
12: Đài phát thanh Toàn Ấn Độ
Hiện
thực là vấn đề điểm nhìn; càng ngược về quá khứ, mọi thứ càng có vẻ rõ ràng và
hợp lý hơn – nhưng ta càng tiếp cận hiện tại, tất cả lại không tránh khỏi tỏ ra
càng lúc càng kì lạ. Quý vị thử hình dung mình trong một rạp phim lớn, đầu tiên
ngồi ở phía sau, rồi từ từ dịch lên, từng hàng một, đến khi gần như gí mũi vào
sát màn hình. Những khuôn mặt diễn viên từ từ nhòa đi thành những hạt sạn nhảy
múa; những chi tiết bé tí trở nên to lớn một cách quái dị; ảo ảnh nhòa đi – hay
đúng hơn, ta nhận ra ảo ảnh ấy chính là hiện thực... ta đã đi
từ 1915 đến 1956, vậy là ta đã lại gần màn ảnh hơn đáng kể... vậy thì, từ bỏ
hình ảnh ẩn dụ này, tôi nhắc lại, hoàn toàn không cảm thấy hổ thẹn, lời khẳng
định khó tin của mình: sau vụ tai nạn kỳ dị trong tủ giặt, tôi trở thành một
thứ đài phát thanh.
...
Nhưng hôm nay tôi thấy hoang mang, Padma chưa trở lại – tôi có nên báo cảnh sát
không? Có phải cô đã thành Người Mất Tích? – và khi vắng mặt cô, những điều tôi
chắc chắn đều đang tan rã. Ngay cả cái mũi cũng giở trò với tôi – ban ngày, khi
đi giữa những vại rau quả dầm được đội quân chị em khỏe mạnh, tay lông lá, cực
kỳ thạo việc coi sóc, tôi bỗng không phân biệt được giữa mùi chanh vàng với
chanh xanh. Đội ngũ nhân công bưng miệng cười khúc khích: sahib tội nghiệp đã
vướng phải – cái gì? – hẳn không phải là lưới tình chứ?...
Padma, và những vết nứt đang lan khắp người tôi, tỏa ra như mạng nhện từ mũi
tôi; và cái nóng... trong những hoàn cảnh như thế này hẳn người ta cũng được
phép nhầm lẫn chút đỉnh. Đọc lại những gì đã viết, tôi phát hiện ra một lỗi về
trình tự thời gian. Vụ ám sát Mahatma Gandhi xảy ra, trong bản thảo này, nhầm
ngày. Nhưng tôi không thể tiết lộ, vào lúc này, thứ tự thực tế của các sự kiện;
ở Ấn Độ của tôi, Gandhi sẽ tiếp tục chết nhầm thời điểm.
Liệu
một lỗi lầm có khiến toàn bộ công trình trở nên vô giá trị? Có phải tôi đã đi
quá xa, với nhu cầu tuyệt vọng về lẽ sống, đến nỗi sẵn sàng bóp méo tất cả -
viết lại trọn vẹn lịch sử thời đại mình chỉ cốt để đặt bản thân vào vị trí
trung tâm? Hôm nay, trong cơn bối rối, tôi không phán xét được. Tôi sẽ phải
nhường việc này lại cho người khác. Giờ đây, tôi đã hết đường lùi; tôi phải kết
thúc những gì tôi đã mở đầu, kể cả khi, vô phương tránh né, cái tôi kết thúc
hóa ra không phải là cái tôi đã mở đầu.
Ye
Akashvani hai. Đây là Đài
phát thanh Toàn Ấn Độ.
