Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 09 - Phần 1
QUYỂN
HAI
Chương
9: Ngón tay đang chỉ của người ngư phủ
Liệu
người ta có thể ghen với những dòng chữ? Có thể căm ghét trò viết lách ban đêm
như thể đó là một kẻ tình địch bằng xương bằng thịt? Tôi không thể nghĩ ra lý
do gì khác cho phản ứng kỳ cục của Padma; và cách giải thích này ít nhất có ưu
điểm là nó cũng kỳ lạ ngang với cơn phẫn nộ mà cô đã rơi vào khi, tối nay, tôi
phạm phải sai lầm là viết (và đọc to) một từ đáng lẽ không được nói ra... bắt
đầu từ cuộc viếng thăm của lão lang băm, tôi đã đánh hơi thấy một sự bất mãn lạ
lùng nơi Padma, tỏa ra thứ mùi bí hiểm từ tuyến eccrine (hay apocrine[1]).
Ức chế, có lẽ vậy, vì sự vô vọng của những nỗ lực cô thực hiện về đêm nhằm hồi
sinh “cây bút chì kia” của tôi, quả dưa chuột vô dụng trốn trong quần tôi, cô
ngày càng cáu bẳn. (Rồi phản ứng bực tức của cô, đêm qua, khi tôi tiết lộ bí
mật về sự ra đời của mình, rồi sự khó chịu khi thấy tôi coi thường món tiền một
trăm rupee.) Tôi tự trách mình: đắm chìm vào công trình tự truyện này, tôi đã
không để tâm đến cảm xúc của cô, và khởi đầu đêm nay bằng những nốt nhạc sai
lầm tai hại nhất.
[1]
Tuyến eccrine là tuyến mồ hôi thường trên cơ thể con người, có chức năng điều
hòa thân nhiệt. Còn tuyến apocrine là tuyến sản sinh ra mùi con người (còn gọi
là tuyến rụng đầu), tập trung ở vùng nách và cơ quan sinh đục. Tuyến apocrine
thường hoạt động khi sự kích thích tình dục.
“Bị
tấm ga giường khoét lỗ kết án sống cuộc đời của những mảnh vụn,” tôi viết rồi
đọc to, “tôi dù vậy đã thành công hơn ông tôi; bởi trong khi Aadam Aziz vẫn là
nạn nhân của tấm ga, tôi đã thành chủ nhân của nó - và Padma mới là người giờ
đã mắc bùa phép của nó. Ngồi trong bóng tối được yểm bùa, tôi ban phát những
hình ảnh liếc qua mỗi ngày của bản thân - trong khi cô, người liếc nhìn ngồi
xổm của tôi, bị mê hoặc, bất lực như con chồn bị đóng băng bất động bởi cặp mắt
lắc lư không chớp của con rắn hổ mang, bị tê liệt - phải! - trước tình yêu.”
Từ
ấy đấy: tình yêu. Được viết-ra-rồi-đọc-lên, nó đẩy giọng cô lên một độ cao chói
tai khác thường; nó giải phóng từ môi cô một sự hung bạo hẳn đã làm tổn thương
tôi, nếu như tôi còn có thể bị lời lẽ làm thương tổn. “Yêu anh?”
Padma của chúng ta ré lên đầy khinh bỉ, “Vì cái gì, lạy Chúa? Anh thì được tích
sự gì, hả tiểu vương tử,” - và giờ là cú đòn kết liễu của cô -
“với tư cách một người yêu?” Cánh tay vươn dài, lông tay lung linh
dưới ánh đèn, cô chọc một ngón trỏ đầy khinh miệt về phía cái dương căn phải
thừa nhận là không hoạt động của tôi; một ngón tay dài, to, cứng ngắc vì ghen
tuông, đáng tiếc thay lại chỉ làm cho tôi nhớ tới một ngón tay khác, đã mất từ
lâu... thế nên cô, thấy mũi tên của mình chệch đích, rít lên, “Đồ điên ở đâu
ấy! Lão bác sĩ ấy nói đúng!” rồi điên cuồng lao ra khỏi phòng. Tôi nghe tiếng bước
chân loẹt quẹt xuống cầu thang sắt dẫn xuống sàn nhà máy; tiếng bàn chân hối hả
giữa những vại rau quả dầm phủ vải đen; rồi tiếng một cánh cửa, mở ra rồi đóng
sầm lại.
