Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 08 - Phần 1

Chương
8: Tích, tắc

Padma
có thể nghe thấy nó: không gì dồn nén sự hồi hộp như đếm ngược. Tôi quan sát
đóa hoa-phân của tôi làm việc hôm nay, quấy những vại rau quả dầm như một cơn
lốc, như thể làm thế sẽ khiến thời gian trôi nhanh hơn. (Mà có lẽ là có; thời
gian, theo kinh nghiệm của tôi, cũng biến thiên và bất ổn như nguồn điện của
Bombay. Nếu quý vị không tin, cứ gọi cho dịch vụ báo giờ tự động thì biết - gắn
với lưới điện, nó thường bị sai vài tiếng. Trừ phi kẻ sai là chính chúng ta...
không dân tộc nào có từ chỉ “hôm qua” và “ngày mai” là một lại được coi là nắm
chắc về thời gian cả[1])

[1]
Trong tiếng Hindi, chữ kai trong mệnh đề thì tương lai nghĩa
là “ngày mai,” nhưng trong mệnh đề thì quá khứ lại có nghĩa là “hôm qua.”

Nhưng
hôm nay, Padma nghe thấy tiếng tích tắc của Mountbatten... Do Anh sản xuất, nó
đập với sự chính xác lạnh lùng. Và giờ nhà máy đã trống không; hơi còn lởn vởn,
nhưng những vại rau quả dầm đã lặng; và tôi đã giữ lời. Ăn vận chỉn chu, tôi
chào đón Padma khi cô xô đến bàn tôi, ngồi phệt xuống sàn cạnh tôi, ra lệnh:
“Bắt đầu.” Tôi nở một nụ cười thỏa mãn; cảm thấy đàn con của nửa đêm xếp hàng
trong đầu mình, chen lấn xô đẩy như mấy mụ dân chài Koli; tôi bảo tụi nó đợi,
không lâu nữa đâu; tôi hắng giọng, khẽ lắc cây bút một cái; rồi bắt đầu.

Ba
mươi hai năm trước thời điểm chuyển giao quyền lực, ông tôi vập mũi vào mặt đất
Kashmir. Hồng ngọc và kim cương xuất hiện. Và có lớp băng của tương lai, chực
chờ dưới làn nước. Và có một lời thề: không cúi đầu trước thần hay người. Lời
thề ấy tạo ra một lỗ hổng, tạm thời được lấp đầy bởi một người đàn bà sau một
tấm ga khoét lỗ. Một lão lái đò từng tiên đoán về những vương triều nấp trong
mũi ông tôi giận dữ chở ông qua một hồ nước. Có những lão chúa đất mù và những
nữ đô vật. Và một tấm ga trong một gian phòng tăm tối. Ngày hôm đó, di sản của
tôi bắt đầu hình thành - màu xanh của bầu trời Kashmir - nhỏ vào mắt ông tôi;
sức chịu đựng của cụ bà tôi rồi sẽ biến thành tính nhẫn nại của chính mẹ tôi và
sự sắt đá sau này của Naseem Aziz; năng lực trò chuyện với chim của cụ ông tôi
rồi sẽ thèo dòng huyết thống quanh co di truyền vào mạch máu của con Khỉ Đồng
em tôi; xung đột giữa chủ nghĩa hoài nghi rằng ông ngoại và tính cả tin đằng bà
ngoại; và trên hết là bản chất ma quái của tấm ga giường khoét lỗ, đã định cho
mẹ tôi phải học yêu một người đàn ông theo từng mảnh, và kết án tôi phải nhìn
cuộc đời mình - ý nghĩa của nó, cấu trúc của nó - cũng theo từng mảng một; thế
nên khi tôi hiểu được nó, thì đã là quá muộn.

Năm
tháng tích tắc trôi đi - và di sản của tôi lớn dần, bởi giờ đây tôi có túi răng
vàng huyền thoại của lão lái đò Tai, và chai rượu của lão báo hiệu về những tửu
tinh của cha tôi; tôi có Ilse Lubin cho chuyện tự tử và rắn ngâm rượu cho
chuyện bổ dương; tôi có Tai-ủng-hộ-sự-không-thay-đổi đối nghịch với
Aadam-cổ-xúy-tiến-bộ; rồi, còn nữa tôi có mùi hôi của lão lái đò không tắm đã
đuổi ông bà tôi xuôi Nam, và khiến Bombay trở thành điều có thể.