Vừa
ra ngoài đường nóng như sôi để ăn cho xong bữa ở một quán cà phê Iran gần nhà,
tôi đã trở lại ngồi dưới quầng sáng về đêm của ánh đèn Anglepoise, chỉ có chiếc
đài bán dẫn rẻ tiền làm bầu bạn. Một đêm nóng; trong không khí sục sôi ngập mùi
hương dai dẳng từ những vại rau quả dầm câm lặng; những giọng nói trong đêm
tối. Hơi rau quả dầm, nồng nặc nhức mũi trong cái nóng, kích thích thứ nước quả
tiết ra từ ký ức, nhấn mạnh những tương đồng và khác biệt giữa hồi ấy và bây
giờ... hồi ấy trời nóng; bây giờ trời cũng nóng (trái mùa). Hồi ấy cũng như bây
giờ, có người thao thức trong bóng tối, nghe thấy những giọng nói vô hình. Hồi
ấy cũng như bây giờ, một bên tai bị điếc. Và nỗi sợ hãi, nảy nở trong cái
nóng... điều đáng sợ (hồi ấy hay bây giờ) không phải là những giọng nói. Cậu
bé, nhóc-Saleem-hồi-ấy, sợ một ý nghĩ – cái ý nghĩ rằng cơn thịnh nộ của cha mẹ
cậu có thể dẫn tới việc họ rút lại tình yêu; rằng dẫu có bắt đầu tin cậu đi
nữa, họ cũng sẽ xem thiên tư của cậu như một thứ dị tật ô nhục... trong khi
tôi, bây giờ, vắng Padma, gửi những lời này vào bóng tối và sợ rằng sẽ chẳng ai
tin. Cậu ấy và tôi, tôi và cậu... tôi không còn năng lực của cậu; cậu chưa từng
có năng lực của tôi. Có những lúc cậu như người lạ, gần như... ở cậu không có
vết nứt nào. Không có mạng nhện nào tỏa khắp người cậu trong cái nóng.
Padma
sẽ tin tôi; nhưng còn đâu nữa Padma. Hồi ấy cũng như bây giờ, có một cơn đói.
Nhưng ở một dạng khác: bây giờ không phải cơn đói-hồi ấy vì bị cắt bữa tối, mà
cơn đói vì bị mất đi người đầu bếp.
Và
một sự khác biệt khác, hiển nhiên hơn: hồi ấy, những giọng nói không đến qua
những lá van dao động của chiếc đài bán dẫn (vốn sẽ không bao giờ, ở xứ chúng
tôi, thôi tượng trưng cho sự bất lực – từ khi có vụ hối lộ triệt sản lấy đài
đầy tai tiếng, cái máy kêu oe óe ấy đã đại diên cho điều đàn ông có thể làm
trước khi lưỡi kéo xoẹt qua và nút buộc thít lại)... hồi ấy, cậu bé sắp lên chín
trên giường lúc nửa đêm chẳng cần đến máy móc.
Khác
biệt mà tương đồng, chúng tôi gắn kết với nhau nhờ cơn nóng. Một màn
sương-nhiệt bập bùng, hồi ấy và bây giờ làm thời kỳ-hồi ấy của nhòa vào của
tôi... nỗi hoang mang của tôi, đi qua làn sóng-nhiệt, cũng là của cậu.
Thứ
gì mọc khỏe nhất trong cái nóng: mía; dừa; các loại kê như bajra, ragi và
jowar; hạt lanh, và (nếu có nước) chè và lúa. Xứ nóng quê ta cũng là nơi sản
xuất bông lớn thứ hai thế giới – ít nhất, đấy là vào thời tôi học môn địa lý
dưới ánh mắt dữ tợn của ông Emil Zagallo, và cái nhìn sắt lạnh hơn của một hiệp
sĩ chinh phạt người Tây Ban Nha trong khung tranh. Nhưng mùa hè nhiệt đới cũng
sản sinh ra nhiều kỳ hoa dị thảo: những bông hoa lạ lẫm của sự nở bừng tưởng
tượng, để lấp đầy những đêm bức đổ mồ hôi bằng thứ mùi nồng như nùi xạ, mang
đến cho người ta những giấc mơ tăm tối của sự bất mãn... hồi ấy cũng như bây
giờ, trong không khí sặc mùi bất ổn. Đám diễu hành ngôn ngữ đòi chia cắt bang
Bombay theo biên giới của ngôn ngữ - đầu đoàn người này là giấc mơ về
Maharashtra, dẫn dắt đoàn người kia là ảo vọng về Gujarat[1]. Cái
nóng ăn mòn ranh giới giữa ảo tưởng và hiện thực trong tâm trí con người, khiến
tất cả trở thành như có thể; sự hỗn loạn nửa tình nửa mê của giấc ngủ trưa
khiến đầu óc con người mụ mị, và không khí tràn ngập cái dính ráp của niềm ham
muốn bị kích thích.
[1]
Năm 1956, sau khi mở rộng, bang Bombay bao gồm hai khu vực chính là vùng nói
tiếng Gujarat ở phía Bắc và vùng nói tiếng Maharashtra (Marathi) ở phía Nam.
