Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 01 - Phần 1

Quyển 1

Chương
1: Tấm ga giường khoét lỗ

Tôi
ra đời ở thành phố Bombay... ngày xửa ngày xưa. Không, như thế không
được, không thể né tránh ngày tháng được: Tôi ra đời tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ
Narlikar vào 15 tháng Tám năm 1947. Thế còn giờ? Giờ cũng quan trọng chứ. Ờ
thì: về đêm. Không, nhất thiết phải rõ hơn... Đúng nửa đêm, nói thế cho
nhanh. Những cây kim đồng hồ thành kính chắp tay chào đón tôi ra đời. Ôi
dào, nói toẹt ra đi, nói toẹt ra đi: chính vào thời khắc Ấn Độ giành độc
lập, tôi bổ nhào ra giữa thế gian. Trong tiếng hổn hển. Và, ngoài cửa sổ, là
pháo hoa và đám đông. Chỉ vài giây sau, cha tôi bị giập ngón chân cái; nhưng
tai nạn ấy chỉ là chuyện vặt nếu đem đặt cạnh điều đã giáng xuống đầu tôi giữa
giờ phút tăm tối ấy, bởi dưới ách áp chế ma quái của đám đồng hồ đang bình
thản chào tôi kia, tôi đã bị còng tay một cách bí hiểm vào lịch sử, vận mệnh
của tôi đã bị xiềng xích không thể chia lìa với đất nước tôi. Suốt ba thập niên
kế tiếp, tôi đừng hòng trốn thoát. Thầy bói tiên đoán về tôi, báo chí tung hô
sự xuất hiện của tôi, chính trị gia công nhận tính xác thực của tôi. Tôi chẳng
có tiếng nói gì trong chuyện này sất. Tôi, Saleem Sinai, về sau được gọi bằng
đủ thứ tên, từ Thò Lò, Mặt Nhọ, Hói, Cả Khịt, Phật Tổ, cả Mảnh Trăng nữa,
đã bị trói buộc chặt chẽ với Vận Mệnh - một kiểu liên đới nguy hiểm kể cả
vào ngày đẹp trời nhất. Mà lúc ấy đến tự chùi mũi tôi còn chưa làm nổi.

Giờ
đây, tuy vậy, thời gian (chẳng có ích gì cho tôi nữa) đang cạn dần. Tôi sắp ba
mươi mốt tuổi. Chắc vậy. Nếu cơ thể rệu rã, lao lực của tôi cho phép. Nhưng
tôi không hy vọng cứu được mạng mình, cũng chẳng thể trông chờ có được dù chỉ
một ngàn lẻ một đêm. Tôi phải làm việc thật nhanh, nhanh hơn nàng Scheherazade,
nếu muốn rốt cuộc mình có ý nghĩa - phải, có ý nghĩa - nào đấy. Tôi thừa nhận:
hơn tất thảy, tôi sợ sự vô nghĩa.


chuyện để kể thì lại rất nhiều, quá nhiều, vô vàn cuộc đời sự kiện phép lạ nơi
chốn tin đồn xoắn xuýt vào nhau, một sự pha trộn đặc quánh của hoang đường
và phàm tục! Tôi vốn là kẻ nuốt tươi những cuộc đời; và để biết tôi, chỉ một
thằng tôi thôi, quý vị cũng sẽ phải nuốt cho bằng hết. Vô số thứ bị tiêu
hóa đang chen lấn xô đẩy trong tôi; và được định hướng bởi duy nhất ký ức về
một tấm ga giường lớn màu trắng, chính giữa có một lỗ thủng khá tròn đường
kính độ hai mươi xăng ti mét; nắm chặt giấc mơ về mảnh vải lanh thủng, tàn
khuyết ấy, lá bùa hộ mệnh, câu thần chú vừng-ơi-mở-ra ấy của tôi, tôi phải
khởi sự tái tạo cuộc đời mình từ thời điểm nó thực sự bắt đầu, khoảng ba
mươi hai năm trước bất kỳ sự kiện nào hiển nhiên và hiện tại như
sự ra đời bị đồng hồ chi phối và tội ác vấy bẩn của tôi.