Bị
bỏ rơi như thế, tôi bèn, không có lựa chọn nào khác, trở lại với công việc.
Ngón
tay đang chỉ của người ngươi phủ: tâm điểm không thể lãng quên của bức tranh
treo trên bức tường màu thiên thanh ở Biệt thự Buckingham, thẳng ngay trên cái
cũi màu xanh da trời, nơi, hồi là Bé Saleem, đứa trẻ của nửa đêm, tôi đã sống
những ngày đầu đời. Cậu bé Raleigh - và ai nữa? – ngồi, đóng khung trong gỗ
tếch, dưới chân người thủy thủ già, sần sùi, đang vá lưới - phải chăng ông ta
có bộ ria hải mã? – với cánh tay phải, duỗi dài hết cỡ, vươn về phía một chân
trời mênh mông nước, trong khi những chuyện nước non của ông dập dờn quanh đôi
tai háo hức của Raleigh - và ai nữa? Bởi vì hiển nhiên là có một cậu bé khác
trong tranh, ngồi xếp bằng trong cổ diềm xếp nếp và áo dài cài khuy... và giờ
một hồi ức trở lại với tôi: về bữa tiệc sinh nhật khi một bà mẹ hãnh diện và
một Ayah cũng hãnh diện không kém đã mặc cho một đứa trẻ có cái mũi Gargantua
đúng cái cổ diềm ấy, đúng cái áo dài ấy. Một người thợ may ngồi trong cán phòng
màu thiên thanh, dưới ngón tay đang chỉ, mà sao chép y phục của các quý tộc
Anh... “Kìa, dễ sương chưa!” Lila Sabarmati thốt lên trong nỗi
hổ thẹn vĩnh viễn của tôi, “Cứ như thằng bé vừa bước từ trong tranh ra ấy?”
Trong
một bức tranh treo trên tường phòng ngủ, tôi ngồi cạnh Walter Raleigh, dõi mắt
theo một ngón tay đang chỉ của người ngư phủ; mắt căng ra ở chân trời, mà phía
sau là - cái gì? - tương lai của tôi, có thể; số kiếp đặc biệt của tôi, mà tôi
đã biết từ đầu, qua một sư hiện diện sáng mờ sắc xám tại căn phòng màu thiên
thanh ấy, lúc đầu còn mơ hồ, nhưng không thể bỏ qua... bởi ngón tay kia còn chỉ
xa hơn chân trời sáng mờ ấy, nó chỉ ra ngoài khung gỗ tếch, qua một mảng tường
ngắn màu thiên thanh, lái ánh mắt tôi tới một cái khung khác, trong đó treo số
mệnh không thể trốn thoát của tôi, bị cố định vĩnh viễn dưới tấm kính: đây là
một bức-hình-em-bé cỡ-đại với dòng chú thích tiên tri, còn đây, bên cạnh nó,
một lá thư trên thứ giấy da bê hảo hạng, dập nổi dấu quốc huy - bốn con sư tử
Sarnath đứng trên pháp luân ở trên bút tích của Thủ tướng, đến nơi, qua
Vishwanath cậu bé đưa thư, một tuần sau khi ảnh tôi xuất hiện trên trang nhất
tờ Thời báo Ấn Độ.
Báo
chí tôn vinh tôi; chính trị gia khẳng định vị thế của tôi. Jawaharlal Nehru đã
viết: “Bé Saleem thân mến, lời chúc muộn màng của tôi nhân sự kiện đáng mừng
của thời khắc cháu ra đời! Cháu là người mới nhất mang gương mặt xa xưa nhưng
cũng vĩnh viễn trẻ trung ấy của Ấn Độ. Chúng ta sẽ dõi theo cuộc đời của cháu
với sự quan tâm sát sao nhất; nó sẽ là, theo một nghĩa nào đó, tấm gương của
bản thân chúng ta.”
Và
Mary Pereira, kinh hoảng, “Chính phủ ư, thưa Bà? Họ sẽ để mắt đến thằng bé?
