Tư duy lại tương lai - Chương 15 - Phần 1
“Vũ khí cạnh tranh quyết
định ở thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của lực lượng lao động”
Lester Thurow
THAY ĐỔI BẢN CHẤT CHỦ
NGHĨA TƯ BẢN
Lester Thurow
Giờ
đây chúng ta đã chuyển sang giai đoạn mới trong cuộc cạnh tranh kinh tế toàn
cầu do hai nguyên nhân yếu. Một là hệ thống tư bản chủ nghĩa thời kỳ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đã tới giai đoạn cáo chung. Nó có mục tiêu giúp cho các
nước công nghiệp khác trên thế giới bắt kịp Hoa Kỳ về khoản
tổng sản phẩm quốc gia (GNP) tính theo đầu người. Và mục tiêu này ngày nay đã
đạt, làm thay đổi bản chất của kinh tế thế giới. Hoa Kỳ đã giảm từ 75% tổng sản
lượng công nghiệp thế giới xuống còn 23 – 24% ngày nay.
Nguyên
nhân thứ hai là sự chuyển đổi của hệ thống kinh tế chỉ huy. Trước kia, khoảng
một phần ba nhân loại sống ngoài hệ thống kinh tế tư bản. Nhưng giờ đây một
phần ba nhân loại đó – tức 1,9 tỉ người – đã tham gia vào kinh tế thị trường.
Chắc chắn điều này sẽ tạo nhiều thay đổi trên thế giới.
Lấy
ví dụ điển hình: dầu hỏa. Cách đây 5 – 10 năm chúng ta còn nghĩ Ả Rập Xê út là
nước sản xuất dầu nhiều nhất thế giới. Không đúng. Chính Liên Xô mới là nước
sản xuất nhiều dầu hỏa nhất thế giới nhưng chúng ta không để ý tới vì lúc đó
Liên Xô bán rất ít dầu cho các nước tư bản.
Giờ
đây nếu bạn hỏi nơi nào có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới thì câu trả lời
không phải là Vịnh Ba Tư mà là biển Caspi. Vậy, nếu bạn ở trong ngành dầu khí,
thế giới bây giờ hoàn toàn khác hẳn với thế giới trước kia.
Ø
Những sự phát triển kinh tế này làm thay đổi “luật chơi” ra sao?
“Ván
cờ” đã thay đổi nhưng vẫn chưa có “luật chơi” mới. Hầu hết chúng ta vẫn cố chơi
theo luật cũ đã không còn thích hợp nữa.
Ngày
sau thế chiến, nước Mỹ không hề phải lo lắng gì về địa vị kinh tế của mình.
Nguyên tắc cơ bản của “ván cờ” này là Châu Âu và Nhật phải phục hồi, còn Mỹ thì
lo về các vấn đề quân sự và chính trị ở quy mô thế giới. Nền kinh tế
của Mỹ quá lớn mạnh khiến Washington không phải lo
nghĩ gì về nó. Vì thế chúng ta mới có thị trường tự do. Chúng ta không cần quan
tâm đến nguyên tắc có qua có lại với người Nhật và chúng ta cũng không phải có
những hành động cần phải có trong một thế giới cạnh tranh thực sự.
Chúng
ta đã xây dựng luật lệ cho một thế giới đơn cực. Nhưng thử nhìn điều gì đã xảy
ra: Châu Âu và Nhật đã phục hồi; họ đã trở thành những cường quốc kinh tế theo
đúng nghĩa, đến mức ngày nay họ trở thành đối thủ kinh tế của Hoa Kỳ. Điều này
có nghĩa là chúng ta đã chuyển từ một trạng thái đơn cực qua trạng thái tam cực
hay thế cờ tay ba. Luật chơi đơn cực không thể áp dụng được nữa, hệ thống
thương mại chi phối nền kinh tế thế giới trước kia sẽ không còn chi phối được
nữa trong tương lai.
Ngày
nay, một nền kinh tế toàn khổng lồ đang phát triển và giữa Nhật, Châu Âu và Mỹ
là cuộc chạy đua để thống trị nền kinh tế này. Đây là cuộc chạy đua nước rút.