(Tấm
vải, thật tình cờ, cũng vấy bẩn, với ba giọt đỏ đã cũ, bạc màu. Như kinh Quran đã
dạy: Hãy tụng, nhân danh Chúa, Đấng Sáng Tạo của ngươi, người tạo ra
Con Người từ những hòn máu.)

Một
buổi sớm Kashmir đầu xuân 1915, ông ngoại tôi
Aadam Aziz vập mũi vào một búi cỏ lẫn đất bị sương giá đông cứng lại
khi toan cầu nguyện. Ba giọt máu rớt xuống từ lỗ mũi bên trái, đông cứng
lại tức thì giữa bầu không khí giòn tan và nằm trước mắt ông trên tấm thảm, đã
hóa thành hồng ngọc. Lảo đảo ngẩng lên, đến khi người vẫn quỳ nhưng đầu một
lần nữa đã vươn thẳng dậy, ông thấy nước mắt vừa ứa ra đã đông cứng lại; và
vào thời khắc ấy, khi khinh miệt; dụi những hạt kim cương khỏi bờ mi, ông đã
quyết không bao giờ hôn đất vì bất kỳ đức chúa hay người nào nữa. Có điều,
quyết định này đã để lại trong ông một cái lỗ, một khoảng trống giữa một khoang
nội thể trọng yếu, khiến ông dễ tổn thương trước đàn bà và lịch sử. Nhất
thời chưa ý thức được điều này, tuy vừa tốt nghiệp y khoa, ông đứng dậy, cuộn
tấm thảm thành một điếu xì gà lớn, kẹp nó vào nách và ngắm thung lũng bằng đôi
mắt sáng, sạch bóng kim cương.

Thế
giới đã thanh tân trở lại. Sau mùa đông thai nghén dưới lớp vỏ băng, thung
lũng đã lấy mỏ phá vỏ chui ra, ẩm ướt và vàng ươm. Cỏ non nằm dưới đất đợi
thời; những dãy núi lui về đóng trại trên đồi trong mùa ấm. (Vào đông, khi
thung lũng co mình dưới lớp băng, núi lại tiến sát vào và gầm ghè như những
hàm răng giận dữ bao vây thành phố bên hồ.)

Hồi
ấy cột sóng phát thanh chưa được dựng lên và đền Sankara Acharya,
một nốt rộp đen trên quả đồi màu kaki, vẫn ngự trị những đường phố và
hồ nước của Srinagar. Hổi ấy chứa có trại lính đóng bên hồ, chưa
có hàng đoàn xe tải và xe jeep như những con rắn dài bất tận nằm kẹt
trên đường núi chật hẹp, chưa có quân lính nấp sau những chỏm núi bên kia
Baramualla và Gulmarg. Hồi ấy du khách chưa bị bắn như gián điệp vì chụp ảnh
những cây cầu, và, trừ những nhà thuyền của người Anh trên hồ, thung lũng hầu
như không thay đổi từ thời Đế chế Mughal, bất kể bao lần hồi sinh lúc vào
xuân; nhưng đôi mắt của ông tôi - cũng hai mươi lăm tuổi như những phần còn lại
- lại thấy mọi thứ khác đi... và mũi ông bắt đầu ngứa.