Nhưng vì sao, thưa Bà? Nó có làm sao đâu?” - Và Amina, không nhìn ra âm sắc sợ
hãi trong giọng nói của người Ayah: “Đó chỉ là một cách nói thôi Mary; nó không
có nghĩa như họ nói đâu.” Nhưng Mary không yên tâm; và bao giờ cũng vậy, mỗi
khi bước vào phòng đứa bé, mắt cô lại chớp dáo dác về bức thư trong khung kính;
mắt cô đảo quanh, xem Chính phủ có đang theo dõi không; đôi mắt ngờ vực: họ
biết gì? Có ai trông thấy không?... Về phần mình, khi lớn lên, tôi cũng không
thực sự chấp nhận lời giải thích của mẹ tôi; nhưng nó ru tôi vào một cảm giác
an toàn giả tạo; thế nên, mặc dù đôi chút nghi ngờ của Mary đã rỉ sang tôi, tôi
vẫn bị bất ngờ khi...
Có
lẽ ngón tay của người ngư phủ không chỉ vào bức thư đóng khung, bởi nếu ta theo
nó đi xa hơn nữa, nó sẽ dẫn ta qua cửa sổ ra ngoài, xuống ngọn đồi hai tầng,
qua đường Warden, vượt bể bơi Breach Candy, và ra tới một mặt biển khác, không
phải mặt biển trong tranh; một mặt biển nơi cánh buồm của những chiếc dhow Koli
rực đỏ trong ánh mặt trời sắp lặn... một ngón tay kết tội, khi ấy, buộc chúng
ta phải nhìn vào những con người bị tước đoạt của thành phố.
Hoặc
giả - và ý tưởng này làm tôi hơi rùng minh bất chấp cái nóng - đó là một ngón
tay cảnh cáo, mục đích là thu hút sự chú ý vào chính nó; phải, có thể nó
là, sao lại không, lời tiên tri về một ngón tay khác, một ngón tay không khác
biệt với chính nó, mà sự xuất hiện trong câu chuyện của tôi sẽ tiết lộ thứ
logic đáng sợ của Alpha và Omega... lạy Chúa, gớm thay ý tưởng ấy! Bao nhiêu
tương lai từng treo trên cái cũi của tôi, chỉ chờ tôi hiểu được? Bao nhiêu lời
cảnh báo đã được gửi đến cho tôi - bao nhiêu đã bị tôi bỏ qua?... Nhưng không.
Tôi sẽ không làm “đồ điên ở đâu ấy”, nói theo cách diễn đạt sinh động của
Padma. Tôi sẽ không bị cuốn theo những lạc đề gàn dở[2]; chừng nào
tôi còn sức kháng cự lại những rạn nứt.
[2]
Ở đây Rushdie um chơi chữ. Nguyên tác: “cracked digressions”. Cracked vừa có
nghĩa là gàn dở, vừa có nghĩa là bị rạn nứt.
Khi
Amina Sinai và Bé Saleem về nhà trên chiếc Studebaker đi mượn, Ahmed Sinai mang
theo lên xe một bịch giấy manila. Trong bịch giấy: một hũ rau quả dầm, đã đổ
hết kasaundy chanh, đã rửa, luộc, tiệt trùng - và giờ, đổ đầy lại. Một cái bình
đậy kín, với một lớp màng cao su phủ kín cái nắp thiếc và cố định bằng một sợi
chun buộc xoắn. Cái gì được bịt kín dưới cao su, bảo quản trong thủy tinh, giấu
trong giấy manila? Đây: quay về nhà cùng bố, mẹ và em bé là một lượng nước muối
trong đó chứa một cái dây rốn nổi lững lờ. (Nhưng nó là của tôi hay của Đứa bé
kia? Đó là điều tôi không thể nói được.) Trong khi cô Ayah mới tuyển, Mary
Pereira, đến Điền trang Methwold bằng xe buýt, một cái dây rốn du hành trong
hộc để găng tay trên chiếc Studey của một đại gia điện ảnh. Trong khi Bé Saleem
lớn lên thành người lớn, đoạn dây rốn lửng lơ không thay đổi trong nước muối
đóng chai, đằng sau một cái tủ gỗ tếch. Và, nhiều năm sau, khi gia đình tôi
bước vào cuộc lưu đày ở Xứ Sở của những kẻ Thuần Khiết, khi tôi đấu tranh hướng
tới sự thuần khiết, những sợi dây rốn sẽ gặp thời trong chốc lát.
Không
có gì bị vứt đi; cả đứa bé lẫn nhau thai đều được giữ lại; cả hai đều về đến
Điền trang Methwold; cả hai đều đợi đến thời của mình.