...
Và giờ, bị Padma và tiếng tích tắc thôi thúc, tôi tiếp tục, thu thập Mahatma
Gandhi và phong trào hartal của ông, tiêu hóa ngón-cái-và-ngón-trỏ, nuốt trọn
thời khắc Aadam Aziz không biết mình là người Kashmir hay Ấn Độ; giờ tôi đang
uống Mercurochrome và nhuộm hình những bàn tay sẽ tái hiện trong bãi nước trầu
lênh láng, và tôi đang nốc cạn Dyer, bộ ria và các thứ; ông tôi được cái mũi
cứu sống và một vết bầm xuất hiện trên ngực ông, vĩnh viễn không tan biến, nhờ
vậy ông và tôi tìm thấy trong cơn nhức nhối bất tận của nó câu trả lời cho câu
hỏi kia, Ấn Độ hay Kashmir? Bị nhuộm màu bởi vết bầm của một chiếc khóa cặp
Heidelberg, chúng tôi quyết định chung số phận với Ấn Độ; nhưng sự xa lạ của
cặp mắt xanh vẫn còn đó. Tai chết, song ma thuật của lão vẫn đeo đuổi chúng
tôi, biến chúng tối thành tách biệt.

...
Chạy hộc tốc, tôi dừng lại để nhặt trò phụt-ống-nhổ. Năm năm trước ngày một
quốc gia ra đời, di sản của tôi lại lớn lên, để bao gồm một dịch bệnh lạc quan
sẽ bùng phát lần nữa vào thời của tôi, và những vệt nứt trên mặt đất rồi-sẽ-đã-được
tái sinh dưới da tôi, và con Chim ngân nga cựu ảo thuật gia người đã khởi đầu
một hàng dài các nghệ sĩ xiếc rong vẫn luôn song hành với cuộc đời tôi, và cặp
nốt ruồi như núm vú phù thủy và sự thù ghét ảnh chụp và câu cáigìkhôngbiết của
bà tôi, và những cuộc chiến của chết đói và im lặng, và sự thông thái của bác
Alia tôi sẽ biến thành kiếp gái già và nỗi cay đắng để rồi cuối cùng bùng nổ
trong một đòn báo thù chết chóc, và tình yêu của Emerald và Zulfikar rồi sẽ cho
phép tôi bắt đầu một cuộc cách mạng, và những lưỡi dao cong, những vầng trăng
sát nhân được lặp lại trong cái tên mẹ “gọi yêu” tôi, chand-ka-tukra thơ ngây của
bà, mảnh tr... yêu dấu của bà... giờ đây, đang lớn dần, bồng bềnh trong bể nước
ối của quá khứ, tôi được nuôi lớn bởi một tiếng ngân vút lên cao mãi cao mãi
cho đến khi đàn chó tới cứu viện, bởi một cuộc đào tẩu vào ruộng ngô và sự giải
cứu xuất phát từ Rashid, cậu trai kéo xe với trò khỉ Gai Wallah khi
cậu chạy - HẾT TỐC LỰC! - và hét lên trong im lặng, khi cậu tiết lộ bí mật của
những ổ khóa Ấn Độ và đưa Nadir Khan vào một buồng vệ sinh có chứa cái tủ giặt;
phải, tôi đang nặng lên theo từng giây, béo ra nhờ tủ giặt và tình yêu
dưới-tấm-thảm của Mumtaz và gã thi sĩ không vần, phính lên khi nuốt giấc mơ của
Zulfikar về chiếc bồn tắm đặt cạnh giường và một lăng Taj Mahal trong lòng đất
và cái ống nhổ bằng bạc khảm thanh kim thạch; một cuộc hôn nhân tan rã, và nuôi
lớn tôi; một bà dì phản bội chạy giữa phố phường Agra, bỏ quên lòng tự trọng,
và nó cũng nuôi lớn tôi; giờ đây những khởi đầu hụt đã chấm dứt, và Amina đã
thôi không là Mumtaz, còn Ahmed Sinai đã trở thành, theo một nghĩa nào đó, cha
cô và đồng thời là chồng cô... di sản của tôi gồm cả năng khiếu này, cái năng
khiếu tự tạo ra cha mẹ mới cho mình mỗi khi cần thiết. Cái quyền năng cho ra
đời những ông bố và bà mẹ: cái điều Ahmed muốn nhưng không bao giờ có được.