mật về cái nhìn đổi khác của ông tôi: đã năm năm, năm mùa xuân, ông ở xa nhà.
(Búi cỏ lẫn đất nọ, tuy đóng vai trò cốt yếu khi náu mình dưới nếp gấp vô tình
của tấm thảm cầu nguyện, nói cho cùng, cũng chỉ là chất xúc tác không hơn.)
Giờ đây, khi trở về, ông nhìn bằng đôi mắt đã đi nhiều. Thay vì cái đẹp của
thung lũng tí hon bị vây bọc giữa hàm răng khổng lồ, ông nhận thấy cái chật
chội, cái tiệm cận của chân trời; và thấy buồn, khi về lại quê nhà và cảm
thấy cực kỳ tù túng. Ông cũng cảm thấy - một cách khó lý giải - dường như mảnh
đất cũ chán ghét sự trở về đem theo học vấn và ống nghe của ông. Bên dưới lớp
băng mùa đông, nó từng tỏ ra lạnh lùng vô cảm, nhưng giờ thì không nghi ngờ gì
nữa: những năm ở Đức đã trả ông về với một môi trường thù địch. Nhiều năm
sau, khi cái lỗ trong ông đã chất đầy thù hận, và ông tìm đến tự hiến sinh
trước điện thờ vị thần đá đen ở ngôi đền trên đồi, ông sẽ cố hồi tưởng lại những
mùa xuân thơ ấu tại Thiên Đường, trước khi những cuộc viễn du và búi cỏ và xe
tăng làm đảo lộn tất cả.

Vào
cái buổi sáng khi thung lũng, xỏ chiếc găng là tấm thảm cầu nguyện, đấm vào
mũi ông, ông đang cố gắng, một cách kỳ cục, vờ như không có gì thay đổi. Cho
nên ông đã dậy giữa cái lạnh cắt da lúc bốn giờ mười lăm, rửa mặt theo đúng
nghi thức, mặc đồ và đội chiếc mũ lông cừu cha ông để lại; tiếp đó, ông cắp tấm
thảm cuộn hình điếu thuốc ra mảnh vườn ven hồ trước ngôi nhà cũ tối tăm, rồi
trải nó ra trên búi cỏ đang chờ đợi. Đất mềm mại một cách giả trá dưới chân ông
và làm ông vừa thấp thỏm vừa không phòng bị. “Nhân danh Chúa, Đấng Đại Lượng,
Đấng Từ Bi...” - lời khởi nguyện, được thốt lên với hai bàn tay đặt trước ngực
như một cuốn sách, trấn an một phần của ông, song lại khiến một phần
khác, lớn hơn, thấy bất an - “Xin ngợi ca Allah, Đấng Sáng Thế...” -
nhưng giờ Heidelberg đã xâm chiếm đầu ông; đây
là Ingrid, từng là Ingrid của ông một thời gian ngắn, nét
mặt giễu cợt ông vì trò con vẹt hướng về Mecca này; còn đây là bạn
họ, Oskarvà Ilse Lubin, hai kẻ vô chính phủ, nhạo báng lễ cầu
nguyện của ông bằng các phản-ý-thức-hệ của họ - “... Đấng Đại Lượng,
Đấng Từ Bi, Chúa Tể của Ngày Phán Quyết Cuối Cùng!...”Heidelberg, nơi,
cùng với y học và chính trị, ông được dạy rằng Ấn Độ - cũng
như radium - đều do người châu Âu “khám phá” ra; kể cả Oskar cũng
hết lòng hâm mộ Vasco da Gama, và đây là điều rốt cuộc đã tách
Aadam Aziz khỏi bạn bè anh, khỏi niềm tin của họ rằng, bằng cách nào
đó, anh là phát minh của tổ tiên họ - “Riêng Người chúng con tôn thờ,
riêng Người chúng con cầu xin cứu vớt...” - vậy là ông ở đây, bất
chấp sự hiện hữu của họ trong đầu, cố gắng tái hợp bản thân với một bản ngã
cũ, vốn không biết đến ảnh hưởng của họ nhưng biết tất cả những gì cần biết,
chẳng hạn như về sự sùng đạo, về điều ông đang làm, khi hai bàn
tay ông, dưới sự dẫn dắt của những ký ức xa xưa, giơ lên cao, ngón cái áp vào
tai, các ngón kia xòe ra, khi ông phủ phục xuống - “Chỉ cho chúng con lối
thẳng, lối của kẻ được Người ưu ái...” Nhưng chẳng ích gì, ông bị mắc lại
giữa một chốn lưng chừng xa lạ, bị kẹt giữa niềm tin và hoài nghi, và rốt
cuộc đây chỉ là một trò giễu nhại - “... Không phải lối của kẻ hứng chịu
thịnh nộ của Người, Không phải lối của kẻ lầm lạc.” Ông tôi dập đầu xuống đất.
Cứ thế ông dập đầu, và mặt đất, phủ lớp thảm cầu nguyện, cuộn lên phía ông.
Và giờ tới lượt búi cỏ. Cùng lúc với lời khiển trách
của Ilse-Oskar-Ingrid-Heidelberg, cũng như của thung-lũng-và-Thượng-đế,
giáng trúng chóp mũi ông. Ba giọt máu nhỏ xuống. Sau hồng ngọc là kim cương.
Và ông tôi, lảo đảo ngồi thẳng dậy, đã hạ quyết tâm. Đứng lên. Quấn
điếu thuốc. Đăm đăm nhìn ra hồ. Và bị đẩy xuống chốn lưng chừng
ấy mãi mãi, không thế sùng bái một Chúa Trời mà sự tồn tại ông không thể hoàn
toàn bất tín. Sự thay đổi vĩnh viễn: một cái lỗ.