Một trong ba đối thủ sẽ vượt lên trước dẫn đầu và những người thua sẽ buộc phải
chơi theo luật của người thắng cuộc. Như vậy giai đoạn cạnh tranh mới này –
cuộc đua tranh giữa ba siêu cường kinh tế - sẽ quyết định ai sẽ là bá chủ ở thế
kỷ XXI.
Thực
tế tôi cũng cho là chúng ta đang tiến tới các nền kinh tế khu vực trước khi
tiến tới nền kinh tế toàn cầu. Có hai việc diễn ra cùng lúc. Một là sự rạn nứt
của nhiều nước: Liên Xô cũ, Nam Tư,Canada, Tây Ban Nha. Tại Pháp, người đảo
Corse và người xứBretagne đang đòi độc lập. Ở nước Anh, Đảng Lao Động dự định
sẽ cho người xứ Wales và Scotland được quyền độc lập nhiều hơn nếu Đảng này
thắng cử. Như sự rạn nứt đang xảy ra ở khắp nơi trên quy mô khu vực. Nhưng đồng
thời mọi người lại muốn gia nhập các khối mậu dịch khu vực này. Cộng hòa Séc và
Slovakia không muốn sống chung với nhau nhưng cả hai đều muốn gia nhập Liên
minh Châu Âu.
Do
đó, tôi nghĩ chúng ta sẽ không nhảy vọt tới nền kinh tế toàn cầu mà sẽ từng
bước tiến tới khu vực hóa trước đã. Nói cách khác, là tiến tới tự do mậu dịch
trong vùng và mậu dịch có quản lý giữa các vùng.
Chỉ
số mậu dịch thế giới sẽ cho thấy mậu dịch tự do trong các vùng sẽ tăng lên
trong vòng 10 hay 12 năm tới. Và chúng ta cũng sẽ thấy một sự tăng cường quản
lý giữa các vùng.
Cạnh tranh đối đầu
Trong
tương lai các nhà sử học sẽ nhìn lại thế kỷ XX và xem đây là thế kỷ của sự cạnh
tranh về vị thế, còn ở thế kỷ XXI sẽ là cuộc cạnh tranh đối đầu. Cho phép tôi
giải thích nhận định này.
Nếu
chúng ta trở lại với quan niệm lỗi thời về lợi thế cạnh tranh thì sẽ thấy nó
dựa trên hai yếu tố: sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên và tầm vóc các nhà
máy. Nếu có dầu, bạn sẽ sản xuất dầu khí; nếu có đất nông nghiệp, bạn sẽ sản
xuất nông phẩm. Nếu bạn có nhiều vốn, bạn sẽ sản xuất các mặt hàng cần nhiều
vốn. Như vậy, mọi người đều có một vị thế tự nhiên trong nền kinh tế thế giới.
Họ có phần đất riêng, thế mạnh riêng.
Nhưng
ngày nay có một kiểu cạnh tranh mới xuất hiện. Nếu bạn thật sự tin rằng chúng
ta đang sống ở thời đại “công nghiệp của trí tuệ” – vật liệu mới, vi mạch bán
dẫn, máy điện toán, phần mềm, v.v… - thì những ngành công nghiệp nà không có
“sân nhà tự nhiên”; chúng ta có thể có ở mọi nơi. Nghĩa là ai cũng có thể cạnh
tranh nếu có đủ sức mạnh trí tuệ.
Lúc
này nếu bạn đến bất kỳ quốc gia công nghiệp nào và hỏi: “Hãy cho tôi biết bảy
ngành công nghiệp mà đất nước ông muốn phát triển nhiều nhất”, chắc chắn nước
nào cũng kê cho bạn một danh sách y chang nhau. Cách đây 100 năm không có
chuyện như thế.
Một
danh sách chung sẽ gồm: vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghiệp sản xuất
vật liệu mới, viễn thông, hàng không dân dụng, công nghệ người máy và máy công
cụ, và tất nhiên phải có công nghệ phần cứng và phần mềm. Người Nhật đã liệt kê
bảy ngành này như những ngành công nghiệp mũi nhọn họ sẽ phát triển vào đầu thế
kỷ XXI.