Qua
dây nhau của mình, tôi hấp thu những kẻ lậu vé và sự nguy hiểm của việc mua
quạt lông công; sự cần mẫn của Amina rỉ vào tôi, và những thứ đáng ngại hơn -
tiếng bước chân lộp cộp, nhu cầu của mẹ tôi phải nài tiền cho tới khi cái khăn
ăn trong lòng cha tôi bắt đầu run rẩy và dựng lên một túp lều nhỏ - rồi tro hỏa
táng của những chiếc Arjuna Indiabike, rồi cái hộp vạn hoa mà Lifafa Das cố
nhét mọi thứ trên đời vào, rồi bè lũ bất lương thực hiện hành vi phá hoại;
những quái vật nhiều đầu căng phình trong tôi - những quỷ vương Ravana đeo mặt
nạ, những con bé tám tuổi có tật nói ngọng và một hàng lông mày liền, những đám
đông gào thét Kẻ hiếp dâm. Những lời tuyên bố công khai đang nuôi dưỡng tôi lớn
dần đến thời khắc của mình, và chỉ còn bảy tháng nữa thôi.

Biết
bao nhiêu sự vật con người ý tưởng chúng ta mang theo vào thế giới này, bao
nhiêu khả năng và cả sự giới hạn của khả năng! - Bởi hết thảy những điều này
đều là cha mẹ của đứa trẻ ra đời nửa đêm hôm đó, và với mỗi một đứa trẻ nửa đêm
là lại thêm ngần ấy nữa. Trong số cha mẹ của nửa đêm: thất bại của kế hoạch của
Phái đoàn Nội các; quyết tâm của M.A. Jinnah, kẻ sắp chết và muốn thấy Pakistan
ra đời khi ông ta còn sống, và sẽ làm bất kỳ việc gì để đảm bảo điều đó - chính
tay Jinnah mà cha tôi, rẽ nhầm như thường lệ, từng từ chối gặp; rồi Mountbatten
với sự hối hả bất thường và bà vợ khoái ức gà; rồi còn nhiều, nhiều nữa - Thành
Đỏ và Thành Cổ, khỉ và kền kền đánh rơi những bàn tay, rồi những gã lại cái da
trắng, rồi thầy lang bó xương và người luyện chồn và Shri Ramram Seth người
tiên đoán quá nhiều. Và giấc mơ sắp xếp lại kinh Quran của cha tôi cũng có chỗ
của mình; rồi vụ đốt godown đi biến ông thành lái buôn bất động sản thay vì vải
giả da; rồi cái mẩu của Ahmed mà Amina không thể nào yêu. Để hiểu được chỉ một
cuộc đời thôi, quý vị sẽ phải nuốt cả thế giới. Tôi đã bảo rồi.

Rồi
ngư dân, rồi Catharine xứ Braganza, rồi Mumbadevi dừa gạo; tượng Shiva và điền
trang của Methwold; một cái bể bơi hình Ấn Độ thuộc Anh và ngọn đồi cao bằng
tòa nhà hai tầng; một cái ngôi giữa và một cái mũi thừa kế từ Bergerac; một
ngọn tháp đồng hồ không hoạt động và một vòng xuyến nhỏ; nỗi thèm khát một ẩn
dụ Ấn Độ ở một người Anh và hành động quyến rũ vợ một nghệ sĩ phong cầm. Vẹt
đuôi dài, quạt trần, Thời báo Ấn Độ đều là một phần của hành
trang tôi mang vào đời... vậy quý vị có lấy làm lạ rằng tôi là một thằng bé
nặng không? Jesus da xanh rỉ vào tôi; và nỗi tuyệt vọng của Mary, và dã tính
cách mạng của Joseph, và sự nhẹ dạ của Alice Pereira... tất cả đều tạo ra tôi.