Chàng
bác sĩ trẻ, vừa tốt nghiệp Aadam Azizđúng đối diện mặt hồ mùa xuân,
hít vào hơi hướm của đổi thay; trong lúc lưng anh (cực kỳ thẳng) quay lại với
nhiều đổi thay hơn thế. Bố anh đã đột quỵ lúc anh ở nước ngoài, và
mẹ anh đã giữ kín điều này. Giọng mẹ anh, rầm rì đầy cam
chịu: “... Vì việc học của con quá quan trọng, con trai.” Bà
mẹ này, suốt đời quanh quẩn trong nhà, dưới lớp purdaḥ̣[1],
bỗng nhiên tìm thấy một sức mạnh lớn lao để bước ra quản lý một
hiệu buôn đá quý nhỏ (lam ngọc, hồng ngọc, kim cương), cái cửa hiệu
đã giúp Aadam học hết y khoa, với sự trợ giúp của một suất học
bổng; thế nên khi trở về nhà anh thấy cái trật tự tưởng chừng không
thể đảo lộn trong gia đình bị lật tung lên, mẹ anh ra ngoài buôn bán
trong khi cha anh ngồi ẩn sau tấm mạng mà cơn đột quỵ đã buông xuống
não ông... trên chiếc ghế gỗ, giữa gian phòng tối, ông ngồi phát ra
tiếng chim. Ba mươi loài chim khác nhau đến thăm ông, đậu trên bậu cửa
chớp phòng ông trao đổi chuyện này chuyện nọ. Trông ông cũng khá vui.

[1]Purdah:
mạng che mặt của phụ nữ Ấn Độ theo đạo Hồi hoặc HinDu.

(...
Chưa gì tôi đã thấy những sự trùng hợp bắt đầu: chẳng phải bà tôi
cũng tìm được một sức mạnh phi thường đó sao... còn cơn đột quỵ
nữa, nó đâu phải là duy nhất... rồi con Khỉ Đồng cũng có bầy chim
của nó... lời nguyền đã bắt đầu, mà ta vẫn chưa đến được chuyện
cái mũi!)

Mặt
hồ không còn đóng băng nữa. Băng rất mau tan, như thường lệ; rất nhiều
thuyền nhỏ, những chiếc shikara[2], còn đang dở giấc, và đây
cũng là chuyện bình thường. Nhưng trong khi mấy gã lừ đừ ấy vẫn ngủ nướng,
trên đất khô, ngáy ngon lành bên cạnh chủ nhân, con thuyền già nhất đã
thức dậy khi băng nứt, giống như người già vẫn vậy, và bởi thế là chiếc
thuyền đầu tiên bơi trên mặt hồ vừa tan băng. Chiếc shikara của Tai... cả
điều này, cũng đã thành thông lệ.