Nhưng
mọi người ai cũng muốn phát triển những ngành như vậy, cho nên mới dẫn tới cạnh
tranh đối đầu. Nhật Bản, Liên minh Châu Âu và Mỹ hiện là những đối thủ tương
đối cân sức cân tài nhau. Cả ba đối thủ này đều cạnh tranh trên cùng một số
ngành công nghiệp nhằm đem lại cho dân mình mức sống đạt đẳng cấp quốc tế trong
nửa đầu thế kỷ XXI.
So với trước kia, sự khác
biệt rõ rệt nhất trong cạnh tranh kinh tế ngày nay là ở chỗ con người tự tạo ra
lợi thế cạnh tranh. Tài nguyên thiên nhiên không còn quyết định nữa.
Nhiều khi không có tài nguyên thiên nhiên lại là một lợi điểm, vì tất cả những
ngành công nghệ cạnh tranh để phát triển trong tương lai hoàn toàn phụ thuộc
sức mạnh của trí tuệ.
Nếu
nói đến nước sản xuất đồng nhiều nhất thế giới thì phải kể đến Chilê vì nước
này có nhiều mỏ đồng nhất. Còn nếu hỏi Hà Lan có sản xuất đồng không thì câu
trả lời là “không” vì Hà Lan không có mỏ đồng. Nhưng người ta có thể sản xuất
phần mềm vi tính ở Hà Lan cũng như ở Bangal, Ấn Độ - một trung tâm sản xuất
phần mềm thế giới. Rõ ràng về công nghiệp kỹ thuật cao, một nước kém phát triển
có thể cạnh tranh được với một nước phát triển, điều mà mới chừng 30 năm trước
đây thôi là không thể nào xảy ra.
Một
hiện tượng khác thường ngày nay, đặc biệt là ở hoa Kỳ là lương thực tế giảm sút
ở một bộ phận lớn cư dân. Cơ bản là vì trong nền kinh tế toàn cầu người ta phải
cạnh tranh với lao động có kỹ năng ở thế giới thứ ba, những người chịu làm việc
với đồng lương rất thấp. Vấn đề là, trước đây ở thế giới thứ ba vẫn có một số
lao động có tay nghề nhưng họ không cạnh tranh được với lao động Mỹ. Nhưng nay
thì họ có thể, nhờ phương tiện giao thông và liên lạc hiện đại.
Nếu
bạn là nhà kinh tế, bạn phải tin vào sự cân bằng yếu tố giá cả về lâu dài.
Trong nền kinh tế toàn cầu, hoặc người làm việc đổ xô đến những nơi trả lương
bổng cao để rồi làm nó giảm, hoặc sản xuất dời đến những nơi trả lương thấp và
rồi làm nó tăng lên. Nhưng sự cân bằng này cũng phải mất nhiều năm vì nó liên
quan tới cả tỉ người trên thế giới.
Trò chơi có kết quả triệt
tiêu
Với
những lợi thế cạnh tranh kiểu cũ sẽ làm cho trò chơi có kết quả lớn hơn 0.
Trong cạnh tranh vị thế, mọi người đều được. Mọi người đều có phần đất riêng để
hoạt động nên không ai bị sạt nghiệp. Nhưng trong cạnh tranh đối đầu thì sẽ có
kẻ được người thua vì tất cả mọi người đều khai thác những ngành công nghiệp
giống nhau, những ngành đem lại lợi nhuận lớn và lương bổng hậu hĩnh. Và có
người thành công có kẻ thất bại. Như vậy trò chơi có kết quả triệt tiêu.
Ví
dụ, nếu Microsoft thống trị ngành công nghiệp phần mềm, thì có nghĩa là một
công ty Nhật sẽ không thể thống trị, sẽ phải “ra rìa”. Nếu tôi và bạn cùng có
đồng, cả hai chúng ta đều có thể sản xuất đồng. Nhưng trong các ngành công
nghiệp mà cần phải giành được vị trí hàng đầu và nhanh chóng tiến lên, có thể
bạn sẽ bị loại, không thu được gì hết.