Nếu
tôi có vẻ hơi kỳ dị, hãy nhớ tới sự phong phú điên rồ của di sản của tôi… có
lẽ, nếu muốn giữ mình là một cá nhân giữa đám đông lúc nhúc, người ta phải tự
biến mình thành dị dạng..

“Rốt
cuộc,” Padma nói với vẻ thỏa mãn, “anh đã học được cách kể chuyện thực nhanh
rồi đấy.”

13
tháng Tám, 1947: bất hòa trên thiên giới. Sao Mộc, sao Thổ và sao sao Kim đang
kỳ xung khắc; chưa hết, ba ngôi xung tinh này đang di chuyển vào cung hãm nhất.
Các nhà chiêm tinh thành Benares gọi tên nó đầy sợ hãi: “Karamstan! Chúng đi
vào Karamstan!”

Trong
khi các nhà chiêm tinh đưa ra những thông báo hoảng loạn cho các thủ lĩnh đảng
Quốc đại, mẹ tôi ngả mình ngủ trưa. Trong khi Bá tước Mountbatten hối tiếc vì
Ban Tham mưu của mình thiếu những chuyên gia thần bí học, cái bóng quay chầm
chậm của một chiếc quạt trần ru Amina vào giấc ngủ. Trong khi M.A. Jinnah, yên
trí rằng Pakistan của mình sẽ ra đời sau chỉ mười một tiếng nữa, tròn một ngày
trước Ấn Độ độc lập, vốn còn tận ba mươi lăm tiếng, đang giễu cợt những lời
phản đối của các ông thầy tử vi, lắc đầu với vẻ khoái trá, đầu Amina cũng đang
quay qua quay lại.

Nhưng
bà đang ngủ. Và suốt những ngày mang thai nặng như đeo đá ấy, một giấc mơ kỳ
quái về giấy bẫy ruồi không ngừng ám ảnh giờ ngủ của bà... trong đó, lúc này,
như mọi lần, bà đang lang thang trong một quả cầu thủy tinh đầy những dải giấy
nâu dính đu đưa, bám chặt vào quần áo bà và xé toạc chúng ra khi bà vấp lên vấp
xuống giữa rừng giấy không thể xuyên thủng ấy; và giờ bà vật lộn, xé giấy,
nhưng nó túm lấy bà, tới khi bà trần truồng, với đứa trẻ quẫy đạp trong bà, và
đám xúc tu dài của giấy dính ruồi vươn ra chụp lấy cái bụng phập phồng của bà,
giấy dính chặt vào tóc mũi răng vú đùi bà, và khi bà há miệng toan kêu thì một
nùi giấy nâu dính chẹn ngang đôi môi vừa hé mở.

“Amina
Begum!” Musa gọi. “Dậy đi! Ác mộng, Begum Sahiba!”

Những
sự kiện của vài tiếng cuối cùng ấy - chỗ cặn cuối cùng trong di sản của tôi:
khi còn ba mươi lăm tiếng nữa, mẹ tôi mơ thấy bà bị dính vào thứ giấy nâu như
một con ruồi. Và vào giờ cocktail (ba mươi tiếng nữa) Wiiliam Methwold đến thăm
cha tôi ở khu vườn của Biệt thự Buckingham. Ngôi giữa sải bước bên cạnh và bên
trên ngón cái, Ngài Mechwold hồi tưởng lại. Những câu chuyện về Methwold đầu
tiên, người đã mơ thành phố này thành hiện thực, lấp đầy bầu không khí buổi tối
trong ánh hoàng hôn sau chót ấy. Và cha tôi - bập bẹ giọng Oxford lè nhè, nóng
lòng gây ấn tượng với tay người Anh sắp ra đi - bèn đáp, “Thật ra, nhà tôi cũng
là một dòng họ khá danh giá. ông bạn già ạ.” Methwold lắng nghe: đầu ngửa lên,
hoa hồng đỏ nơi ve áo màu kem, mũ rộng vành che mái tóc rẽ ngôi, một tia thích
thú kín đáo trong mắt... Ahmed Sinai, được whisky bôi trơn, bị sự ngạo mạn thôi
thúc, hào hứng tiếp tục đề tài ấy. “Dòng dõi Mughal, thực tế là vậy.” Thế là
Methwold, “Không! Thật à? Ông bỡn tôi chứ hả?”Và Ahmed, đã trót đi quá xa, đành
phải tiếp tục. “Ngoại hôn, tất nhiên; nhưng Mughal, chắc chắn đấy.”