[2]
Loại thuyền đáy bằng, thường được dùng làm nhà ở trên sông, đặc
trưng của dân Kashmir.

Hãy
xem lão lái đò Tai mau chóng xuyên qua mặt nước mờ sương, khom lưng
đứng ở đuôi thuyền! Nhìn chiếc bơi chèo, một trái tim gỗ gắn
trên đoạn cán màu vàng, giần giật rẽ qua lau sậy! Ở vùng này lão bị coi là kỳ
quặc bởi lão chèo đứng... và vì những lý do khác nữa. Tai, mang một lời gọi gấp
tới cho Bác sĩ Aziz, sắp khởi động vòng quay của lịch sử...
trong khi Aadam, nhìn xuống dòng nước, hồi tưởng những gì Tai dạy anh
nhiếu năm trước: “Băng giá luôn chờ đợi, Aadam baba[3], ngay
dưới mặt nước thôi.” Mắt Aadam xanh biếc, màu xanh đáng kinh ngạc của bầu
trời vùng núi, vẫn có thói quen rót vào đồng tử của đàn
ông Kashmir; họ vẫn còn chưa quên mất cách nhìn. Họ thấy – đó! Như
một bộ xương của hồn ma, ngay dưới mặt nước Hồ Dal! – những hoa văn
tinh xảo, những đan xen phức tạp của các mạch ngầm không màu sắc,
những dòng chảy lạnh lẽo của tương lai đang chờ đợi. Những năm
tháng ở Đức, mặc dù xóa nhòa rất nhiều điều, vẫn chưa
tước đi của anh nhãn lực. Món quà của Tai. Anh ngẩng lên, thấy rẽ nước chữ V
của con thuyền đang đến gần, liền vẫy tay. Tai giơ tay - nhưng đây là mệnh
lệnh. “Chờ!” Ông tôi chờ; và nhân khoảng lặng này, khi ông trải qua phút bình
yên cuối cùng trong đời, một thứ bình yên mù mờ, âm ám, tốt hơn tôi nên
quay sang miêu tả ông.

[3]
Baba: cách gọi thân mật dành cho một cậu con trai trong tiếng Hindu.

Gạt
khỏi giọng nói nỗi ghen tị tự nhiên của một gã xấu xí trước một người đẹp
trai lồng lộng, tôi ghi nhận Bác sĩ Aziz là người cao lớn. Đứng áp
vào tường ở nhà, anh đo được hai mươi lăm viên gạch (mỗi viên cho
một năm tuổi đời), tức một mét chín mươi. Và tráng kiện. Râu anh rậm và đỏ - nó
làm mẹ anh khó chịu, bà bảo chỉ các Haji, người đã hành hương đến Mecca, mới
được mọc râu đỏ. Mái tóc, tuy vậy, sẫm hơn đôi chút. Đôi mắt màu trời quý vị
biết rồi.Ingrid từng bảo, “Họ đã phát điên với bảng màu khi nặn mặt anh.”
Nhưng đặc điểm chủ đạo ở hình thể ông tôi không phải màu sắc hay chiều cao,
không phải sức mạnh của tay hay độ thẳng của lưng. Nó đó, phản chiếu trên
nước, vẫy vùng như một quả chuối dại giận dữ giữa mặt ông...
Aadam Aziz, trong lúc đợi Tai, quan sát cái mũi đang nổi sóng. Nó
sẽ dễ dàng nổi bật trên những khuôn mặt kém ấn tượng hơn; ngay cả ở ông, nó
vẫn là cái người ta thấy đầu tiên và sẽ nhớ lâu nhất. “Một cyranose,[4]” Ilse Lubin
nói, và Oskar bổ sung, “Một proboscissimus[5]”Ingrid tuyên
bố, “Anh dùng cái mũi ấy sang sông được đấy.” (Phần sống mũi rất rộng.[6])

[4]
Cyranose = Cyrano + nose. Nose là cái mũi,
cònCyrano [de Bergerac] là nhân vật chính trong vở kịch
cùng tên của Edmond Rostand, nổi tiếng với chiếc mũito.