Tôi
không phải là một đứa trẻ đẹp đẽ. Những bức-hình-em-bé cho thấy gương mặt trăng
tròn của tôi quá to; quá tròn vành vạnh. Vùng cằm bị thiếu một cái gì đó. Làn
da trắng trẻo ôm lấy đường nét khuôn mặt tôi - nhưng những vết bớt làm nó biến
dạng; một vệt ố sẫm chảy xuống chân tóc bờ Tây, một mảng khác nhuộm sẫm cái tai
bên Đông. Và thái dương tôi: quá nổi bật: hai mái vòm Byzantine hình củ hành.
(Sonny Ibrahim và tôi sinh ra để làm bạn của nhau - khi bọn tôi cụng trán, hai
hõm forcep của Sonny cho phép hai thái dương củ hành của tôi nằm lọt ở trong,
khít khao như mộng mộc.) Amina Sinai, nhẹ nhõm khôn tả khi thấy tôi chỉ có một
cái đầu, ngắm nó với sự trìu mến của người mẹ nhân lên gấp bốn, nhìn nó qua một
màn sương đẹp đẽ hóa, phớt lờ vẻ kỳ dị băng giá của đôi mắt màu thiên thanh,
hai thái dương như cặp sừng còi, và cả cái mũi dưa chuột ngoại cỡ của tôi.
Cái
mũi của Bé Saleem: nó to khủng bố; và chảy nước.
Đặc
điểm thú vị của giai đoạn đầu đời của tôi: to và kém xinh đẹp như vậy, có vẻ
như tôi không được vừa ý. Ngay từ những ngày đầu, tôi đã triển khai một chương
trình tự tăng trưởng đầy anh dũng. (Như thể tôi biết rằng, để gánh vác những
gánh nặng của cuộc sống tương lai, tôi cần phải khá đô con.) Đến giữa tháng
Chín, tôi đã vắt kiệt bầu sữa không hề ít ỏi của mẹ tôi. Một bà vú được thuê
tạm nhưng bà ta bỏ chạy, cạn khô như sa mạc chỉ sau hai tuần, cáo buộc Bé
Saleem định cắn đứt đầu vú mình bằng hai hàng lợi không răng. Tôi chuyển qua bú
bình và nốc cạn từng lượng lớn hợp chất: những núm vú trên bình sữa cũng lãnh
đủ, minh oan cho bà vú tố cáo tôi. Những ghi chép trong cuốn sổ-tay-em-bé rất
tỉ mỉ; chúng cho thấy tôi nở ra gần như trông thấy, tăng kích cỡ từng ngày;
nhưng đáng tiếc là không có phép đo phần mũi nào được thực hiện nên tôi không
thế kết luận liệu cơ quan hô hấp của mình có phát triển với tốc độ tương đương,
hay nhanh hơn những phần còn lại. Tôi phải nói rằng mình có hệ trao đổi chất
khỏe mạnh. Chất thải được bài tiết dào dạt từ các cửa ngõ thích hợp; từ mũi tôi
đổ ra một dòng thác chất nhờn lóng lánh. Từng binh đoàn mùi soa, từng trung
đoàn tã lót tìm đường chui vào cái tủ giặc lớn trong phòng tắm cửa mẹ tôi...
trút rác thải qua đủ mọi cửa, tôi vẫn giữ đôi mắt ráo hoảnh. “Thằng bé ngoan
thế cơ chứ, Bà nhỉ,” Mary Pereira nói, “Cấm có khóc bao giờ.”
Bé
Saleem ngoan ngoãn là một đứa trẻ lặng lẽ; tôi hay cười, song không thành
tiếng. (Như con trai tôi, tôi bắt đầu bằng cách đánh giá tình hình, nghe ngóng
trước khi nhảy sang ê a và, sau đó, nói chuyện.) Có một thời gian Amina và Mary
sợ rằng thằng bé bị câm; nhưng, đúng lúc họ sắp nói với ông bố (mà họ đã giữ bí
mật nỗi lo lắng của mình - không ông bố nào muốn một đứa con khuyết tật), thằng
bé lại bật thốt ra tiếng, và trở nên, ở mọi tình huống trên phương diện ấy,
hoàn toàn bình thường. “Cứ như thể,” Amina thì thầm với Mary, “nó đã quyết định
cho chúng ta được yên lòng.”
Còn
một vấn đề nghiêm trọng hơn. Amina và Mary mất vài ngày mới nhận ra điều này.