Đó
là chuyện, ba mươi tiếng trước khi tôi ra đời, cha tôi đã cho thấy ông cũng
khát khao những tổ tiên hư cấu ra sao... ông đã đi đến chỗ sáng chế ra một cây
phả hệ mà, nhiều năm sau đó, khi whisky đã xóa mờ ký ức và những chai-tửu-tinh
làm ông lẫn lộn, sẽ xóa sạch đi mọi vết tích của hiện thực ra sao... và, để gia
cố cho luận điểm của mình, ông đã mang vào đời chúng tôi ý tưởng về lời nguyền
của dòng họ như thế nào.

“Chính
thế,” cha tôi nói khi Methwold ngửa mái đầu u ám không cười, “nhiều gia tộc lâu
đời có những lời nguyền như thế. Trong dòng họ nhà tôi nó được truyền từ con
trai cả cho con trai cả - chỉ bằng chữ viết, bởi nói ra không thôi cũng đủ giải
phóng quyền năng của nó, ông biết đấy.” Và giờ Methwold: “Hay thật! Và ông biết
những lời ấy?” Cha tôi gật đầu, môi trề ra, ngón chân bất động khi ông gõ trán
để nhấn mạnh. “Ở đây cả; nhớ nằm lòng hết. Chưa có ai động đến từ khi một cụ tổ
cãi lộn với Hoàng đế Babar và buông lời nguyền lên chính con trai mình
Humayun... câu chuyện kinh khủng, mà... bọn học trò ai cũng biết.”


rồi sẽ đến lúc cha tôi, vật lộn trong sự lẩn tránh tuyệt đối khỏi hiện thực, tự
nhốt mình trong một căn phòng màu xanh và cố nhớ lại một lời nguyền ông đã mơ
ra vào một buổi tối trong vườn nhà mình khi ông đứng gõ tay lên thái dương cạnh
hậu duệ của William Methwold.

Giờ
đây, bị trói cùng những giấc mơ về giấy bẫy ruồi và các tổ tiên tưởng tượng,
tôi vẫn còn hơn một ngày nữa mới ra đời... nhưng giờ tiếng tích tắc lạnh lẽo
kia tái lập vị thế của mình: còn hai mươi chín tiếng, hai mươi tám, hai mươi
bảy...