Mỗi
người có cách cạnh tranh riêng nhưng mọi người đều có chung ý định về ngành nào
cần tập trung và cách để làm được điều đó. Trong nhiều trường hợp có vẻ như có
một cách tự nhiên để đạt được điều đó. Dĩ nhiên, ngành này khác với ngành kia. Nhưng
về cơ bản, vũ khí cạnh tranh quyết định ở thế kỷ XXI là giáo dục và kỹ năng của
lực lượng lao động.
Như
thế nếu bạn chọn công nghệ sinh học thì chiến lược phải là: bạn có đào tạo đủ
số tiến sĩ sinh học chưa? Bởi vì tiến sĩ sinh học là tương đương với công nhân
sản xuất trong các ngành công nghiệp khác. Ngoài ra, cần phải có môi trường
thích hợp cho các ngành công nghiệp này. Ví dụ, người Đức rất khắt khe đối với
công nghệ sinh học bởi vì họ ngại sẽ có kẻ tạo nên quái vật kiểu Franskenstein
trong lọ và sắp sửa để nó xổng ra ngoài! Do vậy chỉ còn cách là để các hãng hóa
dược của Đức như Hechst và Bayer nghiên cứu công nghệ sinh học ở Hoa kỳ. Rõ
ràng là không cần cấm các hãng của Đức nghiên cứu công nghệ sinh học, nhưng cấm
các hãng này thuê người Đức làm.
Chúng
ta cũng sẽ thấy tầm quan trọng là sự chuyển từ công nghệ sản xuất mới sang quy
trình công nghệ mới. Bằng kỹ thuật nghịch đảo, một kỹ sư giỏi có thể tháo bung
một sản phẩm mới và nhanh chóng biết được cách thức chế tạo nó. Nhưng để vận
hành được toàn bộ qui trình sản xuất cần thiết thì không dễ vậy đâu. Vì thế lao
động có kỹ năng sẽ là vũ khí cạnh tranh mạnh trong tương lai. Cóc mạnh trí tuệ
không thôi cũng chưa đủ để làm ra sản phẩm mới bởi vì nó còn cần phải rẻ tiền
nữa, nếu không sẽ bị thua cuộc trước những người có khả năng sản xuất rẻ hơn.
Như các máy quay phim video và máy thu hình video chẳng hạn. Người Mỹ phát minh
ra chúng nhưng cuối cùng chúng ta chỉ có biết sản phẩm của Nhật. Tại sao? Bởi
vì người Nhật có qui trình công nghệ ưu việt hơn.
Do
vậy để cạnh tranh trong tương lai nhất thiết phải có đội ngũ lao động có kỹ
năng làm được các sản phẩm kỹ thuật cao với giá rẻ. Trong tương lai, tất cả sản
phẩm kỹ thuật cao hoặc thông thường đều do các qui trình công nghệ cao làm ra. Vì
vậy, quan điểm chủ yếu của tôi là, cuối cùng, sáng tạo ra sản phẩm chưa đủ mà
cần phải có qui trình sản xuất làm ra sản phẩm rẻ nhất. Bạn phải có một lợi
thế sản xuất thay vì chỉ sáng tạo sản phẩm. Vậy thì, theo một nghĩa nào đó, bạn
cần cả hai.
Như
hãng Intel với các bộ vi xử lý chẳng hạn. Họ có cả công nghệ sản xuất lẫn quy
trình công nghệ. Điều đó có nghĩa là họ luôn vượt lên trước. Nhờ vậy họ thu về
lợi nhuận khổng lồ. Nhưng họ làm thế nào? Dễ hiểu thôi, Intel sản xuất ra vi
mạch “n+1” trong khi các đổi thủ chỉ có thể làm ra các con chip “n”. Chỉ với
“+1” vượt trước các đối thủ, Intel đã thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
Ngược lại, họ sẽ trắng tay nếu chỉ sản xuất chip “n-1”.
Ø
Trong tác phẩm gần đây nhất, quyển Tương lai của Chủ nghĩa Tư bản (The
future of Capitalism), ông viết rằng nền móng của chủ nghĩa tư bản đang lung
lay. Xin ông cho dẫn chứng.
Bằng
chứng khá rõ ràng. Ví dụ Châu Âu, về mặt dân số thì đến nay là nền kinh tế lớn
nhất, đông hơn dân số Hoa Kỳ khoảng 50%. Nhưng tại sao suốt 22 năm qua ở Châu
Âu không tạo thêm việc làm mới? Tỷ lệ thất nghiệp ở Châu Âu gần
12%, thậm chí có quốc gia lên tới 20%. Đây chính là một kiểu đại khủng hoảng.