Bận rộn với những quy trình đồ sộ và phức tạp để hóa thân chành một bà mẹ hai
đầu, tầm nhìn bị che phủ bởi một màn sương đồ lót hôi thối, họ không nhận ra sự
bất động của mí mắt tôi. Amina, nhớ lại, trong thời kỳ bà mang bầu, sức nặng
của đứa con chưa ra đời đã giữ thời gian lắng đọng như một mặt hồ xanh lặng
ngắt ra sao, bắt đầu tự hỏi phải chăng điều ngược lại đang xảy ra - phải chăng
đứa bé sở hữu một thứ ma lực nào đó với toàn bộ thời gian trong phạm vi kề cận
quanh mình và đang tăng tốc nó, thế nên mẹ-và-Ayah không bao giờ có đủ thời
gian để làm mọi thứ cần làm, thế nên đứa trẻ mới có thể phát triển với một tốc
độ dường như không tưởng; lạc lối trong những huyễn tưởng về trật tự thời gian
ấy, bà không nhận thấy vấn đề của tôi. Chỉ khi bà đã rũ bỏ ý tưởng ấy và tự nhủ
tôi chẳng qua là một thằng bé phổng phao phàm ăn, một đứa trẻ phát triển sớm,
tấm màn của tình mẫu tử mới hé ra đủ để bà và Mary rú lên, đồng thanh: “Kìa,
baap-re-baap! Kìa, Bà! Này, Mary! Thằng bé không hề chớp mắt!”
Cặp
mắt quá xanh: xanh-Kashmir, xanh-đứa-trẻ-bị-tráo, với sức nặng của dòng nước
mắt không trào, quá xanh không thể chớp. Lúc được cho ăn, mắt tôi không hề hấp
háy; lúc nàng Mary đồng trinh bế tôi qua vai và kêu lớn, “Uii, nặng thế, lạy
Chúa tôi!” tôi ợ hơi mà không chớp mắt. Lúc Ahmed Sinai lết bàn chân bó ngón
tới bên cũi tôi nằm, tôi nhượng bộ cặp môi trề bằng cái nhìn chăm chú và bất
động… “Khéo ta nhầm, Bà ạ,” Mary nêu ý kiến. “Khéo Sahib nhỏ đang bắt chước
chúng ta - thấy ta chớp thì chớp theo.” Và Amina: “Ta thay nhau chớp thử xem
sao.” Mí mắt luân phiên mở-ra-đóng-lại, họ quan sát màu xanh băng giá nơi tôi;
nhưng không có một rung động dù là nhỏ nhất; cho đến khi Amina tự mình giải
quyết vấn đề và thò tay vào nôi để vuốt mí mắt tôi xuống. Chúng khép lại: hơi
thở tôi biến đổi, ngay tức thì, sang nhịp thở thỏa mãn của giấc ngủ. Sau đó,
suốt mấy tháng, mẹ và Ayah thay phiên nhau mở và khép mí mắt cho tôi. “Nó sẽ
học được, Bà ạ,” Mary vỗ về Amina, “Nó là một đứa bé ngoan, nhất định nó sẽ
biết cách thôi.” Tôi học được thật: bài học đầu tiên của đời tôi: không ai mở
mắt mà đối mặt với đời mãi được.
Giờ
đây, nhìn lại qua đôi mắt ấu thơ, tôi có thể thấy tất cả một cách hoàn hảo -
kinh ngạc thay những gì ta nhớ được khi ta cố. Điều tôi thấy: thành phố, phơi
mình như một con thằn lằn hút máu dưới cái nóng mùa hè. Bombay của chúng ta:
trông nó như một bàn tay nhưng kỳ thực nó là một cái miệng, luôn mở to, luôn
đói khát, nuốt lương thực và nhân tài từ khắp nơi trên đất Ấn. Một con đỉa lộng
lẫy, không sản xuất gì ngoài phim ảnh bush-shirt[3] cá biển...