Xung đột giữa hai cộng đồng này dẫn tới việc năm 1960 Bombay bị tách ra, trên
cơ sở ngôn ngữ, thành hai bang Maharashtra và Gujarat như ngày nay.
Thứ
gì mọc khỏe nhất trong cái nóng: ảo tưởng; sự điên rồ; dục vọng.
Năm
1956, hồi ấy, ngôn ngữ hành quân trên đường phố lúc ban ngày; về đêm, chúng nổi
loạn trong đầu tôi. “Chúng ta sẽ dõi theo cuộc đời của cháu với sự quan
tâm sát sao nhất; nó sẽ là, theo một nghĩa nào đó, tấm gương của bản thân chúng
ta.”
Đã
đến lúc nói về những giọng nói.
Nhưng
giá mà Padma của chúng ta ở đây...
Tôi
đã nhầm về các Đại thiên sứ, tất nhiên rồi. Bàn tay cha tôi, giáng vào tai tôi
trong một hành động (cố ý? vô tình?) tái hiện một bàn tay khác, không cơ thể,
từng táng thẳng vào mặt ông – ít ra cũng có tác dụng khai sáng; nó buộc tôi
phải xem xét lại và rốt cuộc là từ bỏ cái vị thế ban đầu, tập tọng làm Nhà Tiên
tri của tôi. Nằm trên giường vào chính cái đêm bị ruồng rẫy ấy, tôi rút sâu vào
trong nội tâm của mình, mặc cho con Khỉ Đồng lấp đầy căn phòng màu xanh của bọn
tôi với những lời vặn vẹo: “Nhưng mà anh làm thế làm gì, Saleem?
Người lúc nào cũng vô cùng ngoan ngoãn như anh?”... tới khi nó ngủ thiếp đi
trong bất mãn, môi vẫn mấp máy không thành tiếng, và tôi còn lại một mình với
dư âm trận lôi đình của cha tôi, lùng bùng bên tai trái, rì rầm: “Không Michael
hay Anael; chẳng phải Gabriel; quên đi Cassiel, Sachiel và Samael! Các Đại
thiên sứ không còn giao tiếp với người trần. Thần tụng đã được hoàn thành ở Ả
Rập từ lâu; nhà tiên tri cuối cùng sẽ chỉ xuất hiện để báo hiệu Ngày Tận Thế.”
Đêm đó, hiểu ra những giọng nói trong đầu mình vượt xa các thiên sứ về số
lượng, tôi quyết định, không phải là không có chút nhẹ nhõm, rằng tôi cuối cùng
đã không được chọn chủ trì ngày tận thế. Những giọng nói trong tôi, không có
chút gì là hoảng hốt, hóa ra lại trần tục, và đông đảo, như cát bụi.
Ngoại
cảm, phải rồi; cái kiểu quý vị vẫn luôn đọc được trên báo lá cải. Nhưng xin quý
vị kiên nhẫn – chờ đợi. Chỉ đợi thôi. Nó là ngoại cảm thật; nhưng đồng thời còn
hơn cả ngoại cảm. Đừng gạch tên tôi dễ dàng quá thế.
Ngoại
cảm, phải rồi: tiếng độc thoại nội tâm của tất cả cái được gọi là ức triệu con
người, của mọi tầng lớp và giai cấp, chen vai thích cánh trong đầu tôi. Ban
đầu, khi tôi còn thỏa mãn với vai trò khán giả - trước khi tôi bắt đầu hành
động – có một vấn đề về ngôn ngữ. Những giọng nói rầm rì bằng đủ thứ
tiếng từ thổ ngữ Malayalam đến Naga, từ cái thuần khiết của tiếng Urdu ở
Lucknow đến giọng líu ríu của tiếng Tamil miền Nam. Tôi chỉ hiểu đôi chút những
gì được nói bên trong bốn vách sọ của mình. Chỉ sau này, khi bắt đầu thăm dò kỹ
hơn, tôi mới phát hiện ra, dưới những tín hiệu bề mặt ấy – những chuyện bề nổi
mà tôi “bắt” được từ đầu tới giờ - ngôn ngữ nhòa đi, và bị thay thế bằng những
hình-thái-ý nghĩ mà bất kỳ ai cũng hiểu được và ưu việt vượt xa ngôn từ...