Nếu
so với Hoa Kỳ thì dĩ nhiên có khác vì GDP bình quân đầu người tăng một phần ba
trong 20 năm qua. Ở Mỹ đã có thêm 38 triệu việc làm mới trong khi ở Châu Âu thì
tuyệt đối không. Nhưng đồng thời 80% lương bổng bị sụt giảm nếu có tính lạm
phát. Câu hỏi tôi muốn đặt ra là làm thế nào thủy triều lên nhưng 80% tàu bè bị
đắm?
Một
thí dụ khác là Mexico, đất nước phát triển rất bài bản về kinh tế. Họ cân đối
ngân sách, họ tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh, họ bãi bỏ các qui định, v.v…
họ làm tất tần tật những gì các nhà kinh tế dạy bảo thế mà vẫn cứ sụp đổ?
Theo
tôi chúng ta thấy nhiều điều bất thường, mà trong quyển Tương lai
của Chủ nghĩa Tư bản tôi cho rằng về cơ bản chúng tương đương với những
“động đất” và “núi lửa phun” về kinh tế. Nói cách khác, những hiện tượng bất
thường này chỉ là những xáo trộn bề mặt của những đổi thay sâu sắc và cơ bản
trong lớp cấu trúc nền móng của thế giới kinh tế.
Tuy
nhiên, những biểu hiện bên trên này rất khác nhau tùy theo vùng, như ở Châu Âu
có khác với ở Hoa Kỳ. Ở Châu Âu, đó là nạn thất nghiệp gia tăng còn ở Mỹ, là
đồng lương sụt giảm. Tuy nhiên, mọi nền kinh tế thay đổi đều do chịu cùng những
động lực cơ bản, và nếu chúng ta muốn hiểu các cuộc “động đất”, “núi lửa phun”
trong kinh tế thì phải xem xét những động lực gây ra chúng.
Trong
sách tôi có chỉ ra năm động lực, tôi gọi chúng là các “địa tầng” kinh tế theo
quan điểm địa chất học. Chúng ta biết, các lớp địa tầng hình thành vỏ trái đất
trôi nổi trên khối magma lỏng. Sự chuyển động của các địa tầng gây nên động đất
và núi lửa phun trào. Vậy thì trong kinh tế, chuyển động của năm
lớp “địa tầng” kinh tế cũng làm ra những biến đổi quan trọng và đang tạo dựng
lại bộ mặt của nền kinh tế toàn cầu.
Một
là sự cáo chung của nền kinh tế chỉ huy. Như đã nói trên đây, trước kia
một phần ba nhân loại sống trong nền kinh tế chỉ huy. Số người này giờ đang
chuyển sang kinh tế thị trường, là cả một vấn đề lớn cần giải quyết.
Hai
là chúng ta đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên thiên
nhiên sang nền kinh tế công nghiệp dựa vào sức mạnh trí tuệ dẫn đến một môi
trường hoàn toàn khác biệt.
Ba
là về dân số. Dân số toàn cầu đang gia tăng, chuyển dịch, và già đi. Tới
năm 2025, tại các nước công nghiệp lớn, đa số cử tri bầu phiếu sẽ ở độ tuổi
trên 65. Điều này sẽ làm thay đổi về xã hội học, tâm lý học, kinh doanh, ngân
sách nhà nước, nói chung là tất cả mọi thứ. Lần đầu tiên trong lịch sử, thế
giới sẽ tràn ngập người già.
Đồng
thời cũng lần đầu tiên chúng ta có nền kinh tế thật sự mang tính toàn cầu, chúng
ta sẽ có thể sản xuất và bán bất cứ thứ gì ở bất cứ đâu trên thế giới. Đây là
tảng “địa tầng” thứ tư.