Còn
những giấc mơ nào được mơ vào cái đêm cuối cùng ấy? Có phải là - phải rồi, sao
lại không? - Bác sĩ Narlikar, không hề biết về tấn kịch sắp xảy ra ở Nhà Hộ
sinh của mình, đã lần đầu tiên mơ về tetrapod? Có phải vào cái đêm cuối cùng
ấy, trong khi Pakistan đang ra đời ở phía Bắc và Tây của Bombay - cậu Hanif
tôi, người đã chuyển (giống chị mình) đến Bombay, và đem lòng yêu một nữ diễn
viên, nàng Pia thần thánh (“Gia tài của nàng là gương mặt!” tờ Illustrated
Weekly
từng viết), lần đầu tiên tưởng tượng ra cái thiết bị điện ảnh
rồi sẽ sớm mang đến cho ông bộ phim đầu tiên trong ba phim bom tấn của ông?...
Có vẻ lắm; thần thoại, ác mộng, truyền kỳ đều có trong không khí. Có điều này
là chắc chắn: vào cái đêm cuối cùng ấy, ông tôi Aadam Aziz, giờ còn lại một
mình ở ngôi nhà cổ lớn trên đường Cornwallis - ngoại trừ bà vợ mà sức mạnh ý
chí dường như tăng lên trong khi Aziz kiệt quệ đi vì tuổi tác, và một cô con
gái, Alia, mà sự đồng trinh cay đắng sẽ kéo dài đến ngày một quả bom chẻ bà làm
đôi mười tám năm sau đó - bỗng nhiên bị giam cầm trong những đai kim loại khổng
lồ của hoài niệm, và nằm thao thức khi chúng đè siết lên ngực ông; đến khi cuối
cùng, vào năm giờ sáng 14 tháng Tám - còn mười chín tiếng nữa - ông bị một sức
mạnh vô hình đẩy khỏi giường và kéo tới trước một cái thùng tôn cũ. Mở nó ra,
ông thấy: những tạp chí tiếng Đức cũ; cuốn Làm gì? của Lenin;
một tấm thảm cầu nguyện được gấp lại; và cuối cùng là thứ mà ông vừa cảm thấy
một nỗi thôi thúc không cưỡng nổi phải nhìn lần nữa - trắng, được gấp lại và
tỏa sáng yếu ớt dưới ánh bình minh - ông tôi lấy ra, từ chiếc thùng tôn của quá
khứ, một tấm ga giường ố bẩn và khoét lỗ, và phát hiện thấy cái lỗ đã to ra;
thấy có những lỗ khác, nhỏ hơn trên mặt vải xung quanh; và bị bóp nghẹt trong
cơn thịnh nộ điên cuồng của niềm hoài nhớ ông lay vợ dậy và làm bà sửng sốt khi
ông vừa quát lên vừa vung vẩy lịch sử của bà trước mũi bà:

“Nhậy
cắn! Nhìn xem, Begum: nhậy cắn! Bà quên không bỏ băng phiến rồi!”

Nhưng
giờ tiếng đếm ngược không chối bỏ được nữa... mười tám tiếng; mười bảy; mười
sáu... và tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar, đã có thể nghe thấy tiếng thét
của một phụ nữ đang đau đẻ. Wee Willie Winkie đang ở đây; với vợ anh Vanita; cô
ở trong tình trạng đau đẻ kéo dài, không có kết quả đã tám tiếng đồng hồ. Cơn
đau đầu tiên nhói lên đúng lúc, cách đấy hàng trăm cây số, M.A. Jinnah tuyên bố
sự ra đời vào nửa đêm của một quốc gia Hồi giáo... nhưng cô vẫn quằn quại trên
một cái giường trong “buồng từ thiện” của Nhà Narlikar (dành riêng cho con nhà
nghèo)... mắt cô lồi phân nửa ra khỏi đầu; người cô bóng nhẫy mồ hôi, nhưng đứa
bé không tỏ vẻ gì là sắp chui ra, và bố nó cũng không có mặt; lúc này là tám
giờ sáng, nhưng, theo tình hình này, vẫn có khả năng là đứa bé đang chờ đến nửa
đêm.

Tin
đồn trong thành phố: “Đêm qua bức tượng lại phi!”… “Và các tinh tú đang không
thuận!”... Nhưng bất chấp những điềm chẳng lành này, thành phố vẫn bình thản,
với một huyền sử mới lóe lên nơi khóe mắt, Tháng Tám ở Bombay: tháng của hội
hè, tháng của sinh nhật Krishna và Ngày Dừa: riêng năm nay - mười bốn tiếng
nữa, mười ba, mười hai - trên lịch còn có thêm một ngày lễ nữa, một huyền sử
mới để ăn mừng, vì một đất nước trước đây chưa từng tồn tại sắp sửa giành được
tự do, phóng chúng ta vào một thế giới mà dù có năm ngàn năm lịch sử, dù đã
phát minh ra cờ vua và thông thương với Ai Cập thời Trung đế chế[2],
vẫn chỉ hoàn toàn là tưởng tượng vào một xứ sở huyền bí, một đất nước sẽ chẳng
bao giờ tồn tại nếu không có những nỗ lực của một ý chí tập thể phi thường -
nếu không phải trong một giấc mơ mà chúng ta đều sẵn lòng mơ; đó là một ảo tưởng
tập thể được chia sẻ từ nhiều góc độ giữa người Bengal và Punjab, Madras và
Jat, và theo định kỳ sẽ cần được thánh hóa và tái sinh, điều chỉ có thể thực
hiện được bằng những nghi lễ của máu. Ấn Độ, huyền sử mới - một tiểu thuyết tập
thể mà trong đó mọi thứ đều là có thể, một ngụ ngôn mà chỉ hai huyền thoại vĩ
đại khác mới xứng là đối thủ: tiền và Chúa.