nhưng đấy là sau khi tôi nghe thấy, bên dưới sự hỗn loạn đa ngôn ngữ trong đầu
mình, những tín hiệu quý giá kia, khác hẳn tất cả mọi thứ khác, hầu hết đều khẽ
và xa xăm, như từng hồi trống vẳng vọng mà nhịp đập dai dẳng cuối cùng đã xuyên
qua cái lao xao chợ cá của những giọng nói trong tôi... những bí mật ấy, những
tiếng gọi nửa đêm ấy, người gọi người giống mình... những ngọn đèn hiệu vô thức
của những đứa trẻ của nửa đêm, không phát tín hiệu gì khác ngoài sự tồn tại của
mình, truyền đi vỏn vẹn: “Tôi.” Từ phương Bắc xa xăm, “Tôi.” Và Nam Đông Tây:
“Tôi.” “Tôi.” “Tôi nữa.”
Nhưng
tôi không được đi trước chính tôi. Ban đầu, trước khi đột phá đến cảnh giới
hơn-cả-ngoại-cảm, tôi tự thỏa mãn với việc lắng nghe; và từ sớm tôi đã “chỉnh”
được cái tai nội thể của mình hướng về những giọng nói mà tôi hiểu được; và
cũng không bao lâu sau tôi đã đã dò ra, trong đám đông, tiếng của gia đình tôi;
và của Mary Pereira; và của bạn bè, bạn học, thầy cô. Ngoài phố, tôi học cách
xác định dòng-suy-nghĩ của khách bộ hành – hiệu ứng Doppler tiếp tục vận hành ở
những môi trường siêu nhiên này, những giọng nói cũng to lên và nhỏ dần khi
người ta đi qua.
Tất
cả những chuyện này, bằng cách nào đấy tôi đã giữ kín trong lòng. Bị nhắc nhở
mỗi ngày (bởi tiếng ù trong tai trái, tức cái tai ma quái) về cơn thịnh nộ của
cha tôi, và nóng lòng muốn giữ tai phải hoạt động tốt, tôi câm như thóc. Với
một thằng bé chín tuổi, nỗi khó khăn khi phải giấu kín điều mình biết gần như
không thể vượt qua; nhưng may mắn thay, những người gần gũi nhất và thân yêu
nhất cũng nóng lòng quên đi sự bồng bột của tôi như tôi nóng lòng che giấu sự
thật.
“Ôi,
cậu Saleem! Gớm thay những gì cậu nói hôm qua! Thật là xấu hổ: cậu nên súc
miệng xà phòng đi!”... Buổi sáng sau sự hổ nhục của tôi, Mary Pereia, run lên
vì phẫn nộ như món thạch của cô, đề xuất phương thức hoàn hảo cho quá trình cải
tạo của tôi. Gục đầu xuống vẻ ăn năn, tôi đi, không nói câu nào, vào nhà tắm,
và tại đó, dưới cái nhìn kinh ngạc của cô Ayah và con Khỉ, chà xát răng lưỡi
vòm họng lợi bằng cái bàn chải đánh răng phết thứ Xà phòng Coal Tar hôi cay đầy
bọt. Tin tức về màn sám hối đầy kịch tính của tôi lan nhanh khắp nhà, do Mary
và con Khỉ truyền đi; và mẹ ôm lấy tôi, “Thế chứ, bé ngoan; chúng ta sẽ không
nhắc chuyện này nữa,” Còn Ahmed Sinai gục gạc gầm gừ ở bàn ăn sáng, “Ít ra nó
cũng biết dũng cảm nhận lỗi khi đùa quá trớn.”
Khi
những vết thủy tinh cứa mờ dần, dường như những tuyên bố của tôi cũng bị xóa mờ
theo; và đến sinh nhật thứ chín của tôi, ngoài tôi ra không ai còn nhớ gì đến
cái ngày tôi đã đem các Đại Thiên sứ ra bỡn cợt. Vị thuốc tẩy còn bám trên lưỡi
tôi suốt nhiều tuần, nhắc nhở tôi về sự cần thiết phải kín miệng.