giữa cơn dư chấn hậu Chia cắt, tôi thấy Vishwanath cậu bé đưa thư đạp xe về
phía quả đồi hai tầng nhà tôi, phong bì da bê trong xắc cốt, cưỡi chiếc Arjuna
Indiabike cũ kỹ phóng qua một chiếc xe buýt đang gỉ nát - bị bỏ không dù chưa
tới mùa mưa, vì tay tài xế bỗng nhiên quyết định chạy sang Pakistan, tắt máy
rồi bỏ đi, để lại cỗ xe đầy hành khách mắc kẹt, bấu vào cửa sổ, bám lấy nóc xe,
phòi ra ở cửa lên xuống... tôi có thể nghe tiếng họ chửi rủa, đồ-lợn-đẻ,
quân-đốn-mạt; nhưng họ sẽ bíu chặt cái chỗ ngồi phải giành giật mới có được ấy
suốt hai giờ trước khi phó mặc cỗ xe cho số phận. Và, và: đây là người Ấn Độ
đầu tiên bơi vượt Eo biển Anh quốc, Ngài Pushpa Roy, xuất hiện trước cổng bể
bơi Breach Candy. Đầu đội mũ tắm màu nghệ, quần bơi xanh quấn khăn tắm ngả màu
cờ, ngài Pushpa đây đã tuyên chiến với chính sách chỉ-da-trắng của bể tắm. Ông
ta cầm bánh xà phòng Mysore mùi đàn hương; ưỡn thằng người; sải bước qua
cổng... nơi đám Pathan làm thuê túm lấy ông ta, người Ấn bảo vệ người Âu khỏi
cuộc binh biến của người Ấn như thường lệ; rồi ông ta trở ra, anh dũng kháng
cự, bị quặt tay điệu ra đường Warden và lẳng xuống đất. Người bơi vượt biển
nhào ra giữa đường, tránh khỏi lạc đà taxi xe đạp trong gang tấc (Vishwanath
đánh tay lái để tránh bánh xà phòng của ông ta)... nhưng ông ta không nhụt chí;
lụi hụi đứng lên; lúi húi phủi quần áo; và thề hôm sau sẽ trở lại. Suốt những
năm tuổi thơ của tôi, điểm nhấn của ngày là cảnh Pushpa người vận động viên bơi,
mũ màu nghệ và khăn tắm ngả màu cờ, lao mình trái với ý muốn ra đường Warden.
Và rốt cuộc cuộc vận động bất khuất của ông đã thắng lợi, bởi ngày nay Bể bơi
cho phép một số người Ấn - “tầng lớp ưu tú” - bước xuống làn nước hình bản đồ
của mình. Nhưng Pushpa không thuộc tầng lớp ưu tú; đã già và bị lãng quên, ông
đứng nhìn Bể bơi từ xa... và giờ quần chúng đang ùa vào tôi mỗi lúc một nhiều -
chẳng hạn như Bano Devi, người nữ đô vật nổi tiếng thời ấy, người chỉ đấu với
đàn ông và dọa sẽ lấy bất kỳ ai thắng mình, hệ quả của lời thề ấy là cô ta chưa
thua một keo nào; và (giờ ở gần nhà hơn), vị sadhu dưới vòi nước trong vườn nhà
tôi, tên là Purushottam, người mà tụi tôi (Sonny, Mắt Chẻ, Tóc Dầu, Cyrus và
tôi) luôn gọi là Puru-ông-guru - tin rằng tôi là Mubarak, Kẻ được Ban phước,
ông hiến dâng đời mình để dõi theo tôi, và dành trọn thời gian cho việc dạy cha
tôi xem chỉ tay và phù phép xua mụn cóc khỏi mẹ tôi; rồi đến sự kình địch giữa
lão người ở cũ Musa và cô Ayah mới Mary, điều sẽ tích tụ cho tới khi bùng nổ;
tóm lại, cuối năm 1947, cuộc sống ở Bombay đang đầy ắp, phong phú, vô định hình
một cách đa dạng chưa từng thấy... trừ một việc là tôi đã đến; tôi đã bắt đầu
chiếm lĩnh vị trí trung tâm vũ trụ; và khi xong việc, tôi sẽ đem ý nghĩa đến
cho tất cả. Quý vị không tin tôi? Nghe kìa: bên nôi tôi, Mary Pereira đang hát
một bài hát ngắn:
Bất
cứ gì con muốn thành, con sẽ được:
Con
sẽ được thành, bất cứ gì con muốn.
[3]
Bush-shirt là loại áo sơ mi may theo kiểu áo jacket đi rừng (safari jacket).
Đây là một sản phẩm đặc trưng ra đời trong quá trình khai phá Ấn Độ của thực
dân Anh.