[2]
Nguyên tác: Middle Kingdom Egypt, vương quốc Ai Cập thời kỳ 2080-1640 trước
Công nguyên.

Tôi
đã là, trong thời của tôi, bằng chứng sống cho bản chất hoang đường của giấc mơ
tập thể này; nhưng tạm thời, tôi phải chia tay với những ý tưởng khái quát, vĩ
mô này để tập trung vào một nghi lễ riêng tư hơn; tôi sẽ không miêu tả những vụ
đổ máu tập thể đang diễn ra ở biên giới tỉnh Punjab bị tách (nơi những quốc gia
bị chia cắt đang tắm mình trong máu của nhau, và một tay Thiếu tá Zulfikar mặt
hề Punchinello[3]đang mua lại điền sản của dân tị nạn với giá thấp
đến lố bịch, đặt nền tảng cho một gia tài sẽ cạnh tranh được với Thủ hiến bang
Hyderabad); tôi sẽ ngoảnh mặt không nhìn cảnh lực ở Bengal và cuộc đi bộ dài vì
hòa bình của Mahatma Gandhi. Ích kỷ? Đầu óc hẹp hòi? À, có thể; nhưng theo ý
tôi thì có thể thông cảm được. Nói cho cùng, ai cũng chỉ sinh ra có một lần.

[3]
Nhân vật trong hài kịch dân gian của Ý, có cái mũi khoằm và nhọn.

Còn
mười hai tiếng nữa. Amina Sinai, vừa tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng giấy bẫy ruồi,
sẽ không ngủ lại cho đến sau... Ramram Seth đang choán hết đầu bà, bà đang lênh
đênh giữa một vùng biển động nơi những con sóng của niềm háo hức xen lẫn với
những hố thẳm đen ngòm, váng vất, đẫm nước của nỗi sợ hãi. Nhưng còn gì đó khác
cũng đang hoạt động. Hãy nhìn tay bà - khi, không hề có chỉ dẫn của ý thức,
chúng ấn mạnh lên bụng bà; hãy nhìn môi bà, mấp máy mà bà không hề biết, “Nào,
rùa con, con không muốn bị hụt lên báo chứ!”

Còn
tám tiếng nữa... vào bốn giờ chiều hôm đó, William Methwold lái chiếc 1946
Rover đen lên ngọn đồi cao bằng hai tầng nhà. Ông ta đỗ xe ở vòng xuyến giữa
bốn tòa biệt thự quý tộc; nhưng hôm nay ông ta không thăm ao cá hay vườn xương
rồng; ông ta không chào Lila Sabarmati với câu cửa miệng, “Cái pianola sao rồi?
Mọi thứ ngon lành cả chứ” - và ông ta cũng không chào ông lão Ibrahim đang ngồi
dưới bóng râm của mái hiên tầng trệt, đu đưa trên chiếc ghế đu và ngẫm ngợi về
cây sisal; không nhìn đến cả Catrack lẫn Sinai, ông ca đứng vào vị trí chính
giữa vòng xuyến. Hoa hồng trên ve áo, mũ màu kem áp cứng trước ngực, ngôi giữa
lấp lánh dưới nắng chiều, William Methwold đăm đăm nhìn ra trước mặt, qua tháp
đồng hồ và đường Warden, vượt bể bơi hình bản đồ của Breach Candy, qua những
con sóng vàng lúc bốn giờ chiều, và giơ tay chào; trong khi ngoài xa, phía trên
chân trời, mặt trời bắt đầu đường lặn dài về phía biển.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3