Ngay
cả con Khỉ Đồng cũng thỏa mãn với cách tôi trình diễn sự ăn năn – trong mắt nó,
tôi đã lấy lại phong độ, và một lần nữa là Cô Tấm trong nhà. Để thể hiện sự sẵn
lòng tái lập trật tự cũ, nó châm lửa đốt đôi dép ưa thích của mẹ tôi, và giành
lại vị trí hợp pháp của mình trong sổ đen gia đình. Đối với người ngoài, còn
nữa – thể hiện sự bảo thủ không ai có thể nghi ngờ ở một đứa con gái “liền anh”
như thế - nó sát cánh với cha mẹ tôi gửi bí mật về phút lầm lạc của tôi với bạn
bè của cả tôi lẫn nó.
Ở
một đất nước nơi bất kỳ sự dị thường nào về thể chất hay thần kinh của đứa trẻ
cũng là căn nguyên nỗi hổ nhục sâu xa của gia đình, cha mẹ tôi, những người đã
quen với những vết bớt trên mặt, mũi dưa chuột và chân vòng kiềng, kiên quyết
từ chối tìm thấy ở tôi bất kỳ điều gì đáng hổ thẹn nữa; về phần mình, tôi không
một lần nào đả động đến tiếng ong ong ở tai đến tiếng chuông báo hiệu chứng
điếc thi thoảng lại reo lên, đến những cơn đau rời rạc. Tôi học được rằng bí
mật không phải lúc nào cũng xấu.
Nhưng
hãy tưởng tượng sự náo loạn trong đầu tôi! Nơi, sau gương mặt xấu xí, trên cái
lưỡi đầy vị xà phòng, sát bên màng nhĩ bị thủng, ẩn náu một tâm trí không lấy
gì làm ngăn nắp, chứa trăm thứ bà rằn như túi áo một thắng bé lên chín... hãy
tưởng tượng quý vị bằng cách nào đó ở trong đầu tôi nhìn ra qua đôi mắt tôi,
nghe thấy những âm thanh, những giọng nói, và rồi không kể được với ai, điều
khó nhất là giả bộ ngạc nhiên, như khi mẹ bảo Này Saleem đoán xem nhà ta sẽ đi
dã ngoại ở Aarey Milk Colony và tôi phải Ôii hay quá!, khi tôi đã biết tỏng từ
lâu vì nghe được giọng nói nội tâm không thành lời của bà Và vào ngày sinh nhật
tôi nhìn thấy mọi món quà trong óc người tặng từ trước cả khi chúng được mở ra
Và trò chơi tìm kho báu phá sản vì ở đó trong đầu cha tôi là vị trí của từng
chỉ dẫn tới mọi giải thưởng Rồi những chuyện khó khăn hơn nhiều như chạy vào
tìm cha tôi trong văn phòng ở tầng triệt, đây rồi, và ngay khi bước vào, đầu
tôi đã tràn ngập những thứ nhớp nhúa có Chúa mới biết bởi vì ông đang nghĩ đến
cô ả thư ký, Alice hoặc Fernanda, cô nàng Coca – Cola mới nhất của ông, ông
chậm rãi lột đồ cô ả trong đầu mình và nó trong cả đầu tôi nữa, cô nàng trần
truồng ngồi trên cái ghế mặt mây và bây giờ đứng dậy, những vệt mắt lưới lằn
khắp trên mông, đấy là cái cha tôi đang nghĩ, CHA TÔI, giờ ông nhìn tôi rất
buồn cười Sao thế con trai con không khỏe à Dạ khỏe Abba khỏe ạ, con đi đây CON
PHẢI ĐI CÓ VIỆC phải làm bài tập, Abba, và bỏ chạy, dông thẳng trước khi ông
phát hiện ra vẻ khả nghi trên mặt tôi (cha tôi vẫn bảo rằng mỗi khi tôi nói dối
trên trán tôi liền xuất hiện một tia sáng đỏ)... Quý vị bảo có khó không, cậu
Hanif đến đưa tôi đi xem đấu vật, và từ trước khi đến sân vận động Vallabhai
Patel trên đê biển Hornby Vellard tôi đã thấy buồn Chúng tôi hòa cùng đám đông
đi qua hình nộm bìa cứng của Dara Singh và Tagra Baba và các võ sĩ khác và nỗi
buồn của cậu, ông cậu yêu thích của tôi đang rót vào tôi, nó như một con thằn
lằn sống ngay dưới bờ dậu ở sự vui tươi của cậu, ẩn giấu dưới tiếng cười rền