Năm
là, lần đầu tiên từ 200 năm qua chúng ta sẽ không có một thế giới đơn cực
với một cường quốc thống lĩnh về kinh tế, chính trị và quân sự như Đế quốc
Anh ở thế kỷ XIX và Mỹ ở thế kỷ XX. Không còn thế lực bắt chúng ta phải hành
động theo ý của họ: “Ta là thẩm quán; ta cũng là cảnh sát; ngươi phải làm theo
lời ta.” Chúng ta sẽ có một bàn cờ kinh tế thế giới mà không ai có quyền áp đặt
cách chơi, và như thế sẽ có một cuộc chơi
Theo
địa chất học, các tầng lục địa nổi trôi trên khối magma lỏng trong lòng đất.
Theo kinh tế học, các “tầng” chuyển động do các dòng cường lưu công nghệ và hệ
tư tưởng. Chính những dòng cường lưu này sẽ làm rung chuyển nền tảng của chủ
nghĩa tư bản ở thế kỷ XXI, bởi vì công nghệ và hệ tư tưởng đang tách rời nhau.
Có
thể minh họa điều trên bằng nhiều cách. Một thí dụ: công nghệ đang làm cho kiến
thức và kỹ năng con người trở thành những lợi thế cạnh tranh bền vững. Vì vậy,
là một xí nghiệp, bạn phải lo làm cách nào để giữ những lợi thế này cho mình,
đồng thời lại tiến hành sự rút gọn tổ chức. Như thế há chẳng phải là bạn không
muốn người làm việc trung thành với công ty sao? Vậy là công nghệ và hệ tư
tưởng đi theo hai đường nghịch chiều nhau. Ở đây tôi muốn nói tới sự cần thiết
đầu tư xây dựng những cái như cơ sở hạ tầng, nghiên cứu và phát triển, giáo
dục, nhưng về hệ tư tưởng thì chúng ta lại không muốn có sự can thiệp của nhà
nước. Một kiểu chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở cá nhân có hình thức “cái phù
hợp nhất sẽ tồn tại” ngược với một tư tưởng cho rằng cần có sự đầu tư để phát
triển cộng đồng để tiến hành chủ nghĩa tư bản.
Chúng
ta cũng không biết sự việc trên sẽ đưa chúng ta đi đâu vì chúng ta đã tạo nên
cái mà các nhà sinh học gọi là sự cân bằng ngắt quãng: môi trường đột nhiên
thay đổi và loài sinh vật có nhiều trước đó biến mất, nhường chỗ cho loài sinh
vật khác. Trong sáchTương lai của Chủ nghĩa Tư bản tôi có thí dụ về loài
khủng long và loài động vật có vú. Chúng ta biết điều gì xảy ra trong thời kỳ
cân bằng ngắt quãng nhưng không ai có thể tiên đoán loài động vật có vú sẽ tồn
tại.
Nói cách khác, chúng ta
biết rõ các động lực quyết định tương lai của chủ nghĩa tư bản nhưng chúng ta
không đoán nổi tương lai chính xác sẽ nhế nào bởi vì không do số phận mà do
chính những gì chúng ta làm.
Đó
chính là lý do tôi dùng địa chất để giải thích. Rõ ràng chúng ta rất hiểu biết
về các địa tầng nhưng chúng ta không biết lúc nào có địa chấn và núi lửa phun.
Và nhờ hiểu biết về địa tầng nên ít ra chúng ta bắt đầu hiểu do đâu mà động vật
có vú chứ không phải loài khủng long sẽ tồn tại.
Lúc
này chúng ta không biết chính xác cái gì sẽ đến. Chủ nghĩa Tư bản sẽ vẫn tồn
tại nhưng dưới hình thức rất khác. Không ai biết chính xác một thế giới do sức
mạnh trí tuệ điều khiển sẽ khác với thế giới của máy hơi nước như thế nào.
Không ai biết chính xác thế giới sẽ như thế nào một khi ta có thể liên lạc toàn
cầu trong nháy mắt.
Ví
dụ, bạn sẽ tổ chức xí nghiệp như thế nào, đặt văn phòng ở đâu, nhà máy, xưởng ở
đâu, người nào phải báo cáo cho người nào, v.v… Nếu nhìn vào hầu hết các tổ
chức kinh doanh hiện tại ta sẽ thấy có nhiều thứ có từ thời kỳ xe hỏa của thế
kỷ XIX: lệnh phát ra từ trên xuống, dưới báo cáo lên trên, tổng hành dinh của
công ty, nhân viên thi hành mệnh lệnh cấp trên, thời khóa biểu, máy bấm giờ.