Cho
tới trước lễ cắt bao quy đầu của tôi do một ông thợ cạo hở hàm ếch tại Hiệu Thợ
cạo Hoàng gia trên đường Gowalia Tank thực hiện (tôi mới được hơn hai tháng),
tôi đã rất đắt khách tại Điền trang Methwold. (Nhân tiện, về chuyện cắt bao quy
đầu: tôi thề là tôi vẫn nhớ lão thợ cạo cười nhăn nhở, lão túm lấy tôi nơi da
quy đầu, trong khi thằng nhỏ của tôi ngoe nguẩy điên cuồng như một con rắn trơn
tuột; và lưỡi dao cạo đi xuống, và cơn đau; nhưng tôi được kể rằng, lúc đó, tôi
thậm chí cũng không chớp mắt.)
Phải,
tôi là một thằng bé rất được ưa thích: hai bà mẹ của tôi, Amina và Mary, trông
thấy tôi bao nhiêu cũng không đủ. Trong mọi vấn đề thực tiễn, họ là những đồng
minh thân cận nhất. Sau khi tôi được cắt bao quy đầu, họ cùng tắm cho tôi; và
cùng khúc khích khi cái bộ phận mới tổn thương của tôi ngoe nguẩy giận dữ trong
nước tắm. “Ta phải coi chừng thằng nhóc này, Bà ạ,” Mary láu lỉnh nói, “Cái ấy
của nó có sự sống riêng đấy!” Và Amina, “Chậc, chậc, Mary, cô gớm quá, thật
đấy...” Nhưng rồi trong tiếng nấc nghẹn của cơn cười không nhịn nổi, “Bà xem
kìa, quả ớt bé bỏng tội nghiệp của cu cậu!” Vì nó lại đang ve vẩy, giãy giụa
như một con gà bị cắt tiết... Cùng nhau, họ chăm chút cho tôi cực kỳ chu đáo;
nhưng về vấn đề tình cảm, họ lại là tử địch. Có lần, khi đẩy tôi đi rong qua
Vườn treo trên Đồi Malabar, Amina nghe lỏm thấy Mary nói với mấy cô Ayah khác,
“Này: đây là thằng con mập mạp của tôi” - và cảm thấy một sự uy hiếp kỳ lạ. Bé
Saleem trở thành, kể từ đó, chiến trường của tình yêu của họ; họ nỗ lực vượt
mặt đối phương trong việc biểu lộ tình yêu thương; trong khi thằng bé, đã biết
nháy mắt, ợ hơi thật to, hấp thụ tình cảm của họ, lấy nó để tăng tốc độ phát
triển, phình ra và nuốt chửng vô số cái ôm ấp hôn hít bẹo-cằm-nựng-nịu, tích
nạp cho thời khắc khi nó có được đặc tính cốt lõi của nhân loại: mỗi ngày, và
chỉ vào những giờ phút hiếm hoi tôi bị bỏ lại một mình với ngón tay đang chỉ
của người ngư phủ, tôi cố rướn mình đứng lên trong cũi.
(Và
trong khi tôi nỗ lực vô ích để đứng dậy bằng hai chân, Amina cũng bị bóp nghẹt
trong một quyết tâm vô vọng - bà cố sức trục xuất khỏi đầu mình giấc mơ về
người chồng không thể gọi tên, vốn đã thay thế giấc mơ về giấy bẫy ruồi từ cái
đêm sau khi tôi ra đời; một giấc mơ với tính chân thực mãnh liệt đến mức nó ở
lại với bà suốt những giờ bà tỉnh ngủ. Trong đó, Nadir Khan đến bên giường bà
và làm bà có thai; một sự phi lý quái hiểm đến nỗi làm Amina lẫn lộn về nguồn
gốc của đứa trẻ, và đem đến cho tôi, đứa trẻ của nửa đêm, một người cha thứ tư
để đặt cạnh Winkie và Methwold và Ahmed Sinai. Lo lắng nhưng bất lực trong vòng
kiềm tỏa của giấc mơ, từ đó mẹ tôi Amina bắt đầu hình thành một màn sương mù
tội lỗi rồi sẽ, nhiều năm sau, bao quanh đầu bà như một vòng hoa đen tăm tối.)