vang một thời từng là tiếng cười của lão lái đò Tai, chúng tôi ngồi hai chỗ cực
đẹp khi quầng sáng đèn pha nhảy múa trên lưng đôi đô vật đang khóa chặt nhau và
tôi bị nghẹt trong gọng kìm không thể phá vỡ của nỗi buồn phiền của cậu tôi,
nỗi buồn phiền vì sự nghiệp điện ảnh thất bại, hết bom xịt này đến bom xịt
khác, có lẽ cậu sẽ chẳng bao giờ kiếm được bộ phim nào nữa Nhưng tôi không được
để nỗi buồn ứa ra trên mắt Cậu chen vào dòng suy nghĩ của tôi, Này phaelwan,
này chú nhóc đô vật, làm gì mà mặt chảy ra thế, trông dài hơn cả một bộ phim dở
rồi, cháu ăn channa nhé? pakora? gì hả? Và tôi lắc đầu, Không, không có gì ạ,
Hanif mamu, thế là cậu yên tâm, quay đi, bắt đầu hò hét Cố lên Dara, phải thế
chứ, cho hắn nếm mùi vị đi, Dara yara! Và khi về nhà mẹ tôi đang
ngồi xổm ngoài hành lang với hộp kem, nói bằng giọng-nói-bên-ngoài của bà, Muốn
giúp mẹ làm kem không, con trai, vị hạt dẻ cười khoái khẩu của con đấy, và tôi
ngồi quay cái cần, nhưng giọng-nói-bên-trong của bà cứ nảy qua nảy lại bên
trong đầu tôi, tôi có thể thấy bà đang cố gắng lấp đầy mọi ngóc ngách suy nghĩ
của mình bằng những chuyện hằng ngày, giá cá chim, danh mục các việc vặt trong
nhà, phải gọi tay thợ điện đến sửa cái quạt trần ở phòng ăn, bà đang tập trung
một cách tuyệt vọng vào các bộ phận của chồng mình để yêu, nhưng cái từ không được
phép nhắc tới kia vẫn án ngữ ở đó, hai âm tiết đã rỉ ra khỏi bà trong phòng tắm
vào ngày hôm đó, Na Dir Na Dir Na, đối với bà, việc gác máy khi có người gọi
nhầm số ngày một khó khăn hơn MẸ TÔI tôi cho các vị biết khi một đứa trẻ chui
vào những suy nghĩ của người lớn chúng có thể làm thằng bé phát điên thực sự.
Và kể cả về đêm, vẫn không thôi, tôi thức dậy vào đúng nửa đêm với giấc mơ của
Mary Pereira trong đầu Đêm này qua đêm khác Luôn vào cái giờ ma thịnh của tôi[2],
mà cũng có ý nghĩa đặc biệt với cô Giấc mơ của cô bị giày vò bởi hình ảnh của
một gã đàn ông đã chết từ nhiều năm trước, Joseph D’Costa, giấc mơ mách cho tôi
cái tên, nó phủ trong một lớp cảm giác tội lỗi tôi không hiểu được, đúng thứ
tội lỗi vẫn rỉ sang tất cả chúng tôi mỗi lần chúng tôi ăn món chutney cô làm, ở
đây có một điều bí ẩn, nhưng vì nó không ở bề mặt tâm trí cô nên tôi không thể
tìm ra, và trong lúc ấy, Joseph ở đó, hằng đêm, đôi khi mang hình người, nhưng
không phải luôn luôn, có khi gã là chó sói, hoặc ốc sên, hoặc cây chổi, nhưng
chúng tôi (cô-mơ, tôi-nhìn vào) biết đó là gã, tà ác không dung tha đầy vẻ buộc
tội, nguyền rủa cô bằng ngôn ngữ của những hóa thân của gã, tru lên với cô khi
là Joseph-chó-sói, phủ lên cô những vệt bò nhớp nhúa của Joseph-con-sên, quật
cô bằng đầu quét của cái chổi hóa thân của gã... và sáng ra khi cô bảo tôi tắm
rửa sạch sẽ chuẩn bị đi học tôi phải nuốt vào những câu hỏi, tôi chín tuổi và
bị lạc trong mớ hỗn độn những mảnh đời người khác đang nhòa lẫn với nhau trong
cái nóng.
[2]
Theo dân gian châu Âu, nửa đêm là giờ ma lực tối thịnh, là lúc phù thủy thi
triển pháp thuật. Ý Saleem nói đây là lúc năng lực siêu nhiên của mình đạt đến
cực điểm.