[5] Một
từ do Oskar đặt ra, nghe giống một thuật ngữ Latin, bắt nguồn từ
chữ proboscis có nghĩa là vòi voi.

[6] Trong
tiếng Anh, chữ bridge vừa có nghĩa là sống mũi, vừa có nghĩa
là cái cầu.

Cái
mũi của ông tôi: lỗ mũi loe ra, tròn trịa như thân hình vũ nữ. Gồ lên ở
giữa là khải hoàn môn của nó, lượn lên, vươn ra, rồi đổ xuống,
trải rộng tới môi trên với một nét hất hoàn hảo, lúc này chóp đang nhuốm đỏ.
Một cái mũi rất dễ bị vập vào búi cỏ. Tôi muốn ghi lại lòng biết
ơn của mình với bộ phận vĩ đại này - vì nếu không có
nó, ai sẽ tin tôi đích thực là con trai mẹ tôi, cháu ngoại ông
tôi? - cái cơ quan hùng vĩ nghiễm nhiên thuộc về tôi từ lúc lọt lòng ấy. Cái
mũi của Bác sĩ Aziz - chỉ có thể sánh với chiếc vòi của thần Ganesh đầu voi -
đã nghiễm nhiên xác lập quyền vị gia trưởng của ông. Chính Tai đã dạy ông điều
đó. Khi Aadam mới sắp dậy thì, người lái đò hoang phế đã nói, “Đấy là cái mũi
để gây dựng gia đình đấy, tiểu vương tử ạ. Không thể nhầm lẫn đâu là hậu duệ
của nó được. Các đại đế Mughal sẵn sàng chặt bàn tay phải để đổi lấy cái mũi
như vậy. Hàng vương triều đang chờ trong đó,” - đến đây giọng Tai sa vào cục
cằn - “như gỉ mũi.”


Aadam Aziz, cái mũi biểu hiện vị thế gia trưởng. Ở mẹ tôi, trông nó
cao quý và có phần nhẫn nại; ở dì Emerald, hợm hĩnh; ở bác Alia,
học thức; ở cậu Hanif nó là bộ phận của một kẻ có tài không gặp vận;
cậu Mustapha biến nó thành bộ khịt của kẻ về nhì; con Khỉ Đồng thoát khỏi nó
hoàn toàn, nhưng ở tôi - ở tôi, đó lại là chuyện khác nữa. Nhưng tôi không được
tiết lộ hết bí mật của mình một lúc.

(Tai
đang đến gần. Lão, người hé lộ quyền năng của cái mũi, người mang đến cho ông
tôi thông điệp sẽ phóng ông vào tương lai, đang chèo chiếc shikara vượt qua mặt
hồ buổi sớm...)

Không
ai nhớ nổi đã bao giờ Tai trẻ. Lão đã miệt mài bơi con thuyền ấy, đứng dáng
đứng còng lưng ấy, qua lại Hồ Dal và Nageen... từ vạn kỷ. Người ta chỉ biết đến
thế. Lão sống đâu đó trong mấy ngõ ngách bẩn thỉu ở xóm nhà gỗ cũ, vợ lão trồng
ngó sen và đủ thứ rau cỏ kỳ lạ khác trên một trong nhiều mảnh “vườn nổi” dập
dềnh trên mặt hồ hai mùa xuân hạ. Chính Tai vui vẻ nhận rằng lão chịu không nhớ
mình bao nhiêu tuổi. Vợ lão cũng vậy - lúc lấy nhau là lão đã
nhăn nheo rồi, bà bảo. Gương mặt lão là một bức phù điêu của gió trên nước:
từng nếp sóng làm bằng da người. Lão còn độc hai cái răng vàng. Ở thị trấn, lão
ít bạn bè. Đám chèo đò và lái buôn ít ai rủ lão làm một hơi hookah[7] mỗi
lần lão bồng bềnh bơi qua chỗ neo thuyền hay một trong rất nhiều hàng xén và
quán trà xập xệ ven hồ.