Nhưng thế giới đã thay đổi nhiều kể từ thời ấy và trong tương lai chắn chắn các
tổ chức công ty sẽ khác hẳn.
Công
nghệ hiện đại cho phép chúng ta tổ chức kinh doanh theo nhiều cách mới. Thử
nhìn vào tòa nhà văn phòng. Lúc này bạn bước vào bất cứ tòa nhà văn phòng nào
trên thế giới giả sử lúc 10 giờ 35 phút sáng bạn sẽ thấy có khoảng 25 – 30% các
ghế đều trống vì những người ngồi đó đã đi làm việc khác rồi, có thể đi họp,
bán hàng, liên hệ công tác. Với công nghệ hiện đại, bạn sẽ không có thứ gì bỏ
trống không dùng, không gian, máy vi tính, điện thoại. Bạn có thể điều hành một
tòa cao ốc văn phòng như thể một khách sạn. Bạn bước vào tòa nhà lên bảng chỉ
dẫn điện tử cho biết phòng 1021 còn trống và bạn tới phòng 1021. Bạn có số điện
thoại riêng. Bạn mở mã số máy vi tính. Chỉ cần nhấn nút và hình ảnh gia đình
bạn lộ ra trên màn hình treo tường. Phòng này sẽ là văn phòng của bạn cho tới
khi bạn bước ra. Nhưng tại sao hiện nay chúng ta chưa làm như vậy: con người
đều muốn có một cái hang riêng. Công ty đầu tiên tiến tới sử dụng văn phòng như
mô tả thì có thể tiết kiệm 25% mặt bằng dùng làm văn phòng, 25% điện thoại, 25%
máy vi tính. Đó sẽ là những nhà sản xuất chi phí thấp và những nhà sản xuất
chi phí thấp này sẽ thừa hưởng trái đất này.
Như
thế trong tương lai mọi cái chúng ta làm sẽ khác hiện giờ nhưng chúng ta vẫn
chưa rõ chúng sẽ ra sao.
Những đe dọa mới đối với
chủ nghĩa tư bản
Sự
đe dọa mới nhất cho chủ nghĩa tư bản không phải là một chủ nghĩa mới mà là sự
tan rã từ ngoài vào tới trong lõi. Thử nhìn sự tan rã kinh tế: tôi muốn nói tới
Catalonia, xứ Basque, người vùngBretagne. Và dĩ nhiên bạn cũng thấy điều đó xảy
ra ở Hoa Kỳ. Nếu nhìn vào “Hiệp ước nước Mỹ” bạn sẽ thấy về cơ bản đó là một đề
xuất tạo lập 50 nền kinh tế khác nhau. Hãy để mọi thứ đều do tiểu bang quyết
định ngoại trừ vấn đề quốc phòng. Như thế có những bang nghèo cũng như bang
giàu và sẽ không có nền kinh tế chung của cả nước Mỹ. Sẽ có kinh tế của bang
New York, kinh tế của bang California và của mỗi tiểu bang. Tôi nghĩ kiểu này
sẽ không tồn tại lâu nhưng là điều đang diễn ra khắp toàn cầu.
Một
điều khác mà ta thấy ở mọi nơi trên thế giới là sự bấp bênh về kinh tế dẫn đến
trào lưu chính thống về tôn giáo. Một khi thất bại về kinh tế, người ta sẽ dễ
dàng trở về với trào lưu chính thống tôn giáo. Ví dụ như nhóm người Tự do
(Freemen) ở Jordan, bang Montana. Họ đã gặp gỡ báo
chí thế giới và Mỹ. Tất cả đều phá sản không xu dính túi. Các trại chăn nuôi bò
của họ bị tịch biên và vì thế họ tỏ ra thù địch với chính phủ. “Không ai được
phép lấy nông trại của tôi”, họ tuyên bố dựa vào giáo điều Cơ đốc và thế là họ
tự cho mnh quyền chống lại chính phủ: họ sẵn sàng bắn nhân viên chính phủ và
tách ra khỏi Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.