Tôi
chưa bao giờ được nghe Wee Willie Winkie thời đỉnh cao. Sau nỗi mất mát mù lòa
kia, thị lực của ông dần hồi phục; nhưng có gì đó gay gắt và cay đắng đã len
vào giọng hát của ông. Ông bảo đó là bệnh suyễn, và tiếp tục đến Điền trang
Methwold mỗi tuần một lần để hát những bài hát vốn, cũng như ông, là tàn tích
của thời đại Methwold. “Chúc Ngủ Ngon, Quý Bà,” ông hát; và, để cập nhật, bổ
sung “Mây Rồi Sẽ Sớm Tan” vào vốn biểu diễn của minh, và, sau đó ít lâu, “Cún
Con Trên Cửa Sổ Giá Nhiêu Tiền?” Đặt một đứa bé khá bự với cặp đầu gối gõ nhau
đầy khiếp hãi trên tấm thảm nhỏ cạnh ông trong vòng xuyến, ông ca những bài ca
đầy niềm hoài cổ, và không ai nỡ đuổi ông đi. Winkie và ngón tay người ngư phủ
là hai trong số ít những thứ thời William Methwold còn sót lại, vì sau khi
người Anh biến mất, những người kế tục ông ta đã tống khứ khỏi các cung điện
những đồ đạc họ ruồng bỏ. Lila Sabarmati bảo lưu chiếc pianola; Ahmed Sinai giữ
lại tủ whisky; ông lão Ibrahim chấp nhận những chiếc quạt trần; nhưng lũ cá
vàng chết, vài con vì đói, những con khác vì bị nhồi nhét khủng khiếp đến mức
chúng nổ tung thành những đám mây nhỏ vảy và thức ăn cá chưa tiêu hóa; đàn chó
chạy rông, và sau cùng thôi không quanh quẩn ở Điền trang nữa; và chỗ quần áo
bạc màu trong những chiếc tủ cũ được phân phát cho các bà quét dọn và những
người hầu khác ở Điền trang, thế nên suốt nhiều năm về sau những người thừa kế
William Methwold được phục vụ bởi những người đàn ông và đàn bà mặc áo sơ mi và
váy vải hoa ngày một rách nát của chủ nhân đời trước của họ. Nhưng Winkie và
bức tranh trên tường của tôi sống sót; ca sĩ và ngư phủ trở thành thông lệ
trong đời sống của chúng tôi, giống như giờ cocktail, nay đã thành một thói
quen quá mạnh mẽ không thể dứt bỏ. “Mỗi giọt lệ và niềm đau nhỏ bé,” Winkie
hát, “càng kéo em lại gần anh...” Còn giọng ông càng lúc càng kém đi, tới khi
nghe như một cây đàn sitar mà bầu cộng hưởng, làm bằng vỏ bí ngô sơn mài, đã bị
chuột gặm từ lâu; “Vì bệnh suyễn,” ông bướng bỉnh bào chữa. Trước khi chết, ông
mất giọng hoàn toàn; bác sĩ sửa đổi kết quả chẩn đoán thành ung thư vòm họng;
nhưng họ lại sai, bởi Winkie không chết vì bệnh mà vì nỗi cay đắng mất đi người
vợ mà sự bất trinh ông chưa từng hoài nghi. Con trai ông, được đặt tên là Shiva
theo vị thần sáng tạo và hủy diệt, ngồi dưới chân ông trong những ngày đầu ấy,
lặng lẽ chịu đựng gánh nặng là căn nguyên (hoặc giả nó nghĩ vậy) sự suy sụp từ
từ của cha mình; và dần dà, theo năm tháng, chúng tôi chứng kiến đôi mắt nó
ngập một nỗi căm giận không thể nói thành lời; chúng tôi chứng kiến nắm tay nó
siết lại quanh từng viên sỏi rồi ném đi (ban đầu vô hại, nhưng ngày một nguy
hiểm hơn khi nó lớn) ra khoảng trống xung quanh. Khi thằng lớn của Lila
Sabarmati lên tám, nó tự ý chọc ghẹo Shiva về tính khó gần, cái quần cộc không
hồ, cặp đầu gối củ lạc; thế là thằng bé đã bị tội ác của Mary đày đọa trong
kiếp nghèo với đàn phong cầm liền ném một hòn đá bẹt và sắc, cạnh bén như dao
cạo, làm kẻ chòng ghẹo nó mù mắt phải. Sau tai nạn của Mắt Chẻ, Wee Willie
Winkie đến Điền trang Methwold một mình, bỏ lại đứa con trai bước vào những mê
cung u tối mà về sau chỉ một cuộc chiến tranh mới giải thoát được nó.