[7]
Một dụng cụ để hút thuốc của người Ả Rập, lọc khói thuốc qua một bình nước
trước khi đi vào ống hút

Nhận
xét khái quát về Tai từng được nhà buôn đá quý, bố của
Aadam Aziz, đúc kết từ xưa: “Óc lão ấy đã rụng mất cùng răng.”
(Nhưng nay Aziz Sahib già đã ngồi đờ đẫn giữa tiếng chim ríu
rít, trong khi Tai vẫn bình thản, uy nghi, tiếp tục.) Đó là một ấn tượng
được người lái đò bồi đắp nên từ những câu chuyện của lão, kỳ quái, khoa
trương, bất tận, và thường không chỉ cho mình lão nghe. Tiếng lão lan xa trên
mặt nước, và cư dân trên hồ cười rúc rích trước những đoạn độc thoại của lão;
song với niềm kính nể, thậm chí sợ hãi, ngấm ngầm. Kính nể, bởi lão dở hơi này
biết từng mặt hồ, quả đổi rõ hơn mọi kẻ phỉ báng lão; sợ hãi, bởi lão sở hữu
một sự cổ xưa vĩ đại đến độ thách thức phép đếm, hơn nữa, nó đeo trên cái cổ gà
của lão nhẹ tênh đến mức chẳng hề cản trở lão giành được một bà vợ rất đáng
thèm muốn và làm với bà bốn mặt con... và chưa hết, còn vài đứa nữa với vài bà
vợ bên hồ khác. Mấy gã trai trẻ ở bến thuyền chắc mẩm lão có một đống tiền giấu
đâu đấy - cả một kho, chắc vậy, răng vàng vô giá, lọc xọc như hồ đào trong bị.
Nhiều năm sau, khi Bác Puffs dỗ tôi cưới con gái bác với đề xuất sẽ nhổ răng cô
ả ra thay bằng răng vàng, tôi lại nhớ đến kho báu thất truyền của Tai... và,
ngày còn bé, Aadam Aziz từng yêu quý lão.

Lão
cần mẫn kiếm sống bằng nghề chèo đò, bất chấp những tin đồn về sự giàu có, chở
nào cỏ khô nào dê nào rau quả nào củi qua sông lấy tiền; cả người nữa. Khi đổi
sang dịch vụ chở khách, lão dựng một cái rạp giữa chiếc shikara, một sự kết hợp
tươi tắn giữa rèm hoa và mái che, thêm nệm cho đủ bộ; và khử mùi con thuyền
bằng hương. Cảnh chiếc shikara của Tai đến gần, rèm bay phấp phới, đối với Bác
sĩ Azizluôn là một hình ảnh tiêu biểu báo hiệu mùa xuân. Những sahib người
Anh sẽ sớm đến đây và Tai sẽ đưa họ đến Vườn Shalimar và Suối Vua, lầm rầm, mũi
nhọn, lưng còng. Lão là phản đề sống cho niềm tin của Oskar-Ilse-Ingrid vào
tính tất yếu của thay đổi... một lão gia tinh kỳ quái và trường tồn của thung
lũng. Một Caliban[8] miền sông nước, hơi quá mê mẩn thứbrandy
Kashmir rẻ tiền.

[8]
Nhân vật trong vở The Tempest (Cơn bão) của Shakespeare.
Caliban sống trên một hòn đảo, bị Prospero chiếm mất và biến thành nô lệ. Sau
này hình tượng Caliban thường được lấy làm ẩn dụ cho người dân bản xứ bị thực dân
đô hộ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3